Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Thâm hụt ngân sách dùng cho phát triển kinh tế vùng khó khăn và thực trạng quản lý - 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.29 KB, 35 trang )

Kết quả năm 1995- 1999:
- Diện tích đất rừng được giao tới hộ 126.088 ha, bình quân mỗi hộ 4-5 ha đất
rừng.
- Trồng rừng 17.773 ha, bình quân mỗi năm trồng 3.554 ha
- Chăm sóc rừng trồng 21.218 ha, bình quân mỗi năm 4.243 ha
- Bảo vệ rừng 145.263 ha, bình quân mỗi năm bảo vệ 29.053 ha
- Khoanh nuôi rừng 25.455 ha, bình quân mỗi năm là 5.091 ha
Về sản phẩm lâm nghiệp chủ yếu khai thác hàng năm:
- Gỗ tròn bình quân mỗi năm khai thác 60.200 m3
- Củi khai thác bình quân mỗi năm 103.800 m3
- Tre, vầu, nứa bình quân mỗi năm 2.500 triệu cây.
Tổng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp trên địa bàn bình quân năm đạt
139.00 triệu đồng/năm.
Trong đó: - Trồng và nuôi rừng 23.000 triệu đồng/năm
- Khai thác và thu hoạch 116.000 triệu đồng.
+ Về tình hình phát triển kinh tế HTX và kinh tế trang trại:
Theo báo cáo của các huyện, thị đến tháng 9 năm 1998 toàn tỉnh có 693 HTX
(Trong đó nông nghiệp 680, tiểu thủ công nghiệp có 6, tín dụng 4, thuỷ sản 2,
vận tải 1).
Đến nay việc triển khai thực hiện Luật HTX trong phạm vi toàn tỉnh đã chuyển
đổi và thành lập được 135 HTX mới theo luật. (Trong đó có 131 nông nghiệp, 4
tiểu thủ công nghiệp, 2 tín dụng, 1 vận tải, 1 dịch vụ vật tư xây dựng, 2 thuỷ sản).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đây là những mô hình tiên tiến có tác dụng tốt trong việc phát triển theo hướng
sản xuất hàng hoá và làm dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình, tạo điều kiện cho họ
được quyền tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Về kinh tế trang trại, trong những năm gần đây Hà Giang đã có sự quan tâm
phát triển mô hình này.
Tổng số trang trại lớn, nhỏ tính đến năm 1998 toàn tỉnh có trên 2000 hộ dân làm
kinh tế trang trại, trong đó chính sách 478 hộ kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp
theo mô hình trang trại quy mô từ 2 ha trở lên, chiếm 0,48% tổng số hộ toàn tỉnh.


Trong số hộ trên riêng huyện Bắc Quang có khoảng 100 hộ, đạt doanh thu hàng
năm từ 100-200 triệu đồng.
Đây thực sự là một mô hình mới về phát triển nông, lâm nghiệp hàng hoá đúng
hướng có hiệu quả cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và tạo điều kiện để
khuyến khích mở rộng.
+ Về đầu tư phát triển:
Được sự hỗ trợ của Chính phủ cộng với tinh thần phát huy nội lực của địa
phương trong những năm qua, hướng đầu tư cho nông nghiệp, lâm nghiệp xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các chính sách trợ cước, trợ giá trong chương
trình phát triển nông, lâm nghiệp của tỉnh năm sau để tăng hơn năm trước. Đảm
bảo cho sản xuất tăng trưởng, phát triển ổn định bền vững.
Trong 6 năm từ 1994-1999, tổng số nguồn vốn đầu tư cho phát triển các lĩnh vực
trên toàn tỉnh là 1424,3 tỷ đồng thì đầu tư cho nông, lâm nghiệp là 297,4 tỷ đồng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
bằng 20,88%. Đặc biệt năm 1999 đầu tư cho nông nghiệp lên tới 88,2 tỷ
đồng/354,6 tỷ đồng chiếm 24,87%.
+ Về hoạt động thương mại- du lịch:
Hà Giang có đường biên giới giáp với Trung Quốc dài trên 270 km có cửa khẩu
Quốc gia Thanh Thuỷ và Phó Bảng, ngoài ra còn có các cửa khẩu tiểu ngạch rất
thuận tiện cho giao lưu buôn bán với Trung Quốc. Có những địa danh độc đáo
như Căng Bắc Mê, Núi Cấm, Cổng Trời, Suối Tiên, Chum vàng chum bạc, Núi
Cô Tiên và một số di tích lịch sử được xây dựng từ thế kỷ 19 như Chùa Sùng
Khánh, Nhà Vương và các hang động, rừng đặc dụng phòng hộ khu bảo tồn
thiên nhiên khác
Các hoạt động thương mại và du lịch tiếp tục được củng cố và phát triển. Công
tác quảnlý hoạt động thương nghiệp quốc doanh được chấn chỉnh do đã hạn chế
được thua lỗ trong kinh doanh. Đồng thời khuyến khích mạng lưới thương
nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh phát triển đúng hướng đã góp phần làm đa
dạng các mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Tổng giá trị hàng xuất khẩu đạt 4,3 triệu USD. Trong đó mặt hàng chủ yếu là chì,

quặng ăng ti môn.
Về giá trị du lịch đạt 4,5tỷ đồng, tăng 4% so với năm 1998. Tuy nhiên hoạt động
thương mại chưa làm tốt chức năng hướng dẫn sản xuất, tổ chức thu mua và tiêu
thụ sản phẩm, đặc biệt là đối với hàng nông- lâm sản.
Tóm lại, trong những năm qua thực hiện đường lối của Đảng nhất là từ Nghị
quyết VII và VIII của Đảng về CNH, HĐH. Trên cơ sở các Nghị quyết cụ thể của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trung ương Đảng chỉ đạo trên từng lĩnh vực. Được sự quan tâm từ Trung ương
Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ và các dân tộc trong
tỉnh đã nhận rõ trách nhiệm của mình, lãnh đạo chỉ đạo sự nghiệp phát triển kinh
tế-xã hội trên địa bàn và đạt được các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Về kinh tế đã phát duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, GDP bình quân tăng 9-
10%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
- Cơ sở hạ tầng được tăng cường và phát triển mạnh hơn các năm sau đều cao
hơn năm trước. Triển khai thực hiện tốt một số chương trình lớn của Chính phủ
và các dự án lớn của tỉnh, từ đó nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của cán
bộ các cấp tỉnh, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
- Bộ mặt xã hội có bước đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện thêm, các vấn
đề xã hội được giải quyết, nhất là giáo dục đào tạo.
- An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, toàn dân đoàn kết tin
tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng.
Riêng về nông nghiệp nông thôn Hà Giang có bước phát triển mới, cơ cấu kinh tế
được xác lập và chuyển dịch hợp lý, đem lại hiệu quả nhất định, kinh tế các thành
phần trong nông nghiệp đã phát triển, trong đó kinh tế hộ gia đình theo mô hình
trang trại được xem là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ sản xuất tự túc tự cấp lên sản xuất
hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá.
Sức sản xuất trong nông nghiệp được khai thác, tiềm năng được phát huy một
cách hợp lý hơn; sản xuất ngày một phát triển, sản phẩm nông nghiệp tăng, thu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

nhập đời sống nhân dân có bước nâng lên, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định
đời sống nhân dân. Cơ sở vật chất- kỹ thuật đầu tư cho nông, lâm nghiệp tăng
cường; công tác khuyến nông, khuyến lâm được coi trọng hơn, tiến bộ khoa học
kỹ thuật được tăng cường áp dụng tốt hơn, sự phân công lao động sản xuất kinh
doanh đa dạng, năng động đã thúc đẩy và góp phần xây dựng cơ cấu nông thôn
mới ngày một tiến bộ, hợp lý.
Ii. thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh hà giang năm 1997 -
1999.
Năm 1999 là năm thứ ba thực hiện luật NSNN. Mặc dù tỉnh mới được tái lập, cơ
sở vật chất kỹ thuật, vốn liếng còn có nhiều khó khăn thiếu thốn. Bên cạnh đó lại
chịu ảnh hưởng của thời tiết thất thường và sự tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính- tiền tệ của các nước trong khu vực. Song với tinh thần đoàn kết, chủ động
khắc phục khó khăn của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân, vì vậy nền
kinh tế của tỉnh vẫn tiếp tục tăng trưởng, phát triển, nguồn thu NSNN tiếp tục
tăng qua các năm.
Để thấy rõ thực trạng công tác này, ta có thể nghiên cứu kết quả, các chỉ tiêu về
hoạt động thu, chi ngân sách của tỉnh từ năm 1997 đến 31/12/1999.
1. Về công tác quản lý thu NSNN của tỉnh
Năm 1997: Tổng thu NSNN đạt 356.545,4 triệu đồng, trong đó: đầu tư về NS
TW là 9.023 triệu.
- NS để lại địa phương là 349.522,4 triệu.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Cơ cấu nguồn thu: thu trên địa bàn 47.264,5 triệu; thu viện trợ 1.000 triệu; thu từ
NSTW 295.861,2 triệu; thu hút dư năm trước 12.419,7 triệu; thu từ đi vay 2.000
triệu.
Năm 1998: Tổng thu NSNN là 431.621 triệu, trong đó:
- Điều tiết về NSTW là 12.254 triệu.
- NS để lại địa phương là 419.367 triệu.
Như vậy nếu so với kế hoạch thì 1998 thu đạt 113% và tăng so với năm 1997 là
120,3%, bao gồm: thu trên địa bàn 55.749 triệu, đạt 1264% kế hoạch hoá giao

tăng so với năm 1997 là 138,7%; thu bổ sung từ NSTW 337.569 triệu đạt 112,8%
kế hoạch; thu kết dư năm trước 1.148 trệi, đi vay 27.350 triệu; thu trái phiếu kho
bạc 9.760 triệu.
Năm 1999: thực hiện là 521.416 triệu đạt 102,1% so với kế hoạch và tăng so với
năm 1998 là 120,8%, trong đó:
- Điều tiết về NSTW theo quy định là 18.977 triệu
- NS để lại địa phương là 502.439 triệu.
Các nguồn thu bao gồm: thu trên địa bàn là 64.521 triệu, đạt 124,1% kế hoạch, so
với năm 1998 tăng 115,6%; thu viện trợ 16.609 triệu; thu bổ sung từ NSTW là
325.617 triệu; thu kết dư năm trước 5.535 triệu; thu từ đi vay là 13.067 triệu.
Qua khảo sát kết quả thu NSNN qua các năm 1997- 1999 cho thấy tổng số thu
NSNN đều tăng qua các năm và đều hoàn thành kế hoạch được giao. Tuy nhiên
nếu xem xét từng chỉ tiêu cụ thể thì thấy có sự tăng, giảm không đều nhau, chẳng
hạn:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Thu từ DNNN trung ương:
Năm 1997 thực hiện 3.558 triệu, đạt 95,7% so với kế hoạch. Năm 1998 dự toán
kế hoạch thu 3.200 triệu, thực hiện cả năm là 3.725 triệu, đạt 116,1% so với kế
hoạch và bằng 104,7 so với năm 1997. Năm 1999 thực hiện 4.000 triệu, đạt
123% so với kế hoạch cả nămg và bằng 107,3% so với năm 1998. Số vượt thu
chủ yếu tập trung vào các đơn vị kinh doanh có hiệu quả như: bưu điện tỉnh, điện
lực tỉnh.
+ Thu từ DNNN địa phương:
Năm 1997 kế hoạch giao thu 6.333 triệu, thực hiện là 5.268 triệu, đạt 83,2% so
với kế hoạch cả năm. Nguyên nhân do tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, cho nên 16/27 doanh nghiệp không hoàn
thành kế hoạch nộp ngân sách. Năm 1998: kế hoạch giao 7.754 triệu, thực hiện
7.029 triệu đạt 90,6% so với kế hoạch và bằng 33,4% so với năm 1997. Tuy
nhiên còn một số doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều
mặt hạn chế, cho nên chưa làm tốt nộp thuế cho NSNN. Chẳng hạn như Công ty

thương mại tổng hợp Hà Giang, Công ty xuất nhập khẩu, Công ty du lịch, Công
ty chế biến nông sản thực phẩm Năm 1999 thực hiện 7000 triệu đồng đạt
91,9% so với kế hoạch cả năm và bằng 99,5% so với năm 1998.
+ Thu ngoài quốc doanh:
Cùng với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế ngoài quốc
doanh cũng đã có những chuyển biến nhất định. Do đó hàng năm đóng góp vào
NSNN ngày càng tăng:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Năm 1997: Nộp vào NSNN 12.334 triệu, đạt 103% kế hoạch; năm 1998 nộp vào
ngân sách 15.400 triệu, đạt 104,45 so với kế hoạch và bằng 120% so với năm
1997. Năm 1999 nộp vào ngân sách 16.290 triệu, đạt 130,3% so với kế hoạch và
bằng 105,7% so với năm 1998. Năm 1999 là năm đầu tiên thực hiện 2 luật thuế
mới (VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp ), cơ sở thu nộp vì có nhiều nguyên
nhân cho nên thu từ hai loại thuế đó vào ngân sách thấp hơn so với thuế doan thu
và thuế lợi tức trước đây. Song tổng số thu nhập vẫn tăng hơn năm 1998. Sở dĩ
như vậy là do năm nay tỉnh được NSTW bổ sung vốn xây dựng cơ bản thanh
toán khối lượng vượt năm 1996, 1997 và việc quản lý thu thuế từ lĩnh vực xây
dựng cơ bản đã huy động kịp thời vào ngân sách địa phương.
+ Lệ phí trước bạ:
Đây là loại lệ phí nhằm vào việc hướng dẫn tiêu dùng của xã hội và điều tiết các
đối tượng có thu nhập cao theo chính sách hiện hành. Năm 1997 thực hiện 1.085
triệu, đạt 120% kế hoạch, năm 1998 thực hiện 2.153 triệu, đạt 111,4% so với kế
hoạch và tăng 119,2% so với năm 1997. Năm 1999 thực hiện 2.350 triệu, đạt
124,5% so với kế hoạch và tăng 132,2% so với năm 1998. Sở dĩ nguồn thu này
tăng lên là do nhu cầu mua sắm phương tiện đi lại, và xây dựng nhà ở trong nhân
dân tăng lên.
+ Thuế sử dụng đất lâm nghiệp:
Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển rõ rệt, dần
dần đã giải quyết được một phần quan trọng nhu cầu lương thực và bắt đầu chú ý
đến sản xuất nông sản hàng hoá với tỷ suất ngày càng tăng lên. Trong sản xuất

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhờ áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, chú trọng đầu tư hệ thống thuỷ lợi, nâng
cấp hệ thống kênh mương phục vụ cho tưới tiêu
Năm 1997 thực hiện 4.524 triệu, đạt 110,3% kế hoạch; năm 1998 thực hiện 4.596
triệu, đạt 100,8% kế hoạch và bằng 102% so với năm 1997; năm 1999 thực hiện
4.700 triệu, đạt 102,2% so với kế hoạch và tăng 102,2% so với năm 1998.
+ Thu thuế nhà đất:
Đây là khoản thuế thu từ các đối tượng dân cư có sử dụng đất làm nhà ở .
Năm 1997 thực hiện 1.260 triệu, đạt 109,6% kế hoạch; năm 1998 thực hiện 1.621
triệu đạt 124,7% kế hoạch và bằng 129% so với năm 1997; năm 1999 thực hiện
1.850 triệu đạt 112,1% so với kế hoạch và bằng 114,1% so với năm 1998.
+ Thuế thu nhập cá nhân:
Đây là khoản thu đánh vào những người có thu nhập cao. Khoản thu này phát
sinh chủ yếu từ những người làm việc trong các doanh nghiệp các Công ty liên
doanh với nướ ngoài.
Tổng thu năm 1997 là 80 triệu, đạt 160% kế hoạch; năm 1998 25% kế hoạch,
bằng 31% của năm 1997; năm 1999 đạt 120 triệu đồng, bằng 430% so với năm
1998. Nguyên nhân tăng là do số dự án và số người làm trong các dự án nước
ngoài trong tỉnh tăng lên.
+ Thu từ xổ số:
Đây cũng là một nguồn thu ngân sách đáng kể của tỉnh. Năm 1997 thực hiện 274
triệu đồng, đạt 274% kế hoạch; năm 1998 là 237 triệu, đạt 114,8% kế hoạch bằng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
105% của năm 1997; năm 1999 thực hiện 350 triệu, đạt 125% kế hoạch và bằng
121,9% của năm 1998.
+ Thu từ phí và lệ phí:
Năm 1997 thực hiện 1033 triệu; năm 1998 thực hiện2.055 triệu, đạt 171,3% kế
hoạch và bằng 198,9% năm 1997; năm 1999 thực hiện 2.300 triệu, đạt 119% kế
hoạch bằng 111,9% năm 1998. Đây là khoản thu tuy không ổn định, nhưng nếu
quản lý tốt tận thu triệt để sẽ góp phần đáng kể vào cho NS địa phương.

+ Thu từ thuế chuyển quyền sử dụng đất:
Năm 1997 thực hiện 568 triệu, đạt 167% kế hoạch; năm 1998 thực hiện 713
triệu, đạt 157,7% kế hoạch và bằng 125,5 so với năm 1997; năm 1999 thực hiện
800 triệu đồng, đạt 160,6% kế hoạch và bằng 112,2% năm 1998.
+ Thu từ cấp giấy quyền sử dụng đất:
Năm 1997 thựchiện 677 triệu, đạt 123,1% kế hoạc; năm 1998 thực hiện 1913
triệu, đạt 202,6% kế hoạch và bằng 282,5% năm 1997; năm 1999 thực hiện 2.700
triệu, đạt 148% kế hoạch và bằng 141,1% năm 1998. Nguyên nhân tăng thực
hiện chủ trương mở rộng phố phường thị xã, thị trấn cùng với việc đẩy mạnh
công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thị xã, thị trấn.
+ Thu từ đánh thuế xuất nhập khẩu:
Khoản thu này phải điều tiết 100% về NSTW. Năm 1997 thu 7.038 triệu, đạt
100,5% kế hoạch; năm 1998 thu được 1.057 triệu, đạt 11,1% kế hoạch và tăng
15% năm 1997; năm 1999 thu được 6000 triệu, đạt 200% kế hoạch và bằng
567,6% năm 1998. Sở dĩ năm 1998 Hải quan thu đạt thấp so với kế hoạch là vì:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Các doanh nghiệp địa phương tìm đối tác xuất nhập khẩu còn hạn chế. Ví dụ
mặt hàng quặng sắt được xuất khẩu từ cuối tháng 4/1998 nhưng số lượng cũng
như giá trị tính thuế thấp; các doanh nghiệp tỉnh bạn xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá qua các cửa khẩu Hà Giang giảm đi.
- Sản lượng các mặt xuất khẩu chủ lực của tỉnh (như chè, quặng) giảm đi, hơn
nữa tổng trị giá tính thuế lại thấp đi. Còn mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nông
sản, hàng tiêu dùng và tư liệu lao động phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng lại chủ
yếu qua con đường tiểu ngạch hoặc qua trao đổi của dân cư ở vùng biên giới,
nên khó thu thuế.
- Hàng xuất - nhập qua hình thức mậu dịch (chính ngạch) chủ yếu là nguyên liệu
phục vụ sản xuất, máy móc thiết bị thì lại có thuế suất thấp.
Ngoài các khoản thu đã nêu trên, còn có các khoản thu từ bán nhà sở hữu Nhà
nước; thu cho thuê đất; thu từ các khoản đóng góp của dân cư Tuy các nguồn
thu này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu của ngân sách tỉnh, nhưng do biết cách

tận thu, nên nó cũng góp phần quan trọng vào sự cân đối ngân sách chung của
tỉnh.
Tóm lại, qua sự phân tích trên đây về nguồn thu ngân sách, nhìn chung thu
NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang có chiều hướng tăng lên, năm sau thường lớn
hơn năm trước. Điều này được thể hiện trong việc thực hiện kế hoạch thu (không
kể phần trợ cấp của Trung ương: năm 1997 là 47.264,5 triệu, năm 1998 là 55.794
triệu, năm 1999 là 64.500 triệu) qua các năm đều vượt kế hoạch.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Song trên thực tế các chỉ tiêu thu chưa ổn định và chưa lớn. Nguyên nhân của
những thành công và tồn tại như sau:
- Nhờ có sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của
chính quyền địa phương từ tỉnh đến cơ sở về hoạch định chuyển đổi cơ cấu kinh
tế và có các biện pháp khai thác và phát triển nội lực của các thành phần kinh tế,
do đó bước đầu đã có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế tăng lên với tốc độ khá
nhanh và ổn định.
- Nhà nước phát huy và tăng cường vai trò quản lý ở tầm vĩ mô, từng bước tạo ra
và không ngừng hoàn thiện các môi trường thuận lợi để khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển như luật đầu tư, các luật về thuế, luật NSNN và kịp thời
ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật và văn bản dưới luật, nhờ đó mà
động viên có hiệu quả sức người, sức của vào phát triển sản xuất kinh doanh,
thực hiện quyền và nghĩa vụ của người công dân, phát huy dân chủ hóa và bình
đẳng trước pháp luật của các chủ thể trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường.
- Được sự quan tâm trực tiếp của các cấp Đảng và chính quyền từ tỉnh đến cơ sở
trong công tác tổ chức thu NSNN. Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục
nhận thức cho các đối tượng nộp thuế tự giác thấy được nghĩa vụ và quyền lợi
của công dân, của mọi ngành, mọi cấp. Các ngành chức năng có sự phối hợp chặt
chẽ, giúp cho chính quyền các cấp quản lý, khai thác, bồi dưỡng các khoản thu
cho NSNN.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Ngoài các nguyên nhân làm tăng thu cho NSNN, còn có những nguyên nhân làm
hạn chế đến thu ngân sách là:
- Nhận thức của một bộ phận những người kinh doanh dịch vụ và các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân chưa cao, chưa tự giác, cho nên nộp
thuế chưa đầy đủ, tìm mọi cách để chốn thuế, gian lận thuế, chây ỳ nộp thuế v.v
- Phẩm chất, năng lực của một bộ phận cán bộ thuế còn hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu. Một số cán bộ thuế do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, đã lợi
dụng chức quyền thông đồng với người kinh doanh dẫn đến vi phạm quy định
luật thuế như tính sai doanh thu bán hàng, bao cho miễn thuế bừa bãi
- Cơ quan chức năng chưa hướng dẫn các đối tượng đăng ký kê khai nộp thuế và
hướng dẫn thực hiện chế độ ghi chép sổ sách kế toán, còn bỏ sót nguồn thu, phản
ánh không trung thực, gây thất thoát cho NSNN.
- Sự phối kết hợp giữa các cơ quan chuyên môn với chính quyền, đặc biệt là
chính quyền xã trong quản lý thu thuế chưa tốt.
- Do ảnh hưởng của thiên tai, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực
cũng tác động không tốt đến hoạt động thu NSNN.
Tóm lại, trên đây là một số nguyên nhân ảnh hưởng tích cực làm tăng thu ngân
sách cũng như những nguyên nhân làm hạn chế thu ngân sách của tỉnh. Trong đó
có những nguyên nhân chủ quan của cán bộ; có nguyên nhân do cơ chế lạc hậu,
thiếu linh hoạt; có nguyên nhân khách quan như thiên tai Vì vậy, cần có những
biện pháp tích cực, khắc phục có hiệu quả những mặt tích cực, có như vậy mới
thực hiện tốt hơn thu ngân sách cho tỉnh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2. Về quản lý chi NSNN
Quán triệt chủ trương của Nhà nước là giảm bao cấp đối với các DNNN, tăng
tính tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tăng đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tăng đầu tư cho chiến lược con người như giáo dục
đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, tăng chi cho phúc lợi xã hội, xoá đói giảm nghèo,
tạo công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, công bằng xã hội Như vậy cơ cấu chi
có sự thay đổi theo hướng tích cực.

Đối với Hà Giang do tình hình và đặc điểm đã nêu trên, cho nên nhu cầu chi để
đảm bảo hoạt động cho bộ máy quản lý Nhà nước và cho mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội, giữ vững an ninh và trật tự an toàn xã hội rất lớn. Song nguồn thu ngân
sách lại rất hạn hẹp. Vì vậy trong năm qua tỉnh đã chủ trương tiết kiệm chi
thường xuyên hàng năm, dành từ 29% - 33% NS để chi cho đầu tư phát triển,
trong đó xây dựng cơ bản từ 27% - 30%, chi hỗ trợ cho các DNNN từ 1% - 2%.
Nhờ quản lý tốt chi ngân sách hàng năm cho nên đã đáp ứng đầy đủ các nhu cầu
chi thiết yếu, theo đúng kế hoạch đã được duyệt và đúng chế độ Nhà nước quy
định.
+ Về chi cho đầu tư phát triển:
Mấy năm qua chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ lớn. Đến nay cơ bản các công
trình đã phát huy tác dụng, tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật cho sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Năm 1997 tổng số vốn cấp phát cho đầu tư phát triển 106.123 triệu, đạt 92,2% kế
hoạch. Năm 1998 là 132.116 triệu, đạt 100,2% kế hoạch. Năm 1999 là 153.459
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
triệu; tương ứng trợ cấp cân đối ngân sách là 62.000 triệu; Nguyên nhân chi đầu
tư phát triển tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn là vì xây dựng cơ cấu hạ tầng, đặc
biệt là xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp và nông thôn, trọng tâm là
đường giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm xá nhu cầu
đòi hỏi rất lớn.
+ Về chi thường xuyên:
Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng chi ngân sách của tỉnh, hiện
chiếm 50 - 53%. Khoản chi này có xu hướng ngày càng tăng nhằm duy trì hoạt
động thường xuyên của các cơ quan hành chính sự nghiệp, cho các sự nghiệp
kinh tế văn hoá, xã hội Cơ cấu chi thường xuyên:
- Chi cho sự nghiệp phát triển kinh tế: chủ yếu chi cho phát triển nông nghiệp,
thuỷ lợi, lâm nghiệp, giao thông, kiến thiết thị chính và 7 chương trình kinh tế
của tỉnh.
Năm 1997 thực hiện 32.318 triệu, đạt 117,4% kế hoạch; năm 1998 thực hiện

35.491 triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1999 thực hiện 43.883 triệu, đạt 102,8%
kế hoạch. Mặc dù ngân sách địa phương còn hạn hẹp, nhưng tỉnh đã ưu tiên đầu
tư cho phát triển kinh tế, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển
sản xuất hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện từng bước xoá đói,
giảm nghèo.
- Chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo: Do đặc thù của tỉnh miền núi như đã phân
tích ở trên, cho nên khoản chi này cũng là cần thiết cấp bách và cũng chiếm khối
lượng và tỷ lệ khá lớn trong ngân sách tỉnh. Khoản chi này bao gồm: tiền lương,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
các khoản phụ cấp cho giáo viên, học sinh người dân tộc, sách giáo khoa vùng
cao và đồ dùng thiết bị, tài liệu của từng chuyên ngành. Năm 1997 thực hiện
76.385 triệu, đạt 107,4% kế hoạch; năm 1998 thực hiện 92.557 triệu, đạt 100%
kế hoạch; năm 1999 thực hiện 99.321 triệu, đạt 100,1% kế hoạch. Năm 1999 NS
địa phương luôn đảm bảo cấp phát và chi trả kịp thời các khoản chi lương cho sự
nghiệp giáo dục. Đặc biệt Hà Giang đang thực hiện nhiệm vụ xoá mù chữ phổ
cập giáo dục tiểu học, cho nên khoản chi này khá lớn. Năm 1999 Hà Giang được
công nhận là tỉnh đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học.
- Chi cho sự nghiệp y tế: Với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, công tác
phòng bệnh, phòng dịch được coi trọng thường xuyên, thực hiện đầy đủ các
chương trình y tế quốc gia, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho các bệnh viện,
trung tâm mạng lưới y tế xã được xây dựng và củng cố đi vào hoạt động có hiệu
quả. Năm 1997 chi 13.278 triệu, đạt 125% kế hoạch; năm 1998 thực hiện 16.980
triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1999 thực hiện 16.477 triệu, đạt 100,8% kế hoạch.
Các khoản chi cho y tế bao gồm chi lương, phụ cấp cơ bản, phụ cấp ngành và chi
cho công tác chuyên môn nghiệp vụ, sự nghiệp y tế. Năm 1999 thực hiện cơ chế
cấp phát kinh phí theo ngành dọc đã giảm được đầu mối quản lý cho ngành tài
chính địa phương.
- Chi cho sự nghiệp văn hoá, thông tin, phát thanh - truyền hình, thể dục thể thao:
Đây là khoản chi có ý nghĩa rất quan trọng góp phần đưa đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước đi vào đời sống của nhân dân các dân tộc.

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong những năm qua phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng của tỉnh được
củng cố và phát triển, các cuộc hội diễn, hội thảo được tổ chức dưới nhiều hình
thức, nhiều thể loại, được đông đảo các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân
tham gia. Hoạt động văn hoá, thông tin hướng về cơ sở để hoạt động. Năm 1997
đã chi 4.697 triệu, đạt 98,5% kế hoạch; năm 1998 thực hiện 4.062 triệu, đạt
100% kế hoạch; năm 1999 thực hiện là 3.680 triệu, đạt 106,2% kế hoạch.
- Chi cho công tác phát thanh truyền hình: Năm 1997 chi 3.632 triệu, đạt 142,9%
kế hoạch; năm 1998 là 2.991 triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1999 là 3085 triệu,
đạt 102,6% kế hoạch.
- Các khoản chi đảm bảo xã hội: Ngoài các khoản chi về trợ cấp xã hội; trợ cấp
cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, trả lương cho cán bộ hưu trí, NS tỉnh còn
giành thêm một khoản kinh phí thăm hỏi, quà tặng nhân ngày thương binh liệt sỹ,
xây dựng nhà tình nghĩa, trợ cấp xã hội cho người già cô đơn, trẻ em mồ côi, tàn
tật Năm 1997 NS tỉnh chi 2.973 triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1998 chi 4.730
triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1999 chi 6.066 triệu, đạt 128,2% kế hoạch. Điều
này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với đạo lý uống nước nhớ
nguồn của dân tộc ta.
- Chi cho công tác quản lý hành chính: Đây là khoản chi đảm bảo hoạt động cho
các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể. Do ngân sách hạn hẹp, nên việc
chi mua sắm trang thiết bị để nâng cao hiệu quả công tác còn rất hạn chế. Điều
kiện làm việc của cán bộ còn nhiều thiếu thốn. Nhà nước thực hiện chi theo dự
toán được duyệt, thắt chặt chi thường xuyên, thực hiện hết sức tiết kiệm khoản
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chi này để dành vốn chi cho đầu tư phát triển. Chi cho lĩnh vưc này: năm 1997 là
60.018 triệu, đạt 125,7% kế hoạch; năm 1998 là 55.869 triệu, đạt 100% kế hoạch;
năm 1999 là 62.526 triệu, đạt 109,2% kế hoạch.
Về công tác quản lý chi hành chính sự nghiệp đã thực hiện cấp phát theo dự toán
được duyệt. Tuy nhiên trong thực tế vẫn chưa thực hiện tốt kinh phí trong dự
toán được giao và chưa thực hiện tốt chủ trương tiết kiệm.

- Chi cho NS xã: Nhà nước đã xác định xã là một cấp NS do đó đã tạo điều kiện
cho chính quyền cơ sở chủ động thực hiện chức năng của mình, góp phần giữ gìn
an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Tổng chi NS xã năm 1997 là 18.651 triệu, đạt 105% kế hoạch; năm 1998 là
24.157 triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1999 là 26.696 triệu, đạt 116% kế hoạch.
Cho đến nay việc quản lý điều hành NS xã còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên
nhân chủ yếu là do trình độ đội ngũ cán bộ kế toán xã không đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ. Mặt khác số thu NS ở các xã còn rất thấp do chưa khai thác thêm
được nguồn thu. Vì vậy chi cho NS xã chủ yếu từ nguồn trợ cấp của NS huyện,
thị.
- Chi cho dự án và chương trình mục tiêu: Những năm qua trung ương đã ưu tiên
đầu tư cho tỉnh thông qua các chương trình mục tiêu như: giáo dục, y tế, chương
trình 06/CP, chương trình phát triển kinh tế các xã nghèo, chương trình vay vốn
120 Nhằm góp phần cải thiện bộ mặt vung cao biên giới của tỉnh. Năm 1997
chi 12.500 triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1998 chi 9.392 triệu, đạt 94% kế
hoạch; năm 1999 chi 15.048 triệu, đạt 100% kế hoạch. Nhờ có quan tâm chi NS,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cho nên đã đem lại những kết quả bước đầu đáng kể và rất quan trọng như: nhân
dân đã cơ bản bỏ trồng cây thuốc phiện, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, giảm dần
các hộ đói nghèo, trình độ văn hoá của nhân dân được nâng lên một bước, giảm
dần số người mù chữ, duy trì những phong tục tập quán tốt
- Các khoản chi NS khác: đây là khoản chi đột xuất nhằm phục vụ công việc đột
xuất bất thường về kinh tế - xã hội như thiên tại, địch hoạ Khoản chi này
thường tính bằng tỷ lệ nhất định trong định mức chi tiêu thường xuyên của
NSNN. Thực hiện các khoản chi này qua các năm như sau: năm 1997 là 13.217
triệu, đạt 97% kế hoạch; năm 1998 là 16.310 triệu, đạt 100% kế hoạch; năm 1999
là 9.300 triệu, đạt 101,5% kế hoạch.
Tóm lại, chi NS của tỉnh trong mấy năm qua đã có nhiều cố gắng theo hướng tích
cực. Nhu cầu chi ở mọi lĩnh vực ngày càng tăng. Ngân sách tỉnh đã cố gắng đảm
bảo chi cân đối giữa các lĩnh vực, các khoản chi. Công tác quản lý vốn đầu tư

xây dựng cơ bản được thực hiện chặt chẽ đảm bảo đúng nguyên tắc. Việc chi
mua sắm sửa chữa có trong dự toán được duyệt. Thông qua khâu thẩm định giá,
thực hiện việc chọn thầu, đấu thầu đúng quy định.
Công tác quản lý NS xã đã từng bước được củng cố và kiện toàn một bước, cho
nên nó đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên, trong công tác quản lý chi NS
của tỉnh Hà Giang còn có các mặt hạn chế như: việc quản lý vốn đầu tư một công
trình có nhiều phức tạp, vì nguồn vốn đầu tư vào đây có thể khác nhau, cơ quan
chủ quản các nguồn vốn đó khác nhau
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việc cấp phát vốn XDCB còn bị phân tán, dàn trải, thiếu tập trung cho nên không
dứt điểm, chậm đưa công trình vào sử dụng, do đó khả năng thu hồi vốn chậm,
ảnh hưởng đến trả nợ vốn vay.
Đối với các khoản chi thường xuyên, ngoài các khoản chi tiền lương, phụ cấp
lương, thì các khoản chi hội nghị, tiếp khách, văn phòng phẩm, vật rẻ tiền mau
hỏng chưa được quản lý chặt chẽ, có nhiều sơ hở, dễ gây ra tham ô, lãng phí,
kém hiệu quả. Vì vậy cần sẵn có những quy định, định mức chi thật cụ thể để hạn
chế đến mức thấp nhất những tiêu cực có thể xảy ra.
Công tác lập báo cáo quý, năm ở một số đơn vị còn chậm so với quy định của
luật NSNN; việc ghi chép mở sổ sách kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp cũng
như kế toán ngân sách vẫn còn xảy ra. Nguyên nhân tình trạng trên có thể do
trình độ năng lực hoặc là do thiếu sự trung thực. Chính vì vậy cần sớm đưa ra các
biện pháp để khắc phục tình trạng đó.
Tóm lại, sau 3 năm thực hiện luật NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã đem lại
những thành tựu nhất định. Song bên cạnh đó còn có những mặt hạn chế nhất
định. Để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế, cần phải có
phương hướng và giải pháp thích hợp để nâng cao công tác quản lý và sử dụng
NSNN trong những năm tới.
Phần thứ ba
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử
dụng NSNN của tỉnh hà giang

I. phương hướng, mục tiêu chung.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Mục tiêu của CNH, HĐH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, xã hội công
bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu đó nhất thiết phải có nguồn tài
chính to lớn và được bảo đảm ổn định và tăng trưởng cao. Trong đó trách nhiệm
của NSNN đóng vai trò quyết định. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII
khẳng định: " chính sách tài chính phải nhằm vào mục tiêu thúc đẩy sản xuất
phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn
cho đầu tư phát triển "(1)
Chiến lược phát triển kinh tế của Đảng nêu rõ: " phấn đấu hạn chế tiến tới
thăng bằng NS một cách tích cực, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu, chống thất
thu và lạm thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết phục vụ lợi ích chung của sự
nghiệp phát triển, cải tiến phân cấp quản lý kinh tế tài chính giữa trung ương và
địa phương, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, tạo điều
kiện phát triển kinh tế-xã hội. Đặc biệt là khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo,
đảm bảo chủ quyền và ổn định quốc gia, nếu còn bội chi thì bù đắp bằng nguồn
vốn vay, không đưa vào nguồn phát hành tiền" (2)
Tại hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng khoá VIII đã nêu rõ: " nâng cao tính thực
hiện của dự toán thu ngân sách hàng năm và thực hiện đúng chức năng chi
NSNN trên ba lĩnh vực (chi đầu tư, chi thường xuyên, chi trả nợ). Khống chế
mức bội chi ngân sách, tiến tới cân bằng thu chi và tăng dự trữ, không phát hành
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tiền cho chi tiêu ngân sách, trên cơ sở tăng thu tiết kiệm chi, Nhà nước tăng tỷ lệ
ngân sách dùng cho đầu tư phát triển. Thực hiện chế độ kiểm toán với các đơn vị
có sử dụng NSNN." (3)
Từ những phương hướng, nhiệm vụ chiến lược của Đảng, căn cứ vào tình hình
thực tế của địa phương, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XII

đã xác định phương hướng, nhiệm vụ chung phát triển kinh tế -xã hội đến năm
2000: tập trung mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Khai thác tốt tiềm năng thế mạnh cả 3
vùng, phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, sản xuất hàng hoá phát
triển trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện xoá đói giảm nghèo
đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, văn hoá- thông tin- thể dục thể thao, y tế và thực
hiện kế hoạch hoá dân số, phấn đấu giảm bớt khoảng cách giữa các vùng về đời
sống và tiến bộ xã hội. Bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Mục tiêu kinh tế-xã hội : nhịp độ tăng tổng sản phẩm GDP bình quân
12,4%/năm, thu nhập bình quân đầu người 300USD/năm. Cơ bản hoàn thành phổ
cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ trong toàn tỉnh; giảm tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên xuống còn 2%; ổn định định canh định cư cho 730 hộ với 4.684 khẩu đang
du canh du cư và 10.125 hộ với 66.072 khẩu còn du canh. Đảm bảo đủ mức ăn
cho 12 vạn người ở vùng cao còn thiếu nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Để thực hiện phương hướng và mục tiêu nói trên, công tác quản lý tài chính,
ngân sách lẫn quán triệt nguyên tắc, quan điểm chủ yếu sau đây:
- Xây dựng một nền tài chính vững mạnh để đảm bảo thực hiện được chức năng
của ngành và đáp ứng yêu cầu của những mục tiêu nhiệm vụ đặt ra. Vừa nâng
cao khả năng huy động cao các nguồn vốn tại chỗ, vừa nâng cao khả năng tiếp
thu nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, tạo thành sức mạnh tổng hợp của hoạt động
tài chính.
- Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền đối với hoạt
động sản xuất- kinh doanh, của các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh trên cơ
sở đó mới có điều kiện tăng thu ngân sách qua thuế và phí. Phải trên cơ sở nuôi
dưỡng nguồn thu, nghĩa là phải trên cơ sở đầu tư có trọng điểm cho việc phát
triển kinh tế-xã hội, tăng NSLĐ, để từ đó tăng được nguồn thu cho NS.
- Tăng cường kỷ cương, pháp chế tài chính trong việc quản lý tài chính. Đảm bảo

phát huy công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của tài chính ngân sách, đảm bảo hành
lang pháp lý cho các đơn vị, địa phương phát huy tính năng động, sáng tạo trong
công tác quản lý NSNN.
II. những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của
tỉnh hà giang.
Về những giải pháp huy động vốn cho NSNN:
1. Giữ vững đường biên giới, đảm bảo ổn định an ninh chính trị trên địa bàn, tạo
điều kiện cho nhân dân yên tâm sản xuất, các nhà doanh nghiệp trong và ngoài
tỉnh yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2. Thực hiện tốt chính sách tích luỹ vốn, nhất là vấn đề tiết kiệm trong dân cư và
xã hội. Đây là một giải pháp quan trọng và thiết thực. Vấn đề tiết kiệm, đầu tư
bền vững nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất theo hướng mọi người dân có
vốn đều được tự do đăng ký sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Tỉnh cần cụ thể
hoá và vận dụng các chính sách của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của mình trên
cơ sở luật pháp về chế độ chính sách chung của Nhà nước.
3. Tăng hiệu quả đầu tư bằng cách có chính sách đầu tư đúng đắn có cơ sở kinh
tế cho các ngành công nghiệp chế biến. Đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế-xã hội; ưu tiên cho các công trình trọng điểm phục vụ chung cho kinh tế-
xã hội của tỉnh. Doanh nghiệp Nhà nước phải vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN.
4. Tăng cường công tác quản lý và khai thác nguồn thu cho NSNN với quan điểm
là thu NSNN trong sự phát triển bền vững, tức là không làm suy yếu các nguồn
thu quan trọng mà phải bồi dưỡng, phát triển và mở rộng các nguồn thu một cách
vững chắc, lâu bền. Điều đó có nghĩa là cần xác định mức thu hợp lý, vừa đảm
bảo NSNN có nguồn thu cao vừa đảm bảo để các đối tượng NSNN có đủ điều
kiện tài chính tiếp tục phát triển. Xác định được mức thu tại điểm "giới hạn tối
ưu" không đơn giản mà cần phân tích, cân nhắc nhiều nhân tố khác nhau. Những
nguồn thu thuộc khu vực kinh tế quốc doanh có ý nghĩa đặc biệt thì cần chú ý bồi
dưỡng thông qua các biện pháp hỗ trợ đầu tư, trợ giúp khoa học, kỹ thuật, công

nghệ và nhân lực
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong hoạt động thu NSNN, cần hướng trọng tâm vào những biện pháp lớn sau
đây:
+ Hoàn thiện hệ thống thu từ các hoạt động kinh tế mà trọng tâm là thuế. Thuế là
phải thu chủ yếu của NSNN, là công cụ và điều tiết vĩ mô nền kinh tế vô cùng
quan trọng. Nó góp phần bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể của nền kinh tế,
bảo hộ hợp lý những mặt hàng trong nước sản xuất trong nước, thực hiện công
bằng xã hội. Thuế là một công cụ đòn bẩy để kích thích phát triển sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả. Chính sách thuế Nhà nước ban hành đã được pháp
luật hoá thì phải quán triệt đầy đủ đến mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức, mọi cá
nhân; phải tổ chức cho các đối tượng nộp thuế học tập, tìm hiểu để họ tự giác
thực hiện.
+ Rà soát lại toàn bộ các khoản thu phí, lệ phí đã ban hành trên địa bàn tỉnh, qua
đó chấn chỉnh những điểm không còn phù hợp, bổ sung những khoản thu phí và
lệ phí phù hợp với quy định của pháp luật Nhà nước. Phải được công khai, công
bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người tổ chức thực hiện làm
tốt công tác này, góp phần vào tăng thu cho NSNN.
+ Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền đối với các cơ
quan chức năng; thực hiện thu đúng, thu đủ, kịp thời đúng đối tượng, quản lý tốt
nguồn thu, bao quát hết nguồn thu, chống thất thu phát sinh trên địa bàn.
+ Tăng cường nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của bộ máy thu thuế, bao
gồm cả nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ
thuế và việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho công tác thu. Kiên quyết xử lý
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×