Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tác hại của rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng tại các ngân hàng cổ phần pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.91 KB, 41 trang )

Lời nói đầu
Trong cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta xuất phát điểm từ một nước có nền
kinh tế lạc hậu nghèo nàn về mọi mặt. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là đổi mới
nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nó quyết định sự thành công của công
cuộc đổi mới do Đảng ta khởi sắc.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng - sản phẩm của nền kinh tế
hàng hoá cũng đã, đang vận động kịp thời để thích nghi với điều kiện mới. Hoạt động
Ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế.
trong sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói
riêng đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng hoàn thiện
một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển bền vững.
Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu, chiếm tỷ
trọng lớn khoảng 80%, đây là nghiệp vụ tạo ra khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của
ngân hàng. Song rủi ro từ nghiệp vụ tín dụng là rất lớn, nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào,
làm sai lệch đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể đưa ngân
hàng đến chỗ phá sản. Sự phá sản của ngân hàng là một cú sốc mạnh không chỉ gây
ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội. Chính vì vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và hiểu rõ rủi ro,
đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc đánh giá đúng thực trạng rủi ro tín dụng để tìm ra các
biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một yêu cầu cấp thiết, đảm bảo an toàn và
hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Chính vì lý do trên, cùng với sự mong muốn góp sức cho sự phát triển của Ngân hàng
công thương Lưu xá nói riêng và của đất nước nói chung, với kiến thức lý luận cơ bản
tiếp thu được ở nhà trường, thực tế công tác tại chi nhánh Ngân hàng công thương Lưu
Xá, được sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô, chú trong chi nhánh, đặc biệt là sự giúp
đỡ của thầy giáo TS Đỗ Quế Lượng. Em mạnh dạn chọn đề tài "Ảnh hưởng của rủi ro
tín dụng và một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng
Công thương Lưu Xá Thái Nguyên " làm luận khoá tốt nghiệp.
Chương I: Tín dụng và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường.


Chương II: Thực trạng công tác tín dụng tại Ngân hàng công thương Lưu Xá Thái
Nguyên.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh
ngân hàng công thương Lưu xá - Thái Nguyên.
Chương I: Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
i. Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trongnền
kinh tế thị trường
1. Ngân hàng thương mại
1.1. Định nghĩa
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu
là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền gửi đó để
cho vay đầu tư, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức môi giới trên thị trường
tài chính ngày càng phát triển về số lượng, quy mô, hoạt động đa dạng, phong phú và
đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức môi giới
tài chính khác là ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là
tiền gửi không kỳ hạn, chính từ điều kiện đó đã tạo cơ hội cho ngân hàng thương mại
có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống Ngân hàng của mình.
Đó cũng là đặc trưng cơ bản để phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng.
1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại với sự phát triển của nền kinh tế
Thứ nhất: Với chức năng chung gian tài chính, ngân hàng là nơi cấp vốn cho nền kinh
tế.
Thứ hai: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, hoạt
động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách
quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Thứ ba: Ngân hàng thương mại là một chủ thể tạo sự tác động trực tiếp của những
công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buôc, thị trường mở các Ngân hàng thương mại đã
góp phần mở rộng và thu hẹp khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông để ổn định giá
trị đồng tiền cả về mặt đối nội và đối ngoại.

Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
2. Tín dụng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng được coi là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người có vốn và người thiếu
vốn với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là Ngân hàng, một
tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, các
nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay. Với tư cách là người đi vay ngân hàng, huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các cá nhân
hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong
xã hội.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng.
2.2. Các hình thức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng, dựa vào các tiêu
thức khác nhau ta sẽ có các hình thức tín dụng khác nhau.
* Theo thời gian tín dụng thì tín dụng được chia làm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm 12 tháng trở xuống,
thường được cho vay bổ xung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh
nghiệp, cá nhân và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, hộ gia
đình.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm. Loại tín
dụng này để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật, mở rộng và sử dụng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 5 năm, loại tín dụng này dùng

để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, tín
dụng dài hạn có giá trị lớn có thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
* Theo đối tượng đầu tư thì tín dụng được chia làm 2 loại:
- Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn lưu động của
doanh nghiệp hay cho vay để bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời, loại tín
dụng này thường được chia thành các loại cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí
sản xuất và cho vay để thành toán các khoản nợ dưới hình thức khấu trừ chứng từ có
giá.
- Tín dụng vốn cố định là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành nên vốn cố định của
doanh nghiệp. Loại tín dụng này thường ược sử dụng cho nhu cầu đầu tư mua sắm tài
sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất xây dựng các công trình
mới, thời hạn cho vay đối với loạitín dụng này là trung hạn và dài hạn.
Ngoài ra để phân loại tín dụng người ta còn căn cứ vào:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng là cho vay bất động sản, cho vay thương
mại dịch vụ, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng.
- Căn cứ vào tính chất bảo đảm của tín dụng gồm tín dụng có bảo đảm và tín dụng
không có bảo đảm.
- Căn cứ vào hình thái gia trị tín dụng là cho vay bằng tiền hay cho vay bằng tài sản.
- Căn cứ vào mức lãi suất, người ta phân biệt tín dụng thương mại và tín dụng ưu đãi.
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả có các hình thức cho vay trả góp, cho vay phí trả
góp và cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
Việc phân loại tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tín dụng ở ngân
hàng giúp ngân hàng xác định được cơ cấu cho vay có phù hợp với tính chất nguồn
vốn của ngân hàng hay không, có bảo đảm an toàn không.
ii. rủi ro tín dụng của nhtm trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh càng quyết liệt, nguy cơ rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng càng rễ phát sinh. Mặc dù rủi ro luôn sảy ra nhưng hoạt động của
ngân hàng vẫn luôn phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
mỗi nước.
1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

Hoạt động của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường là một hoạt
động rất nhạy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế xã hội đèu nhanh chóng tác động
đến hoạt động ngân hàng.
Rủi ro là sự kiện xẩy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như hoạt động nào của ngân hàng thương mại cũng
có rủi ro. Rủi ro thường dẫn đến thiệt hại và thua lỗ. Do vậy nhận thức rõ rủi ro, đề ra
những biện pháp phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là vấn đề cấp
bách của mỗi ngân hàng.
Khi xem xét rủi ro, người ta thường chú ý đến yếu tố chi phí, tổn thất và thua lỗ. Cụ
thể:
- Chi phí: Chi phí hoạt động của ngân hàng là yếu tố không thể thiếu để thực thi các
nghiệp vụ. Các chi phí cho hoạt động của ngân hàng thường bao gồm; Chi phí trả l•i
xuất cho người gửi tiền, lãi tiền vay cho các tổ chức tín dụng, tiền lương của cán bộ
ngân hàng, chi phí mua sắm các phương tiện làm việc và chi phí nghiệp vụ khác. Rủi
ro có thể xảy ra dưới các dạng như phải nâng cao lãi xuất tiền gửi do sự biến động của
thị trường tiền tệ, tăng lãi xuất cho vay của các tổ chức tín dụng, các khoản chi phí ảnh
hướng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng, bắt buộc ngân hàng phải thực hiện một
số biện pháp phù hợp
- Về thua lỗ: Sự thua lỗ biểu hiện dưới hình thức không đạt được thu nhập như dự kiến
hay chi vượt dự toán mà thu nhập không thể bù đắp được.
- Về tổn thất: Sự tổn thất của ngân hàng có thể hiểu là thiệt hại về vật chất và uy danh
của ngân hàng. Tổn thất là chỉ tiêu đặc trưng cho các rủi ro của ngân hàng nên nó được
dùng để đánh giá mức độ rủi ro và chất lượng của chiến lược trong lĩnh vực rủi ro.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói riêng
không thể tránh khỏi rủi ro. Đối với một ngân hàng, việc kiểm soát rủi ro là quá trình
phối hợp giữa những hoạt động nghiệp vụ, giữa những chính sách nội bộ, giữa những
thoả thuận hợp đồng với các cơ quan bảo hiểm. Cũng như tiến hành các biện pháp tự
bảo hiểm và các biện pháp khác để giảm bớt đi các chi phí, các thiệt hại bất ngờ, kể cả
vào lẩn tránh sợ phá sản của Ngân hàng.

2. Rủi ro tín dụng và hậu quả của rủi ro tín dụng
2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro do 1 hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện được các
nghĩa vụ tài chính với ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên sảy ra và
thường gây hậu quả nặng nề nhất. Rủi ro tín dụng xảy ra ở cả hai khâu huy động vốn
và cho vay vốn.
- Rủi ro ở khâu huy động vốn: ở khâu này thường xảy ra một trong hai trường hợp,
thừa hoặc thiếu vốn.
Trường hợp thừa vốn tức là vốn bị ứ đọng không cho vay và đầu tư được, vì vậy
không sinh lãi trong khi có ngân hàng vẫn phải trả lãi hàng ngày cho người có tiền gửi
vào ngân hàng.
Trường hợp rủi ro thiếu vốn sảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu do
vay đầu tư, nhu cầu thanh toán của khách hàng.
- Rủi ro ở khâu cho vay: Hoạt động cho vay là hoạt động lớn nhất và chủ yếu của ngân
hàng thương mại, thông thường ở các nghiệp vụ này mang lại 2 / 3 thu nhập cho ngân
hàng còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại
thường chiếm 90% tổng thu nhập của mỗi ngân hàng. Nhưng trong lĩnh vực này cũng
chứa nhiều rủi ro bởi các khoản tiền vay bao giờ cũng có xác xuất vỡ nợ cao hơn với
những tài sản có khác.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có
thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Rủi ro tín dụng nếu không được phát hiện và sử
lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác.
2.2. Hậu quả của rủi ro tín dụng.
Từ khái niệm về rủi ro tín dụng ta thấy rằng rủi ro tín dụng là kết quả của mối quan hệ
tín dụng không hoàn hảo, vi phạm các đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự hoàn trả và
tính thời hạn, gây nên sự đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng với người nhận tín
dụng. Về bản chất, đây là loại rủi ro đa dạng và phức tạp, rất khó quản lý và thường
xuyên là nguyên nhân dẫn đến rủi ro khác, rủi ro tín dụng của một ngân hàng thể hiện
ra bên ngoài chính là khối lượng nợ quá hạn mà ngân hàng đó phải gánh chịu.
Khi rủi ro tín dụng nảy sinh, tuỳ theo mức độ mà nó gây ra những tác hại nghiêm trọng

không chỉ với hệ thống ngân hàng, với người vay và còn cả với nền kinh tế và xã hội.
Trước hết, đối với ngân hàng thương mại. ở mức độ thấp rủi ro tín dụng là mất đi cơ
hội, khả năng tích luỹ vốn, làm giảm sức mạnh của ngân hàng.
Đối với người đi vay. Thông thường rủi ro tín dụng là hệ quả của rủi ro kinh doanh của
khách hàng. Với nợ quá hạn người đi vay hoàn toàn mất nguồn tài trợ từ các ngân
hàng, cơ hội kinh doanh sẽ tuột mất, tài sản sẽ bị tịch thu hoặc phát mại, người đi vay
sẽ đứng trước nguy cơ phá sản.
Đối với nền kinh tế xã hội. Rủi ro tín dụng chứng tỏ người vay vốn đã không thực hiện
được hiệu quả đầu tư như đặt ra khi vay vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại. Do đó
lợi ích kinh tế xã hội dự kiến nhận được đã không có. sản xuất và lưu thông hàng hoá
sẽ đình trệ, chức năng làm công cụ điều tiết nền kinh tế sẽ bị suy yếu. Quyền lợi của
người gửi tiền sẽ không được đảm bảo.
Lịch sử hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thế giới đã chứng kiến không ít
các Ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong một
quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực thậm chí là cả châu lục.
3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng và nguyên nhân của nó
3.1. Biểu hiện của rủi ro tín dụng
Khi tiến hành cấp tín dụng các ngân hàng thương mại đều mong muốn khoản tín dụng
được hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn như đã thoả thuận. Chính vì thế, sau khi cấp tín
dụng cho khách hàng NHTM thực hiện theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay của
họ. Nếu thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích hoặc có sự khác thường có thể dán
đến việc không hoàn trả được vốn vay của khách hàng, NHTM phải tìm biện pháp
ngăn ngừa, can thiệp kịp thời. Các biểu hiện thường gặp là:
- Khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính hoặc không cung cấp được những thông
tin mà ngân hàng yêu cầu.
- Sử dụng tín dụng sai mục đích ban đầu
- Số tiền gửi giảm sút.
Lưỡng lự chậm chễ khi dàn xếp những cuộc viếng thăm cơ sở sản xuất kinh doanh của
cán bộ ngân hàng, có sự suy giảm trong bầu không khí tin cậy và hợp tác, có sự lạnh
nhạt với ngân hàng ngay sau khi nhận được vốn vay.

- Khách hàng có ý xin hoãn nợ hoặc khất nợ, gia hạn nợ, chậm chễ trong việc thanh
toán lãi hàng kỳ, hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá kỳ hạn, không được trả
như cam kết.
Các dấu hiệu trên đây là biểu hiện của những khó khăn về mặt tài chính từ phía người
đi này, các dấu hiệu này xuất hiện là có khả năng khách hàng khó hoàn trả các món
vay. Vì vậy, chúng là cơ sở để ngân hàng tìm hiểu biện pháp điều chỉnh và ngăn chặn
kịp thời, tránh những khoản nợ quá hạn có thể gây rủi ro tín dụng.
3.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nguyên nhân gây ra rủi ro trong kinh doanh tín dụng có rất nhiều, rất đa dạng, muôn
hình muôn vẻ, song nhìn chung chúng được xếp vào các loại chính như sau:
a. Nguyên nhân chung
Rủi ro bất khả kháng. Do sự biến động về kinh tế, do thiên tai bão lụt, chiến tranh
Do sự không cân xứng về thông tin, ngân hàng không được cung cấp các thông tin cần
thiết về khách hàng dẫn đến:
- Sự lựa chọn đối nghịch: Tức ngân hàng quyết định cho vay với khách hàng không đủ
khả năng trả nợ.
- Rủi ro đạo đức. Khách hàng có những hành động vi phạm những thoả thuận với ngân
hàng như khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích.
- Do sự thay đổi về chính sách của Nhà nước. Các chính sách về ngoại tệ, xuất nhập
khẩu, ngoại hối.
- Do sự thay đổi về chính trị.
- Môi trường pháp lý. Không đồng bộ, không đầy đủ, việc thực thi pháp luật còn chưa
nghiêm.
b. Nguyên nhân từ phía khách hàng
- Đối với khách hàng là cá nhân:
Người vay bị thất nghiệp (có thể tạm thời hay kéo dài) dẫn đến không có thu nhập và
không đảm bảo được khả năng trả nợ.
Do những biến cố bất thường trong cuộc sống gây khó khăn cho khách hàng như: ốm
đau, tai nạn, chết, li dị
Do người vay hoạch định ngân quỹ không chính xác

- Đối với khách hàng là doanh nghiệp thì trong hoạt động của doanh nghiệp có nhiều
mối quan hệ như quan hệ với người cung cấp, với người tiêu thụ, với ngân hàng
Rủi ro do thị trường cung cấp:
Do thị trường cung cấp không có khả năng cung cấp đủ số lượng nguyên vật liệu mà
doanh nghiệp yêu cầu.
Thiệt hại về giá cả, khi giá cả nguyên vật liệu cung cấp cho doanh nghiệp không đáp
ứng về các yêu cầu, phẩm chất, quy cách.
Rủi ro do thị trường tiêu thụ:
Sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra có số lượng quá lớn vượt nhu cầu thị trường
(Do khâu nghiên cứu thị trường thực hiện chưa tốt) nên số lượng hàng hoá lớn làm ứ
đọng sản phẩm trong kho ;
Thiệt hại về giá: Doanh nghiệp buộc phải giảm giá bán sản phẩm hàng hoá thấp hơn
mức giá dự kiến ban đầu.
Thiệt hại về chất lượng sản phẩm hàng hoá do doanh nghiệp cung cấp không đáp ứng
được yêu cầu thị trường. Do công nghệ không phù hợp, do khâu bảo quản không tốt,
do hao mòn vô hình, do người tiêu dùng thay đổi thị hiếu làm cho sản phẩm không bán
được, hoặc khó bán. Vì thế doanh nghiệp khó có khả năng trả nợ.
+ Rủi ro do yếu kém về tài chính: thể hiện doanh nghiệp không thể đối phó với các
nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho chủ nợ.
c. Nguyên nhân rủi ro do bản thân ngân hàng.
Do chính sách vay của ngân hàng không hợp lý, quá chú trọng về mục tiêu lợi nhuận
nên bỏ qua những khoản cho vay lành mạnh.
Do ngân hàng không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không chính xác việc phân tích
đánh giá khả năng tín dụng của người vay. Do cán bộ tín dụng thiếu trình độ chuyên
môn cần thiết, do cán bộ tín dụng thiếu tinh thần trách nhiệm.
Ngân hàng đã quyết định cho vay chỉ dựa trên cơ sở quy mô hoạt động của doanh
nghiệp mà không căn cứ vào khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Do ngân hàng không thường xuyên thực hiện việc kiểm tra giám sát khách hàng trong
quá trình sử dụng tiền vay.
Cán bộ tín dụng có tư cách phẩm chất không tốt cố tình làm sai nguyên tắc trong quá

trình thực hiện cho vay.
Nguyên nhân rủi ro trong việc thực hiện các đảm bảo tín dụng:
- Do ngân hàng thực hiện không tốt việc đánh giá, đảm bảo tín dụng, thực hiện không
đầy đủ theo các quy định của pháp luật (tài sản có đủ điều kiện pháp lý, phải có tính
thị trường, có giá trị ổn định)
- Do giá trị của tài sản biến động giảm quá mức dựkiến của ngân hàng.
4. Các nghiệp vụ phòng chống rủi ro tín dụng
4.1- Phân tích khách hàng:
Đây là biện pháp tích cực nhất nhằm hạnc hế và phòng chống rủi ro. Bởi có đánh giá
đúng khách hàng thì mới biết được khả năng hàon trả nợ của họ. Đánh giá khách hàng
thường dựa vào các mặt sau:
- Đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.
- Đánh giá tư cách, năng lực và trình độ hiểu biết của người đứng đầu doanh nghiệp.
- Đánh giá tính khả thi của phương án xin vay
- Phân tích khả năng trả nợ của khách hàng
- Thực hiện các biện pháp đảm bảo tiền vay
- Trình độ cán bộ tín dụng và khả năng kiểm tra, kiểm soát khách hàng trong việc sử
dụng vốn vay.
4.2.Phân tán rủi ro:
Trong cơ chế thị trường , ngân hàng thương mại không nên dồn vốn đầu tư vào một
hoặc vài khách hàng, cho dù khách hàng đó kinh doanh có hiệu quả, Bởi vì nếu khách
hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
NHTM. Vì vậy cần phải tổng trọng giới hạn an toàn,
ở khắp các nước người ta đều quy định giới hạn an toàn ở Việt Nam, căn cứ vào luật ở
các tổ chứcc tín dụng từ 01/10/1998 quy định: "Dư nợ một khách hàng không được
vượt quá 15% vốn của ngân hàng". "Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng tỷ
lệ giữa vốn tự có với tài sản có, kể cả các cam kết ngoại bang được điều chỉnh theo
mức độ rủi ro"
Cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ là quá trình cho vay, bảo lãnh của mộ
nhóm ngân hàng thương mại làm đầu mối phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện

nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và ngân hàng.
4.3. Bảo hiểm tín dụng.
Bảo hiểm tín dụng là biện pháp quan trọng nhằm san sẻ rủi ro. Bảo hiểu tín dụng có
thể thực hiện dưới các loại như: Bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo
hiểm tiền vay. ở các nước, bảo hiểm tín dụng thường được thực hiện dưới dạng khách
hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh.
4.4. Trích lập dự phòng rủi ro.
Trích lập dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để phòng
chống rủi ro. ở hầu hết các nước trong hoạt động của ngân hàng đều thành lập quỹ dự
phòng bù đắp các khoản cho vay bị rủi ro và quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động của
ngân hàng.
Quỹ dự phòng rủi ro được sử dụng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng làm ăn
thua lỗ do nguyên nhân khách quan mang lại.
Luật các tổ chức tín dụng (điều 82. Dự phòng rủi ro) có quy định: "tổ chức tín dụng
phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng; Khoản dự phòng rủi ro này phải được
hoạch toán vào chi phí hoạt động; Việc phân loại tài sản có mức trích, phương pháp
lập khoản dự phòng và sử dụng khoản dự phòng để sử lý các rủi ro do thống đốc ngân
hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với bộ trưởng tài chính".
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương lưu xá
Thái Nguyên
i. khái quát về chi nhánh ngân hàng công thương lưu xá Thái Nguyên.
1. Về chức năng nhiệm vụ và mô hình tổ chức của chi nhánh Lưu Xá
Từ khi ra đời toàn bộ cán bộ công nhân viên của chi nhánh Ngân hàng công thương
Lưu Xá ý thức được hoạt động kinh doanh của mình là "Đi vay để cho vay" nên trong
những năm qua đã đạt được những Thành tích đáng kể góp phần đắc lực cho sự phát
triển kinh tế tỉnh Thái Nguyên, uy tín của NHCT Thái Nguyên ngày càng được nâng
cao.
Là chi nhánh trực thuộc NHCT Thái Nguyên, NHCT Lưu xá với chức năng nhiệm vụ
thực hiện tốt các nghiệp vụ ngânhàng trong phạm vi được NHCT Thái Nguyên uỷ

quyền, hoạt động kinh doanh chủ yếu trên 7 phường xã khu vực phái nam Thành phố
Thái Nguyên và có 3 Công ty lớn: Công ty Gang Thép Thái Nguyên, Công ty Kim loại
màu Thái Nguyên, Công ty điện luyện kim cùng một số xí nghiệp phụ thuộc của Công
ty xây lắp và Công ty vật liệu xây dựng.
Với nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn tiền tệ nhàn rỗi của mọi tầng lớp dân cư bằng
Việt Nam đồng và của các tổ kinh tế xã hội, các doanh nghiệp sống trên địa bàn để cho
vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam. Đối với các thành phần cá
nhân và hộ gia đình Tập trung vốn để phục vụ các doanh nghiệp Nhà nước phát
triển kinh doanh trên địa bàn như Công ty Gang Thép Thái Nguyên, và các đơn vị phụ
thuộc. Công ty kim loại màuThái Nguyên ngoài ra chi nhánh còn thực hiện các
nghiệp vụ như dịch vụ thanh toán chuyển tiền trong và ngoài hệ thống NHCT Mọi
hoạt động của chi nhánh đều tuân theo luật các tổ chức tín dụng và pháp luật hiện
hành.
Với phương châm kinh doanh: Vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh
nghiệp, lấy sự thành đạt của khách hàng là sự thành công của chính mình. Trong hoạt
động kinh doanh đảm bảo: An toàn - nhanh chóng - hiệu quả.
Chi nhánh Lưu Xá có 25 người, có 1 ban giám đốc (4 người), 5 phòng và 4 quỹ tiết
kiệm như sau:
Mô hình tổ chức của ngân hàng công thương Lưu Xá
2. Công tác huy động vốn
Bằng nhiều biện pháp và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nên kết quả vốn huy
động tăng liên tục, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể như sau:
Bảng 1: Kết quả huy động vốn
(Đơn vị : Triệu đồng VN)
Chỉ tiêu 2002 2003 So sánh 2003/2002
Tổng huy động vốn 193.748 100 213.450 100 19.702 116
* Phân theo khách hàng
Tiền gửi các tổ chức kinh tế 142.325 74 160.062 75 17.737 112
Tiền gửi dân cư 51.423 26 53.388 25 1.965 103
* Phân theo tính chất

- Tiền gửi không kỳ hạn 102.346 31 110.109 36 7.763 107
- Tiền gửi có kỳ hạn 161.312 69 193.225 63 31.913 119
* Phân theo loại tiền
- Tiền gửi nội tệ 164.027 57,6 175.213 56,1 11.186 107
- Tiền gửi ngoại tệ 120.701 42,2 137.239 43,9 16.538 113
(Nguồn số liệu: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001 - 2003)
Qua bảng số liệu ta thấy vốn huy động của chi nhánh ngân hàng công thương Lưu xá
trong những năm qua có mức tăng trưởng cao đã đưa vốn huy động của ngân hàng:
- Năm 2002 từ 193.748 tr đồng tăng lên 213.450tr đồng vào năm 2003. Huy động vốn
năm 2003 tăng 19.702 triệu đồng đạt mức tăng 16% so năm 2002 213.450 tr. đồng
- Trong cơ cấu phân theo khách hàng thì tiền gửi các TC kinh tế đạt 160.062 tr chiếm
75% trong tổng số vốn huy động tăng, 17.737 tr đồng (6%) so với năm 2002. Trong đó
tiền gửi dân cư đã tăng 7% đạt 53.388 tr đồng so với năm 2002.
- Nếu phân theo t/v của huy động vốn thì tiền gửi không kỳ hạn năm 2003 đạt
110.109triệu đồng chiếm 36% trong tổng nguồn vốn tăng 7.763 triệu đồng tương
đương 9,6% so với 2002
- Nếu phân theo t/c của huy động vốn thì TG không kỳ hạn năm 2003.
Tiền gửi có KH đạt mức 193.225 chiếm 63% trong tổng số nguồn vốn tăng 31.913 tr
tương đương 4,4% so với 2002.
- Cơ cấu theo thành phần kinh tế thì tiền gửi nội tệ năm 2003 là 175.213 triệu đồng
tăng 11.186 triệu đồng tương đương tăng 4% so với năm 2002. Tiền gửi ngoại tệ đã
quy đổi là 137.239 triệu, tăng 10% so với 2002.
3. Hoạt động cho vay:
Năm 2003 nhờ có nhiều chính sách áp dụng thúc đẩy hoạt động cho vay nên tổng
doanh số cho vay tăng nhiều so với năm 2002 và được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Kết quả cho vay của chi nhánh
(Đơn vị tính: Triệu đồng VN )
Chỉ tiêu 2002 2003 So sánh 2003/2002
1. Tổng doanh số cho vay 308.104 100 382.140 100 74.036 124
- Cho vay ngắn hạn 182.500 59 250.500 66 68.000 137,3

Cho vay trung dài hạn 125.604 41 131.640 34 6.036 104,7
2.Doanh số thu nợ 306.682 100 332.652 100 25.943 108
- Doanh số thu nợ ngắn hạn 174.520 57 197.152 59.3 22.632 112,9
- Doanh số thu nợ trung. dài hạn 132.162 43 135.473 40,7 3.311 102,5
3. Tổng dư nợ 214.761 100 264.429 100 49.488 118
- Dư nợ ngắn hạn 109.246 50,8 136.257 51,5 27.011 116
- Dư nợ trung dài hạn 105.515 49,2 127.992 48,5 22.477 121,3
(Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003)
Tổng doanh thu cho vay đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 tăng 24% so với năm 2002
trong đó cho vay ngắn hạn tăng 37,3% so với năm 2002, cho vay trung và dài hạn tăng
4,7% so với năm 2002.
Doanh số thu nợ năm 2003 tăng 7,7% so với năm 2002 trong đó doanh số thu nợ ngắn
hạn tăng 6,8% và doanh số thu nợ trung và dài hạn tăng 8,5%.
Tổng dư nợ đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 tăng 49.488 tương đương với 22% so với
năm 2002.
Dư nợ ngắn hạn năm 2003 chiếm tỷ trọng 59,3% trong tổng dư nợ
Qua bảng số liệu về tình hình cho vay ta thấy dư nợ ngắn hạn trong 3 năm đều tăng
nhưng mức độ tăng khác nhau.
Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn và trung dài hạn gần sấp sỉ nhau (dư nợ ngắn hạn cao hơn
một chút), đó là kết cấu hợp lý và thuận lợi.
2.2. Các hoạt động khác
* Công tác kế toán:
Một yêu cầu cơ bản trong công tác kế toán đó là năng lực, trình độ vận hành máy,
phần mền ứng dụng để tăng cường công tác quản lý kinh doanh.
Ngân hàng đã ứng dụng được số chương trình phần mềm vào công tác kế toán. Quản
lý chặt chẽ và bảo đảm cập nhật thông tin thương mại, nghiệp vụ kế toán phát sinh đều
được hạch toán, kịp thời và chính xác.
* Thanh toán qua ngân hàng:
Nghiệp thụ thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những nhiệm vụ của ngân
hàng cho đến nay nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã chứng tỏ được nhiều

ưu điểm.
Bảng 3: Kết quả hoạt động thanh toán năm 2001 - 2003
(Đơn vị: Triệu đồng VN)
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Tỷ lệ % so sánh 2003/2002
Tổng doanh thu TT chung 25.542.683 100 27.212.219 100 1.669.536 106
1. Thanh toán bằng tiền mặt 4.786.275 18,8 5.207.043 19,2 420.768 108
2. Thanh toán không dùng tiền mặt 20.756.408 81,2 22.005.176 80,8 1.248.768 106
(Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003)
- Tổng doanh số thanh toán bằng tiền mặt năm 2003 tăng 420.786 triệu đồng
Tỷ trọng tăng khoảng 19,2% so với năm 2002 chiếm trong tổng doanh số thanh toán
nói chung.
Thanh toán không dùng tiền mặt năm 2003 tăng 1.248.768 triệu đồng so với năm
2002, tỷ trọng tăng khoảng 0,6% so với năm 2002 chiếm 80,8% trong tổng doanh số
thanh toán.
ii. thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh nhct lưu xá
1. Nhận dạng các rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHCT Lưu Xá
Rủi ro tín dụng luôn là một vấn đề được quan tâm đặc biệt đối với mọi ngân hàng.
Trên thực tế hầu hết các ngân hàng đều đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa và hạn
chế rủi ro nhưng do rất nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân chủ quan và khách quan,
rủi ro tín dụng vẫn phát sinh gây ra những thiệt hại đối với ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Lưu Xá được thể hiện dưới các
dạng: Nợ chưa đến hạn nợ quá hạn, nợ giãn và nợ khoanh
Nợ chưa đến hạn:
Đó là những khoản nợ mới phát sinh, mới cho vay chưa đến hạn thu nợ. Nợ chưa đến
hạn cũng tiềm ẩn rủi ro. Theo quy định của thống đốc ngân hàng Nhà nước, loại nợ
chưa đến hạn thì tỷ lệ trích nộp dự phòng rủi ro là 0% tức là chưa đến hạn được tạm
coi là chưa có rủi ro, chưa trích lập dự phòng rủi ro.
Nợ quá hạn:
Là khoản vay đã đến hạn trả nợ mà khách hàng chưa trả được đúng như trong hợp
đồng tín dụng, cũng không có lý do chính đáng để xin gia hạn nợ, do đó phải chuyển

sang nợ quá hạn. Đó là một trong 4 loại rủi ro tín dụng nhưng ở mức độ rủi ro khác
nhau, có khả năng thu hồi khác nhau.
Người ta phân chia nợ quá hạn thành 3 loại
- Nợ quá hạn 6 tháng, được xếp loại nợ quá hạn bình thường, có nhiều khả năng thu
hồi, tỷ lệ trích dự phòng rủi ro là 2%. Đây là loại nợ quá hạn thường gặp.
- Nợ quá hạn từ trên 6 tháng đén 12 tháng, được gọi là nợ quá hạn có vấn đề. Khả năng
thu hồi nợ khó khăn hơn, ngân hàng phải mất nhiều công sức để phần tích nguyên
nhân, tìm giải pháp và tăng cường đôn đốc, kiểm tra để thu hồi nợ. Tỷ lệ trích dự
phòng rủi ro là 50%
- Nợ quá hạn trên 12 tháng được gọi là nợ quá hạn khó đòi. Khả năng thu hồi rất khó
khăn, có nhiều phức tạp và phải bằng nhiều biện pháp kể cả phải phát mại tài sản thế
chấp hoặc phải sử dụng cả các biện pháp hành chính, pháp luật mới có hy vọng đòi
được nợ.
Với loại nợ quá hạn khó đòi khả năng tổn thất rất lớn. Vì vậy tỷ lệ trích lập rủi ro là
100%.
Nợ được giãn (gọi tắt là nợ giãn)
Là khoản vay đã đến hạn trả nợ những khách hàng chưa trả được. Ngân hàng Lưu Xá
Thái Nguyên đã gia hạn nợ nhưng khách hàng vẫn không trả được vì những lỹ do
khách quan, ngân hàng Thái Nguyên đã báo cố lên ngân hàng cấp trên và cấp trên
(Chính phủ )dùng quyền hạn của mình để xem xét và cho phép giãn nợ.
Nợ được khoanh (gọi tắt là nợ khoanh)
Là một dạng của rủi ro tín dụng, có những lý do khách quan nên được phép của cấp
trên cho khoanh lại, tách ra, theo dõi riêng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp tục vay
vốn ngân hàng để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Phần lớn các khoản nợ
được khoanh ở chi nhánh NHCT Lưu xá là nợ của một số doanh nghiệp Nhà nước
hoặc doanh nghiệp thuộc công ty Gang thép
Bức tranh phản ánh các loại rủi ro tín dụng ở NHCT Lưu Xá được thấy rõ qua bảng
dưới đây.
Bảng 4: Các dạng rủi ro tín dụng
(Đơn vị tính: Triệu đồng VN )

Tổng dư nợ 214.761 246.429 31.668 114,7
- Nợ chưa đến hạn 168.680 209.629 40.949 124%
- Nợ quá hạn 28.526 21.573 - 6.953 76%
- Nợ giãn 12.414 10.407 - 2.007 84%
- Nợ khoanh 5.141 4.820 - 321 94%
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh)
Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng dư nợ năm 2003 tăng từ 214.761 năm 2002 lên
246.429 vào năm 2003 tức là tăng 36.168 triệu đồng khoảng 27% so với năm 2002.
Trong đó chưa đến hạn năm 2003 là 209.629 triệu đồng tăng 40.949 triệu đồng so với
năm 2002 chiếm 85% tổng dư nợ.
- Nếu nợ quá hạn năm 2002 là 28.526 triệu thì năm 2003 đã giảm xuống còn 21.573
triệu đồng giảm được 4,5% so với năm 2002.
- Nợ giãn cũng giảm dần năm 2002 là 12.414 thì năm 2003 đã giảm xuống còn
10.407triệu đồng giảm được 15% so với năm 2002.
- Nợ khoanh từ 5.141 triệu đồng năm 2002 giảm xuống còn 4.820 triệu đồng năm
2003, giảm 4% so với 2002.
Như vậy tình hình chi nhánh giảm đều qua từng năm, đây là dấu hiệu tốt đẹp trong tín
dụng của chi nhánh.
2. Phân tích tình hình và thực trạng nợ quá hạn
Có thể đi sâu phân tích kỹ nợ quá hạn tại chi nhánh qua bảng dưới đây:
Bảng 5: Tình hình chung về nợ quá hạn tại chi nhánh
(Đơn vị tính: triệu đồng VN )
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 So sánh 2003/2002
Tổng dư nợ 214.761 246.429 31.668 114%
Nợ quá hạn 28.526 21.573 - 6.953 75,6%
Tỷ lệ nợ quá hạn 13,2% 8,7% 4,5% 66%
(Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh )
Qua bảng số liệu trên cho thấy, nợ quá hạn đến 31/12/2003 là 21.573 triệu đồng. Như
vậy là đã giảm được6.953 triệu đồng. Chiếm 8,7% trong tổng dư nợ.
- Sở dĩ nợ quá hạn đã giảm đáng kể là do chi nhánh đã cùng phòng nghiệp vụ thực

hiện nghiêm túc việc đôn đốc thu nợ các đơn vị có nợ quá hạn tồn đọng. Phân công
cán bộ tín dụng và lãnh đạo phòng phụ trách từng đơn vị có nợ quá hạn xây dựng kế
hoạch và thường xuyên đôn đốc thu hồi nợ.
Bảng 6: Phân tích nợ quá hạn theo loại tín dụng và theo thành phần kinh tế.
(Đơn vị tính: Triệu đồng VN )
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 So sánh 2003 / 2002
Tổng số nợ quá hạn 28.526 100 21.573 100 - 6.953 - 75,6
* Theo loại tín dụng
- Nợ quá hạn 18.506 64,8 19.529 90,5 1.023 105
- Nợ trung quá hạn 10.020 35,2 2.044 9,5 - 7.976 20
* Theo thành phần kinh tế
- Kinh tế quốc doanh 17.278 60,5 18.741 87 - 1.463 108
- Kinh tếngoài quốc doanh 10.978 39,5 2.832 13 - 8.146 68
(Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh )
Qua bảng số liệu 6 ta thấy:
- Thứ nhất nếu xét theo loại tín dụng thì nợ quá hạn tại chi nhánh ngày càng tăng nếu
năm 2002 tỷ trọng nợ quá hạn dư chiếm 64,8%. Nhưng đến năm 2003 lại tăng lên
90,5% trong tổng số nợ quá hạn chứng tỏ phần dư nợ cho vay đối với khu vực kinh tế
quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn.
- Năm 2002, có nợ quá hạn là 28.526 triệu đồng trong đó nợ quá hạn khu vực kinh tế
quốc doanh 17.278 triệu đồng chiếm tỷ trọng 60,5% trong tổng nợ quá hạn. Khu vực
ngoài quốc doanh là 10.978 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 39,5% tổng nợ. Nguyên nhân là
do các đơn vị quốc doanh trong địa bàn là những khách hàng chủ yếu của chi nhánh vì
thế nợ quá hạn của các đơn vị này là khá cao nên đẩy nợ quá hạn của khu vực kinh tế
quốc doanh cao hơn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Năm 2003, nợ quá hạn là 21.573 triệu đồng trong đó tập trung vào khu vực kinh tế
quốc doanh 18.741 triệu đồng tức 87% nợ quá hạn. Khu vực kinh tế quốc doanh chiếm
rất nhỏ 13%
Chi nhánh đã tập trung nhiều thời gian và công sức để đôn đốc thu hồi nợ quá hạn tồn
đọng. Tuy nhiên hiệu lực chưa cao do các đơn vị có nợ quá hạn tồn đọng khó khăn về

tài chính việc xử lý để thu hồi nợ gặp khó khăn, nhiều tài sản thế chấp không đầy đủ
căn cứ pháp lý và có nhiều tranh chấp phức tạp.
Bảng 7. Phân tích nợ quá hạn theo thời gian
(Đơn vị tính: Triệu đồng VN )
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 So sánh 2003 / 2002
Tổng số nợ quá hạn 28.562 100 21.573 100 - 6.952 75
1. Nợ quá hạn dưới 180 ngày (NQH bình thường) 10.267 40 10.851 50,3 584 105
2. Nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày (NQH có vấn đề) 12.568 44 10.203 47,3 - 2.365 81
3. Nợ quá hạn trên 360 ngày (NQH khó đòi) 5.727 22 519 2,4 - 4.753 109
(Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh )
- Chi nhánh ngân hàng công thương Lưu Xá đã phân loại nợ quá hạn theo quyết định
rủi ro dưới 180 ngày đến từ 180 - 360 ngày và trên 360 ngày để dễ dàng hơn trong việc
theo dõi tình hình và dễ thấy được khoản nợ khó đòi nhằm tập trung tìm các biện pháp
xử lý kịp thời và thích hợp.
Chi nhánh đã giành nhiều thời gian cho việc xử lý nợ quá hạn khó đòi (Nợ quá hạn
trên 360 ngày), Xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan và áp dụng các biện
pháp hành chính, kinh tế để thu hồi nợ quá hạn loại này, và năm 2003 nợ quá hạn khó
đòi tại chi nhánh đã tăng 9% so với năm 2002. Nguyên nhân do một số xí nghiệp và
nhà máy như xí nghiệp tấm lợp xi măng amiăng, nhà máy luyện kim màu sản xuất
hàng ra mà không bán được nên nợ quá hạn không thể thanh toán được.
3. Phân tích tình hình nợ giãn và nợ khoanh
Bảng 8: Tình hình nợ được giãn tại chi nhánh
(Đơn vị tính: Triệu đồng VN )
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 So sánh 2003 / 2002
Tổng dư nợ 214.761 246.429 31.668 114,7

×