Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Thâm hụt ngân sách dùng cho phát triển kinh tế vùng khó khăn và thực trạng quản lý - 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.49 KB, 36 trang )

Đặt vấn đề
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí quan trọng đặc
biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có ý nghĩa quyết định
trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH, HĐH đất nước,
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối
lượng vốn vô cùng lớn và phát triển bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài
chính quốc gia tiên tiến phù hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ
quan trọng nhất. Thông qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân
phối lại thu nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc
dân vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế.
NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối và sử dụng
vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng đi lên nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các cân đối lớn
trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp kinh phí cho hoạt động của các
lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo
hướng CNH, HĐH.
Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của NSNN, trên cơ sở
đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho phù hợp với điều kiện nền
kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều tiềm năng thế
mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất của nước ta. Điều đó
được thể hiện rõ nhất trên các mặt kinh tế, xã hội, về các cơ sở vật chất kỹ thuật,


đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng sản xuất và NSLĐ đang yếu kém và
lạc hậu. Với tình trạng đó thì chưa thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế
của tỉnhvà đồng thời cũng gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời
sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của
tình trạng đó là Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết
mâu thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách. Chính vì
vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng
NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài.
- Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận, quan điểm của
Đảng, thực tiễn của địa phương để trình bày bản luận văn tốt nghiệp cử nhân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chính trị của mình; đồng thời thông qua sự nghiên cứu này có thể có đóng góp
nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh vực quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang.
- Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Khái quát một vài nét chung nhất về lý luận của NSNN và vai trò của NSNN
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong TKQĐ
lên CNXH.
+ Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xã hội cũng như thực
trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện nay.
+ Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được phương hướng và
những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang tốt hơn
trong thời gian tới.
- Phương pháp của đề tài:
Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xã hội. Do đó, trong quá trình nghiên
cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời bám sát vào quan điểm đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực của đề tài nêu ra.
Để thể hiện đề tài, luận văn còn sử dụng tổng hợp phương pháp phân tích, thống

kê, tổng hợp từ tình hình và các số liệu của thực tiễn, để từ đó rút ra những nhận
xét có căn cứ. Luận văn còn coi trọng tính kế thừa có chọn lọc thành quả của
những công trình, những tác giả đã nghiên cứu vấn đề này.
- Phạm vi của đề tài:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Vấn đề quản lý và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó khăn và phức tạp,
đặc biệt là đối với những địa phương như Hà Giang nền kinh tế còn ở trình độ
thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có mức độ của luận văn cử
nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lý và sử
dụng NSNN ở một địa phương - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rõ
thực trạng của quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải
pháp để thực hiện quản lý tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện để
nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên.
3. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận văn gồm cả 3
phần chính sau đây:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN).
Phần thứ hai: Tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và thực trạng công
tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.
Phần thứ ba: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác
quản lý và sử dụng NSNN Phát triển miền núicủa tỉnh Hà Giang.
Nội Dung Luận Văn
Phần thứ nhất
Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN )
I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.
1. Ngân sách Nhà nước .
a. Khái niệm NSNN:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống
kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan niệm

NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay là:
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để
bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính của
Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các
lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. Tuy đa dạng, phong phú như
vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung:
Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế -
chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất
định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế
- xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định.
Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được
đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà
nước.
Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm xã
hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh
vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không giống bất kỳ
một hình thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN phần lớn đều mang
tính chất bắt buộc, còn các khoản chi của NSNN lại mang tính chất không hoàn
lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong bất cứ một Nhà nước nào. Xuất
phát từ quyền lực của Nhà nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện chức
năng quản lý và điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội. Do nhu cầu
chi tiêu của mình, Nhà nước đã sử dụng quyền lực thông qua hệ thống pháp luật
tài chính buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu nhập của
mình cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà
nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vì lợi ích của toàn xã hội chứ

không phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế cũng
hoàn toàn ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng
các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, do nhân
dân giao phó. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết định
tính chất hoạt động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động của
NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính, nó phản
ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội,
phát sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa
phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế trong xã hội. Phần
nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục được phân phối lại nhằm thực hiện các chức năng
của Nhà nước và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để
bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính
cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính xuất phát từ sản xuất, mà
chủ thể của sản xuất chính là các thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều có
lợi ích kinh tế và đấu tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền
lực của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa
lợi ích Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có
NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật kinh tế
một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước
và lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một NSNN lớn mạnh phải đảm bảo sự
cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, bao quát hết toàn
bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng.
Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước
và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và
sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý
và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà nước.
Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một Nhà nước

nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của mình, trước hết phải có
nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý Nhà nước, cho lực
lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi
cho đầu tư phát triển v.v Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập
hợp các khoản thu theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
với chính sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và
đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối thu
chi bằng tiền của Nhà nước.
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các khoản thu và
thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm tra, giám sát quá
trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng trốn lậu thuế, chây ỳ nộp thuế của
các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp
luật, coi thường pháp luật và các chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát
nếu buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình trạng làm sai luật
định và các chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt
động thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trương, chính sách, chế độ do Đảng và Nhà
nước đề ra.
Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan hệ mật thiết với
nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể coi chức năng này hơn
chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng ở mọi lúc, mọi nới trong tạo
lập và sử dụng vốn NSNN.
b. Các khoản thu huy động vào NSNN và chi NSNN.
* Các khoản thu NSNN.
- Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các tổ
chức và công dân do những yêu cầu tất yếu về kinh tế - chính trị - xã hội để bảo

đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ vững quốc phòng, an ninh và bảo
đảm các sự nghiệp xã hội.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.
Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi ích kinh tế các loại tài sản và vốn bằng tiền
thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý và cho phép các chủ thể trong
nền kinh tế sử dụng. Các quan hệ này cũng là bắt buộc, nhưng dựa trên các yếu
tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện được lợi ích kinh tế, quyền sở
hữu các loại tài sản đưa vào quá trình sản xuất xã hội. Những ai sử dụng nhiều tài
sản của Nhà nước vào mục đích kinh doanh trên các địa bàn và những ngành
nghề có hiệu quả kinh tế cao thì phải đóng góp nhiều vào NSNN.
Trình độ xã hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn thì nguồn thu tập trung
vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều.
Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hình thức này không chỉ đảm bảo nguồn lực tài
chính cho Nhà nước, mà còn là hình thức cụ thể thực hiện quản lý chặt các tài
sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát triển chế độ sở hữu toàn dân.
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng phải đóng góp
theo luật định.
- Các khoản viện trợ: Hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại, của các tổ
chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế. Nguồn thu này chủ yếu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đây là nguồn thu nhất
thời, không ổn định, không tính toán trước một cách chính xác.
- Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối NSNN.
Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà nước trong nước
và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển kinh tế. Đây là nguồn thu
không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ hạn Nhà nước phải thanh toán. Vì
vậy, việc sử dụng hình thức này đòi hỏi các tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu
cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội của công trình và khả năng thu hồi vốn để
trả nợ.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

* Các khoản chi lấy từ NSNN.
Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao gồm:
- Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội.
- Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy
Nhà nước.
Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia nhằm để giữ
vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xã hội.
Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở trong
nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực này,
tiến hành phân bổ các loại thuế trực thu và gián thu, thông qua thực thu các sắc
thuế mà bảo đảm nguồn lực tài chính đầy đủ cho nhu cầu này.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Các khoản chi trả nợ củ Nhà nước: Tuỳ theo mức độ bội chi của ngân sách, quy
mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ và mức lãi suất mà
khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi NSNN. ở nước ta hiện nay, do
hậu quả của việc quản lý vốn vay chưa tốt, để thất thoát lớn và việc sử dụng hiệu
quả thấp, cho nên nợ nước ngoài tồn đọng rất lớn, cho nên chi trả nợ nước ngoài
đang là vấn đề căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải
đảm bảo uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần
khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ.
Đối với vay từ nguồn trong nước dưới nhiều hình thức, trong đó chủ yếu là hình
thức tín phiếu kho bạc Nhà nước ngắn hạn và tín phiếu dài hạn để huy động vốn
trong dân vào nhu cầu đầu tư. Hướng chủ yếu của tín dụng Nhà nước là các
khoản vay dài hạn đầu tư phát triển kinh tế. Nhưng hình thức này chỉ phát triển
trong điều kiện sức mua đồng tiền ổn định và lãi suất hợp lý đem lại lợi ích người
cho vay, đồng thời đảm bảo cho Nhà nước thanh toán được nợ.
- Các khoản chi dự trữ Nhà nước (từ 3 - 5% tổng số dư). Đây là khoản dự phòng
cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong khi thực hiện nhiệm vụ
của Nhà nước.

- Các khoản chi viện chợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
NSNN bao gồm hai cấp: Trung ương và địa phương. Quan hệ giữa hai cấp này
được thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi
cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để bảo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực hiện được nhiệm vụ của các vùng,
các địa phương.
NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn
tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát
triển. Nếu có bội chi thì số bội chi đó phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới
cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có vay để bù đắp bội chi NSNN thì phải trên
nguyên tắc tiền vay được không sử dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục
đích phát triển và có kế hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách,
chủ động trả nợ đến hạn. Ngân sách địa phương được cân đối theo quy tắc: tổng
số chi không được vượt quá tổng số thu
2. Chính sách tài khoá.
Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy động các nguồn
thu vào NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định (thường là 1 năm).
Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến kiềm chế lạm phát và
tình trạng thất nghiệp; có tác động đến điều chỉnh nền kinh tế, cơ cấu kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các nguồn lực tài chính, tạo môi
trường và điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được mục tiêu đó,
chính sách tài khoá cần xử lý nhiều mối quan hệ, trong đó giải quyết đúng đắn
những mâu thuẫn chủ yếu sau đây là nội dung cốt lõi của chính sách tài khoá:
+ Mâu thuẫn thu - chi NSNN. Đây là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ một quốc gia
nào, đặc biệt gay gắt đối với các nước kém phát triển. Xuất phát của mâu thuẫn
này là do chi tiêu của Nhà nước lớn, trong khi nguồn thu bị hạn chế. Vì vậy, cần
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
có những biện pháp tích cực để khống chế nhu cầu chi của Nhà nước. Đồng thời
tích cực thu đúng, thu đủ, tận dụng các nguồn thu.

Để thực hiện cân đối thu - chi, cần giữ vững 2 đối cân đối chủ yếu:
Một là, thu từ các loại thuế trực thu và gián thu phải bảo đảm nhu cầu chi thường
xuyên của bộ máy Nhà nước, quốc phòng, an ninh
Hai là, quy mô đầu tư phát triển kinh tế - xã hội phải tương ứng với tổng số thu
từ thực hiện lợi ích kinh tế các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các nguồn lực
huy động được trong nước và ngoài nước thông qua tín dụng dài hạn.
+ Mâu thuẫn giữa tập trung vào NSNN với tích luỹ trong các cơ sở kinh doanh.
Vì vậy chính sách tài khoá cần giải quyết tốt mâu thuẫn này, đó là yêu cầu khách
quan của phát triển kinh tế - xã hội.
Mâu thuẫn này hiện nay ở nước ta đang gay gắt, biểu hiện ở chỗ tốc độ tăng thu
vào NSNN năm sau cao hơn năm trước và lớn hơn nhiều lần so với tốc độ tăng
tổng sản phẩm quốc dân, trong khi tình trạng thất thu từ thuế còn lớn.
+ Mẫu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xã hội.
Nguyên nhân của mâu thuẫn này: từ một mặt NSLĐ xã hội còn thấp kém, muốn
tăng trưởng thì phải tích luỹ, do đó tiêu dùng bị hạn chế, không giải quyết đúng
mức những vấn đề xã hội cấp bách. Nếu ngược lại thì không đảm bảo thực hiện
được mục tiêu kinh tế. Mặt khác, do phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, sẽ
dẫn tới phân hoá giàu nghèo là không tránh khỏi. Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn
trên, chính sách tài khoá phải thể hiện nội dung điều tiết thu nhập sao cho hợp lý.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
1. Bản chất và chức năng của NSNN nói chung.
Như trên đã trình bày, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, là
công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Cho nên có
thể nói chức năng và nhiệm vụ cơ bản của NSNN là động viên hợp lý các nguồn
thu (đặc biệt là thuế, phí, lệ phí). Đồng thời tổ chức và quản lý chi tiêu NSNN,
thực cân đối thu - chi. Tóm lại, NSNN có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau
đây:
Một là, chức năng phân phối NSNN.

Bộ máy Nhà nước muốn thực hiện được sự hoạt động của mình một cách bình
thường và ổn định để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ là quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội của một quốc gia thì nhất thiết phải có nguồn NSNN đảm
bảo.
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, các biện pháp
bắt buộc các thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính
cần thiết. Nhưng cơ sở để hình thành nguồn lực tài chính đó là từ sự phát triển
kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn động viên được nguồn thu
NSNN ngày càng tăng và có hiệu quả thì nền kinh tế nói chung, sản xuất kinh
doanh nói riêng phải được phát triển với tốc độ nhanh, bền vững và có hiệu quả
cao. Vì vậy, Nhà nước trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội phải nắm được quy
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
luật kinh tế và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Đồng thời phải bảo đảm
hài hoà các quan hệ lợi ích của các chủ thể của nền kinh tế.
Một NSNN vững mạnh là một ngân sách mà cơ chế phân phối của nó đảm bảo
được sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh nuôi
dưỡng nguồn thu, trên cơ sở đó tăng được thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước ngày càng tăng lên.
Mặt khác, một NSNN vững mạnh còn phải thể hiện việc phân phối và quản lý chi
đúng đắn, hợp lý và hiệu quả. Nhà nước sử dụng khối lượng tài chính từ nguồn
NSNN để chi tiêu vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội và chi tiêu cho sự hoạt
động của bộ máy Nhà nước. Như vậy, chức năng của NSNN, ngoài việc động
viên nguồn thu thì còn phải thực hiện quản lý và phân phối chi tiêu sao cho có
hiệu quả. Đó cũng là một tất yếu khách quan.
Từ sự phân tích trên đây, ta có thể hiểu được bản chất của NSNN - đó là hệ thống
các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các thành viên trong xã hội, phát sinh
trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm
đảm bảo yêu cầu thực hiện trong các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế
- xã hội của Nhà nước. Hoạt động của NSNN luôn luôn gắn liền với thực hiện
các chức năng của Nhà nước.

Hai là, chức năng giám đốc quá trình huy động các nguồn thu và thực hiện các
khoản chi tiêu.
Thực hiện chức năng này, Nhà nước thông qua NSNN để biết được nguồn thu -
chi nào là cơ bản của từng thời kỳ, từng giai đoạn và do đó có những giải pháp để
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
làm tốt thu - chi. Nhà nước định ra cơ cấu thu- chi hợp lý ; theo dõi các phát sinh
và những nhân tố ảnh hưởng đến thu- chi
Tóm lại, NSNN có hai chức năng cơ bản- chức năng phân phối và chức năng
giám đốc. NSNN không thể cân đối được nếu như không thực hiện đầy đủ hai
chức năng đó, bởi vì: nếu không có sự giám đốc trong việc động viên khai thác
hợp lý các nguồn thu và do đó sẽ dẫn đến tình trạng thất thu dưới nhiều hình
thức. Nếu không thực hiện tốt chức năng phân phối thì cũng không thể động viên
được nguồn thu cho NSNN.
Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của NSNN đều có vị trí và tầm
quan trọng của nó. Do đó, cần phải coi trọng cả hai chức năng đó và tổ chức chỉ
đạo để các cơ quan chức năng thực hiện tốt hai chức năng đó của NSNN.
2. Quan điểm cơ bản về quản lý và sử dụng NSNN.
Để thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng NSNN, tuỳ theo chức năng, nhiệm
vụ của từng cấp, từng ngành, cần phải quán triệt các quan điểm sau đây:
+ Trong chính sách tạo vốn của NSNN phải quán triệt tư tưởng không tận thu để
bao chi, mà phải động viên nguồn thu ngân sách một cách hợp lý để đáp ứng nhu
cầu chi trên cơ sở vừa bồi dưỡng và phát triển nguồn thu, vừa kiểm soát và tập
trung khai thác một cách hợp lý và có hiệu quả các nguồn thu.
+ Thực hiện tốt công tác phân phối và sử dụng vốn NSNN theo nguyên tắc tiết
kiệm, hiệu quả, chấm dứt tình trạng các khoản chi bao cấp tràn lan của cơ chế cũ
trước đây. Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Thực hiện phương pháp cân đối ngân sách một cách khoa học để vừa phát huy
tốt các nguồn lực bên trong và tranh thủ cao độ, có hiệu quả nguồn lực tài chính
bên ngoài; vừa phù hợp với pháp luật của Nhà nước ta, vừa phù hợp với thông lệ

quốc tế và bảo đảm sự chủ động của NSNN.
+ Đổi mới chế độ phân cấp quản lý NSNN theo hướng giảm bớt chức năng quản
lý kinh tế của chính quyền địa phương, tránh để tình trạng phân tán và sử dụng
kém hiệu quả nguồn vốn ngân sách.
+ Ban hành đồng bộ hoá và tiếp tục hoàn thiện luật NSNN. Đồng thời giáo dục,
nâng cao trình độ cho toàn dân, cho các chủ thể của nền kinh tế cũng như trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chức năng trực tiếp làm công tác quản lý
NSNN. Nghiêm chỉnh chấp hành luật NSNN.
3. Vai trò của NSNN trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội.
Chúng ta biết rằng, trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất kinh
doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ yếu tuân theo
sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường. Nhận thức được điều đó, Nhà
nước ta đã có những cơ chế, chính sách hạn chế sự can thiệp và kiểm soát trực
tiếp đối với các hoạt động kinh tế, nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhà nước ta với chức năng của mình là thực hiện quản lý hành chính kinh tế
bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá và các chính sách do Nhà nước ban
hành tuân theo pháp luật hiện hành do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội
ban hành. Đó chính là sự đổi mới cơ bản về cơ chế quản lý của Nhà nước ta: từ
chỗ quản lý, điều hành nên kinh tế một cách trực tiếp đến chỗ quản lý và điều
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hành mọi hoạt động kinh tế- xã hội thông qua việc tạo mọi điều kiện, môi trường,
hành lang (trong đó có cả hành lang pháp lý) để cho nền kinh tế phát triển vừa
tuân theo qui lụt kinh tế khách quan, vừa bảo đảm sự định hướng XHCN, nhằm
nhanh chóng đạt được các mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra trong các kỳ đại hội.
Trong tất cả các công cụ để quản lý mọi hoạt động kinh tế- xã hội, Nhà nước ta
hết sức quan tâm đến công cụ NSNN, vì nó là yếu tố vật chất vô cùng quan trọng
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Với cơ chế cũ trước đây, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế vi mô.
Trong cơ chế mới- cơ chế thị trường các vấn đề của kinh tế sẽ được giải quyết
theo qui luật của thị trường và các quan hệ cung- cầu. Nhà nước chỉ dùng các

biện pháp về thuế, các khoản chi ngân sách để can thiệp nhằm ổn định nên kinh
tế và phát triển theo mục tiêu đã định.
Hoạt động của NSNN gắn với hoạt động của nền kinh tế thị trường, do đó thu
NSNN luôn luôn biến đổi và phụ thuộc vào nhịp độ phát triển kinh tế và hiệu
quả kinh tế. Xu hướng chung là khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ làm tăng khả năng
tăng khối lượng thu và ngược lại. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là mức thu
NSNN phải gắn với nhịp độ tăng của nền kinh tế, nếu tận thu quá mức sẽ dẫn tới
tình trạng suy thoái do không kích thích được sản xuất và đầu tư.
Trong bất kỳ tình huống nào, sức ép chi luôn luôn là gánh nặng cho NSNN. Đặc
biệt là trong giai đoạn đầu khi mà nền kinh tế chưa kịp phát triển, trong khi đó
phải nhanh chóng giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của xã hội. Bên cạnh đó chi
NSNN còn bị sức ép của tình trạng có lạm phát cao xẩy ra. Khi có lạm phát cao
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thì khối lượng ngân sách tăng chậm hơn nhu cầu chi, vì vậy nếu xử lý không tốt
sẽ dẫn đến rối loạn, gây thiệt hại về nhiều mặt cho nền kinh tế.
Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng. Bởi lẽ NSNN có chức năng huy
động nguồn lực tài chính để hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đồng thời NSNN còn thực hiện cân đối bằng tiền
giữa các khoản thu và các khoản chi tiêu của Nhà nước. Đây là vai trò cơ bản của
NSNN mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải thực hiện.
NSNN là một công cụ quản lý quan trọng trong điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô của
đất nước, đặc biệt thể hiện rất rõ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Vai trò đó đã được thể hiện cụ thể ở các lĩnh vực sau:
- Về kinh tế: Nhà nước tạo các môi trường và điều kiện để xây dựng cơ cấu kinh
tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. NSNN
đảm bảo cung cấp kinh phí đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở kết cấu hạ tầng,
hình thành các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các ngành kinh tế, các lĩnh vực
kinh tế then chốt. Trên cơ sở đó từng bước làm cho kinh tế Nhà nước đảm đương
được vai trò chủ đạo nền kinh tế nhiều thành phần.
Mặt khác, trong những điều kiện cho phép thì nguồn kinh phí từ NSNN cũng có

thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc các
TPKT khác để các doanh nghiệp đó có cơ sở về tài chính tốt hơn và do đó có
được phương hướng kinh doanh có hiệu quả hơn.
- Về mặt xã hội: Thông qua hoạt động thu, chi NSNN cấp phát kinh phí cho tất
cả các lĩnh vực hoạt động vì mục đích phúc lợi xã hội. Thông qua công cụ ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
sách, Nhà nước có thể điều chỉnh các mặt hoạt động trong đời sống xã hội như:
Thông qua chính sách thuế để kích thích sản xuất đối với những sản phẩm cần
thiết cấp bách, đồng thời có thể hạn chế sản xuất những sản phẩm không cần
khuyến khích sản xuất. Hoặc để hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lý. Thông
qua nguồn vốn ngân sách để thực hiện hình thức trợ cấp giá đối với các hoạt
động thuộc chính sách dân số, chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính
sách bảo trợ xã hội v.v
- Về thị trường: Thông qua các khoản thu, chi NSNN sẽ góp phần bình ổn giá cả
thị trường. Ta biết rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường, sự biến động giá cả
đến mức gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nền kinh tế có nguyên nhân từ sự
mất cân đối cung - cầu. Bằng công cụ thuế và dự trữ Nhà nước can thiệp đến
quan hệ cung - cầu và bình ổn giá cả thị trường.
Hoạt động thu chi NSNN có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề lạm phát. Lạm phát
là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế. Lạm phát xảy ra khi mức chung của
giá cả và chi phí tăng. Để kiềm chế được lạm phát tất yếu phải dùng các biện
pháp để hạ thấp giá, hạ thấp chi phí. Bằng biện pháp giải quyết tốt thu chi NSNN
có thể kiềm chế, đẩy lùi được lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển.
4. Vai trò của NSNN trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang.
Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới, trình độ dân trí thấp, điều kiện địa lý
phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, lại có nhiều dân tộc cùng chung sống. Sau
chiến tranh giải phóng dân tộc, tỉnh Hà Giang còn chịu hậu quả nặng nề của 10
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
năm chiến tranh bảo vệ biên giới. Hầu như các cơ sở kinh tế đều bị tàn phá nặng

nề, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc hết sức khó khăn.
Tháng 10/1991 khi tách tỉnh, kết cấu hạ tầng hầu như không có gì. Trong những
năm qua được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, nhân dân các dân tộc tỉnh
Hà Giang đã khắc phục khó khăn, từng bước ổn định đời sống, phát triển sản
xuất. Đạt được những thành tích đó, ngoài sự lãnh chỉ đạo sát sao của Đảng và
Nhà nước từ Trung ướng đến cơ sở, còn có các nhân tố khác, trong đó có vai trò
của NSNN. Nhờ có nguồn thu NSNN mới đảm bảo chi thường xuyên cho sự hoạt
động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và các cơ quan hành chính
sự nghiệp, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Nhờ có NSNN mà phần
nào đã đáp ứng được nhu cầu các khoản chi cấp bách, đặc biệt là chi cho đầu tư
phát triển chiếm tỷ lệ khá cao trong chi ngân sách. Nhờ đó mà hiện nay ở Hà
Giang nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá xã hội đã và đang được xây dựng, tu
bổ, nâng cấp và đưa vào sử dụng.
Trong nông nghiệp, chi NSNN tập trung cho việc ứng dụng khoa học- kỹ thuật
vào sản xuất, đầu tư để tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật
nuôi và cơ cấu mùa vụ v.v Chẳng hạn đầu tư cho việc lai tạo giống cây con cho
năng suất cao. Tuy lâm nghiệp đxa chú ý đầu tư để đẩy mạnh trồng mới rừng,
bảo vệ và tái sinh rừng, phát triển mô hình rừng trang trại, vườn rừng, theo
phương thức lâm-nông kết hợp.
Trong lĩnh vực văn hoá- xã hội: NSNN đã dành một tỷ lệ thích đáng cho đầu tư
xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất- kỹ thuật cho lĩnh vực giáo dục đào tạo,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hệ thống trường chuyên, lớp chọn, trường dân tộc nội trú, trường cao đẳng sư
phạm. Mặc dù nguồn thu ngân sách còn hạn chế, nhưng tỉnh cũng rất quan tâm
đầu tư cho lĩnh vực y tế và dân số kế hoạch hoá gia đình. Cụ thể là đầu tư nâng
cấp cải tạo các cơ sở khám chữa bệnh, tạo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân
dân được tốt hơn.
Ngoài ra NSNN còn thực hiện một loạt các chương trình khác như: củng cố mở
rộng nâng cấp các đường giao thông liên huyện, liên xã, đầu tư để xây dựng
đường dây, trạm biến áp để đưa điện lưới quốc gia về các huyện vùng cao. Đầu

tư xây dựng các cơ sở phát thanh, truyền hình, bưu điện để đáp ứng nhu cầu đời
sống văn hoá, tinh thần cho các dân tộc trong tỉnh. Đồng thời cũng nhằm tạo các
phương tiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, để nhân
dân các dân tộc hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội, để họ có sự tin tưởng và tự giác thực hiện.
Đối với lĩnh vực thu NSNN: thông qua các hình thức hoạt động thu NSNN mà đã
động viên được ngày càng nhiều hơn, tốt hơn nguồn lực tài chính cho địa
phương. Sự động viên đó, một mặt đảm bảo nguồn thu, tránh thất thu cho NSNN,
nhưng đồng thời cũng qua đó thực hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đóng
góp của nhân dân, của các chủ thể kinh tế, các TPKT trong tỉnh.
Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội
nói chung. Đối với tỉnh Hà Giang thì vai trò NSNN lại càng đặc biệt quan trọng.
Nhờ có nguồn thu NSNN mà đã tạo điều kiện về nguồn tài chính để đáp ứng nhu
cầu xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo kinh phí chi tiêu cho các
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hoạt động của bộ máy chính quyền và các tổ chức Đảng, đoàn thể, các lực lượng
vũ trang an ninh
Tuy nhiên, hiện nay NSNN của tỉnh còn hết sức nhỏ bé, chưa đáp ứng nhu cầu
nói trên. Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra phương hướng và
giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện công tác NSNN tỉnh Hà Giang
Phần thứ hai
tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và thực trạng công tác quản lý, sử
dụng NSNN tỉnh hà giang
i. điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh hà giang.
1. Về điều kiện tự nhiên.
* Vị trí địa lý: Hà Giang là tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nằm ở vị trí từ
21023' đến 22010' vĩ bắc và 104025' đến 105034' kinh đông, cách thủ đô Hà Nội
trên 320 km.
Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đường biên giáp Trung Quốc
dài trên 270 km.

Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái, phía Nam
giáp tỉnh Tuyên Quang.
Hà Giang có 10 huyện, thị: Bắc Giang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Hoàng Su Phì, Xí
Mần, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và thị xã Hà Giang.
* Địa hình:
- Hà Giang có địa hình núi cao chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, nhiều dãy núi đá có
độ cao trên 2000m, tạo nên nhiều tiểu vùng với các điều kiện về địa hình, khí
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hậu, đất đai, nguồn nước và dân cư khác biệt, độc đáo, có điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế đa dạng theo cơ cấu nông - lâm - công nghiệp với nhiều sản
phẩm phong phú, có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp để phát triển du lịch, dã
ngoại
- Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên còn không ít khó khăn do địa hình
chia cắt mạnh, độ dốc lớn, nhiều dãy núi đá nên không ít khó khăn trong phát
triển sản xuất nông nghiệp đặc biệt ở các huyện vùng cao.
* Đất đai:
Tổng diện tích tự nhiên là: 788.437 ha (7884,37 km2).
Trong đó:
- Đất nông nghiệp : 106.425,113 ha
+ Đất trồng cây hàng năm : 39.817,77 ha
Đất ruộng lúa, mầu : 28.372,09 ha
Đất nương rẫy : 52.192,03 ha
Đất cây hàng năm khác : 9.353,65 ha
+ Đất vườn tạp : 4.908,20 ha
+ Đất dùng vào chăn nuôi : 1.140,45 ha
+ Đất cây lâu năm : 9.874,87 ha
+ Đất có mặt nước nuôi thuỷ sản : 683,75 ha
- Đất nông nghiệp : 279.450,7 ha
+ Đất có rừng tự nhiên : 229.587,96 ha
Đất có rừng sản xuất : 34.071,03 ha

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đất có rừng phòng hộ : 177.439,97 ha
Đất có rừng đặc dụng : 17.191,36 ha
+ Đất có rừng trồng : 49.861,09 ha
Đất có rừng sản xuất : 41.030,68 ha
Đất có rừng phòng hộ : 8.793,46 ha
+ Đất cây ươm giống : 1,65 ha
- Đất chuyên dùng : 4.183,33 ha
- Đất ở : 5.973,1 ha
- Đất chưa sử dụng : 392.404,74 ha
Đất bằng chưa sử dụng : 1.663,77 ha
Đất đồi núi chưa sử dụng : 313.165,67 ha
Đất có mặt nước chưa SD : 10,9 ha
Sông suối : 5.500,67 ha
Núi đá không cây : 71.480,88 ha
Đất chưa sử dụng khác : 627,9 ha
Qua số liệu trên thấy được đất đai tự nhiên của Hà Giang rất rộng, tuy nhiên việc
khai thác và sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp chưa được nhiều,
hiện tại vẫn còn trên 314.828 ha đất bằng và đồi núi chưa sử dụng, đó là nguồn
tài nguyên lớn cần phải tập trung đầu tư các nguồn lực nhằm khai thác phục vu
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
* Về đặc điểm khí hậu thuỷ văn:
Do địa bàn rộng, khí hậu thuỷ văn các vùng phân bố không đồng đều:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×