Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Các cơ quan chức năng và trách nhiệm quản lý thực trạng thu thuế đăng kí và hoạt động kinh doanh nhỏ hiện nay - 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.67 KB, 35 trang )

+ Năm 2000 chênh lệch là 943 hộ.
+ Năm 2001 chênh lệch tới 1006 hộ.
+ Năm 2002 có chênh lệch là 916 hộ.
- Số hộ quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN hàng tháng của Chi cục cũng chỉ đạt
72% - 73% so với hộ quản lý môn bài.
- Trong khi đó, số hộ có thực tế kinh doanh nhưng chưa được cấp mã số thuế lại
tương đối cao:
+ Năm 2000, số hộ chưa được cấp mã số thuế là 1753 hộ.
+ Năm 2001, còn 1712 hộ chưa được đưa vào diện quản lý thu thuế.
+ Năm 2002, số này là 1636 hộ.
Như vậy, số hộ kinh doanh thuộc diện phải lập bộ quản lý thu thuế nhưng chưa
được lập bộ quản lý thu chiếm 13% - 14% tổng số hộ đã được lập bộ. Việc bỏ sót
hộ này chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
Hàng năm, khi xây dựng dự toán thu, Chi cục thường lập dự toán nhỏ hơn nguồn
thu nên đã để lại một số hộ dự phòng. Những hộ này thường được giấu trong bộ
phụ. Nó như một kênh điều tiết cho tiến độ hoàn thành kế hoạch. Nếu kế hoạch thu
thực hiện yếu, thì những hộ này sẽ được thu ráo riết như một nguồn bổ sung để
hoàn thành kế hoạch. Nếu kế hoạch thu thực hiện tốt thì số thuế của những hộ này
có thể được ghim lại ở người nộp thuế dưới dạng nợ thuế (thường thì không xử
phạt). Bộ phụ dùng để theo dõi các hộ mới ra kinh doanh, hoạt động kinh doanh
chưa ổn định, hoặc những hộ kinh doanh thời vụ như kinh doanh tết, trung thu …
Về nguyên tắc, những hộ đã ra kinh doanh được 3 tháng thì phải đưa vào bộ chính
không được theo dõi trên bộ phụ nữa. Những hộ kinh doanh bán thời gian thường
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
xuyên như ăn sáng, ăn khuya, cơm trưa … đều phải theo dõi trên bộ chính. Do việc
theo dõi kiểm soát bộ phụ có nhiều lỏng lẻo nên số hộ trên bộ phụ chậm được đưa
vào bộ chính.
Cạnh đó có những hộ kinh doanh nhỏ có thu nhập thấp, theo nguyên tắc chỉ nộp
thuế môn bài và thông qua việc xem xét của hội đồng tư vấn được cấp giấy miễn
thuế có thời hạn, song một phần những hộ này không được làm thủ tục miễn thuế
theo quy định mà được bàn giao về cho phường để thu thuế không xuất biên lai.


Một số cán bộ quản lý địa bàn cũng ăn theo tách ra một số hộ coi như thuộc diện
phường quản lý nhưng tự thu bỏ túi hoặc để lập quỹ trái phép. Một số cán bộ tài
chính phường cũng lạm dụng bỏ ngoài ngân sách phường dùng cho cá nhân. Chi
cục Thuế hoàn toàn không nắm được nguồn thu này, hoặc có biết nhưng coi đây là
khoản hữu hảo cho việc xây dựng ngân sách phường và cũng là điều kiện vật chất
để chính quyền phường hỗ trợ cho công tác thu thuế trên địa bàn.
Ngoài ra có một nguyên nhân khách quan là: số lượng hộ kinh doanh rất lớn, quy
mô kinh doanh đa số là nhỏ và trải rộng trên khắp địa bàn quận, trình độ văn hoá, ý
thức chấp hành pháp luật của các hộ kinh doanh còn yếu so với khu vực kinh tế Nhà
nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nên đã có một số lượng lớn các
hộ ra kinh doanh nhưng không hề đăng ký thuế cũng như kê khai thuế.
Tình trạng bỏ sót hộ kinh doanh không chỉ gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước
mà còn gây khó khăn trong việc quản lý mã số thuế của Nhà nước, tạo sự phiền hà,
tuỳ tiện trong hành xử của cán bộ thuế và các đối tượng nộp thuế.
Trong công tác quản lý ĐTNT, quản lý hộ cá thể nghỉ kinh doanh cũng được Chi
cục đặc biệt chú trọng. Theo quy định hiện hành thì hộ kinh doanh nghỉ từ 15 ngày
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trở lên được xét giảm 50% thuế phải nộp của tháng, nếu nghỉ cả tháng thì được
miễn nộp thuế của tháng đó. Nhìn chung, đây là một chủ trương phù hợp, tạo điều
kiện giải quyết một phần khó khăn cho các hộ kinh doanh trong trường hợp vì lý do
bất khả kháng phải nghỉ kinh doanh. Tuy nhiên, nếu công tác này không được làm
tốt thì việc xét miễn, giảm này lại là một kẽ hở để các hộ kinh doanh lợi dụng để
trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Thực tế ở Chi cục cho thấy thời
gian qua các hộ nghỉ kinh doanh vì các lý do như: nghỉ để chuyển hướng kinh
doanh khác; nghỉ để sát nhập hoặc chia tách, nghỉ để di chuyển địa điểm khác; nghỉ
do điều kiện kinh doanh gặp khó khăn và nghỉ vì những lý do khác. Thời điểm có
nhiều hộ nghỉ nhất là dịp sau Tết nguyên đán do tình hình kinh doanh chững lại hay
các hộ đi lễ hội dài ngày. Trung bình một tháng ở Chi cục có 411 hộ nghỉ kinh
doanh chiếm 3,72% số hộ quản lý. Số hộ xin nghỉ này đã ảnh hưởng trực tiếp đến số
thuế thu được của Chi cục: trung bình giảm 106.387.000 đồng/tháng tiền thuế. Công

tác kiểm tra hộ nghỉ được đội thanh tra phối hợp với các đội thuế phường tiến hành
thường xuyên. Qua kiểm tra, hàng năm Chi cục đều phát hiện được những hộ lợi
dụng xin nghỉ để kinh doanh trốn lậu thuế. Chi cục cũng đều đã kiên quyết xử lý
truy thu và phạt đối với các hộ vi phạm này.
Bảng 2: Kết quả kiểm tra hộ nghỉ kinh doanh
2001 1.425 49 15.852.000
2002 2.814 25 59.085.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2001-2002)
Như vậy, số hộ "nghỉ giả" bằng 1,73% số hộ kiểm tra, tuy không đáng kể nhưng lại
gây ra thất thu thuế, không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các hộ kinh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
doanh, không thực hiện được yêu cầu công bằng trong chính sách động viên, làm
giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Về việc miễn thuế TNDN và không thu thuế GTGT cho các hộ thuộc diện có thu
nhập thấp (dưới 210.000 đồng/tháng): Chi cục đã ra quyết định cho 2.489 hộ - bằng
21% so với hộ quản lý. Đây là một tỷ lệ lớn đòi hỏi Chi cục phải thường xuyên rà
soát lại doanh thu để chuyển bớt các hộ có quy mô đã thay đổi sang diện phải quản
lý thu thuế, chống thất thu Ngân sách Nhà nước.
2.3.2. Tình hình quản lý doanh thu:
Trong công tác quản lý thu thuế, để nâng cao chất lượng thu ngân sách, cơ quan
thuế không chỉ tập trung quản lý tốt ĐTNT mà còn cần quản lý tốt doanh thu kinh
doanh của các hộ cá thể, bảo đảm thu sát với doanh thu thực tế kinh doanh. Doanh
thu của các hộ kinh doanh là cơ sở để xác định số thuế phải nộp. Việc quản lý chặt
chẽ doanh thu của hộ kinh doanh, đặc biệt hộ kinh doanh lớn có ý nghĩa quyết định
đến việc hoàn thành dự toán thu, đảm bảo công bằng bình đẳng về thuế. Tuỳ theo
phương pháp nộp thuế của các hộ cá thể, cơ quan thuế sẽ có biện pháp quản lý
doanh thu khác nhau. Hiện nay, ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, các hộ kinh doanh
nộp thuế theo 2 phương pháp là: khoán ổn định và kê khai. Cụ thể:
Biểu 3: Quản lý hộ kinh doanh theo phương pháp nộp thuế
Phương pháp nộp thuế Số hộ quản lý Tỷ trọng

1. Khoán ổn định: 6119 75,36%
Trong đó: - Bộ chính: 5918
- Bộ phụ: 201
2. Kê khai: 2001 24,64%
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong đó: - Khấu trừ 53
- Kê khai doanh thu 1706
- Kê khai chênh lệch 242
Tổng cộng: 8120 100%
Như vậy, số đối tượng nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định là rất lớn chiếm
75,36% số hộ kinh doanh, nhiều gấp 3 lần số hộ nộp thuế theo phương pháp kê
khai. Đối với các hộ nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định số thuế phải nộp
dựa theo doanh số ấn định của Chi cục (thực chất là khoán doanh thu). Còn đối với
hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai, cơ sở tính thuế dựa trên doanh
thu thực tế theo hoá đơn, chứng từ.
2.3.2.1. Quản lý doanh thu của hộ khoán ổn định:
Việc quản lý doanh thu của các hộ nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định rất
phức tạp, để có được một mức doanh thu ấn định phải thực hiện qua nhiều bước,
nhiều bộ phận cùng tham gia xem xét. Phương pháp này có ưu điểm: đơn giản trong
việc tính thuế, tạo được sự ổn định cho cả đối tượng nộp thuế và Chi cục. Song
nhược điểm của phương pháp này lại không nhỏ: mang tính áp đặt, thiếu sự công
bằng về nghĩa vụ thuế, đặc biệt khoán doanh thu khó có thể theo sát được tình hình
biến động về giá cả, về tình hình sản xuất kinh doanh của các đối tượng nộp thuế
nên khó có thể thu thuế cho phù hợp với biến động của tình hình kinh doanh.
Biểu 4: Tình hình quản lý doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán
Số hộ ghi thu 6.377 6.116 6.119
Doanh thu 27.012.872.000 22.751.520.000 20.794.012.000
Thuế 955.247.600 795.080.000 731.784.000
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Doanh thu bình quân 1 hộ 4.236.000 3.720.000 3.398.270

Thuế bình quân 1 hộ 149.800 130.000 119.592
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000- 2001-2002)
Hàng năm, Chi cục đã ra quyết định công bố ổn định thuế cho một số lượng lớn hộ
kinh doanh, nhưng doanh thu và mức thuế của các hộ này chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng doanh thu và tổng số thuế của hộ kinh doanh cá thuế. Doanh thu hộ
khoán bằng 19,06% doanh thu hộ cá thể và thuế thu được của hộ khoán bằng
19,23% thuế thu được của hộ cá thể. Lý do vì đối tượng nằm trong nhóm khoán
doanh thu chủ yếu là những hộ kinh doanh quy mô nhỏ, doanh thu thấp.
Công tác rà soát điều chỉnh lại doanh thu, mức thuế trước khi công bố ổn định thuế
được Chi cục tiến hành hàng năm.
Biểu 5: Kết quả điều chỉnh thuế
Tuy vậy, công tác này ở Chi cục vẫn chưa được quan tâm đúng mức: số lượt hộ tiến
hành điều chỉnh còn quá thấp so với số hộ công bố ổn định thuế, còn nhiều hộ từ 2-
3 năm nay vẫn chưa xem xét lại mức doanh thu và mức thuế nên nhìn chung mức
doanh thu khoán hiện nay thấp hơn doanh thu thực tế kinh doanh.
Biểu 6: Kết quả điều tra doanh thu một số hộ khoán
Sản xuất 50 442.750.000 527.083.000 84.333.000 84%
Dịch vụ 50 183.100.000 244.133.000 61.033.000 75%
Ăn uống 80 322.400.000 1.007.500.000 685.100.000 32%
Thương mại 120 672.000.000 840.000.000 168.000.000 80%
Tổng 300 1.620.250.000 2.618.716 998.466.000 61,87%
(Nguồn: Báo cáo điều tra doanh thu hộ khoán)
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Kết quả điều tra điển hình 300 hộ kinh doanh ở các ngành nghề khác nhau cho thấy
chênh lệch giữa doanh thu khoán và doanh thu điều tra là tương đối lớn
998.466.000 đ/300 hộ, doanh thu khoán chỉ đạt 61,87% doanh số điều tra, cá biệt ở
ngành ăn uống tỷ lệ này chỉ là 32% (chưa kể đến doanh thu thực tế kinh doanh của
các hộ có thể lớn hơn doanh thu điều tra). Như vậy, tình trạng thất thu doanh thu
khoán trên địa bàn quận vẫn còn nhiều và phổ biến ở tất cả các ngành nghề.
Tình hình trên đã dẫn đến số thuế ghi thu loại hộ thu khoán bình quân tháng / 2002

đã giảm so với bình quân tháng năm 2001 và giảm nhiều so với bình tháng / 2000
(như biểu 4).
2.3.2.2. Quản lý doanh thu của hộ kê khai:
Các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai sẽ được nộp thuế tuỳ thuộc
thực tế kết quả kinh doanh, không phải ấn định doanh thu tính thuế. Với loại hộ này,
đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải kê khai và xác định đúng số thuế phải nộp và
chịu trách nhiệm về số liệu đã kê khai theo quy định của pháp luật. Cơ quan thuế
chỉ phải kiểm tra, giám sát quá trình ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn,
chứng từ dùng làm căn cứ tính thuế của các hộ kinh doanh.
Bài 7: Tình hình quản lý doanh thu, mức thuế hộ kê khai
Doanh thu 61.291.596.000 54.643.356.000 89.197.397.000
Thuế 2.518.040.000 1.997.690.000 2.112.841.000
Doanh thu bình quân 1 hộ 39.189.000 29.268.000 44.576.410
Thuế bình quân 1 hộ 1.610.000 1.070.000 1.055.893
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Các hộ kê khai tuy chiếm tỷ trọng nhỏ về hộ kinh doanh (từ 20%-25%) nhưng
doanh thu chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu hộ kinh doanh cá thể (70%-75%). Do
đó số thuế thu được từ các hộ kê khai cũng chiếm tỷ trọng lớn (trên 55%) số thuế
thu ở khu vực cá thể.
Nhìn chung các hộ thu theo kê khai chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sổ sách kế
toán:
- Một số hộ lợi dụng quy trình tự khai, tự tính thuế để kê khai mức doanh thu thấp
nhằm trốn thuế, có hộ kinh doanh trước đây thu khoán với doanh thu 100-150 triệu
đồng, thuế từ 12-15 triệu đồng / tháng, nay thu thơeo phương pháp kê khai chỉ còn
1,5 triệu đồng / tháng, điển hình:
+ Hộ Lê Quốc Thắng kinh doanh gas ở phường Bạch Đằng, doanh thu kê khai
với cơ quan thuế 100 triệu đồng, doanh thu cơ quan Công an điều tra trên 2 tỷ đồng.
+ Hộ Nguyễn Thị Khiển kinh doanh đại lý bán chè ở Minh Khai, doanh thu kê
khai 1,1 triệu đồng, doanh thu điều tra 100 triệu đồng.

+ Hộ Bùi Linh Thơm bán vải ở Phùng Khắc Khoan, doanh thu kê khai 800.000
đồng, doanh thu điều tra 20 triệu đồng.
- Một số hộ có hành vi trốn thuế qua việc bán hàng không xuất hoá đơn; hoặc có ghi
hoá đơn nhưng ghi thấp hơn so với giá bán thực tế; hoặc mua hoá đơn để lập giao
cho khách hàng, hay mua hoá đơn để lập khống hợp thức hoá các khoản chi; hoặc
có tình trạng hộ kinh doanh đã tự huỷ toàn bộ hoá đơn đã sử dụng để đối phó với
Chi cục kiểm tra quyết toán thuế (như hộ 32 Nguyễn Công Trứ báo mất 32 quyển
hoá đơn, hộ 119 Phố Huế báo mất 50 quyển hoá đơn) …
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thêm nữa, công tác kiểm tra giám sát việc ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn chứng
từ đối với hộ kinh doanh của Chi cục chưa đạt yêu cầu số lượng hộ ra quyết định xử
lý là quá ít so với thực tế: năm 2001 có 52 hộ bị xử lý và năm 2002 là 48 hộ.
Do vậy, vẫn còn thất thu thuế đối với hộ kê khai, mức thuế bình quân một tháng của
một hộ thu theo kê khai bị giảm nhiều: mức thuế bình quân một hộ một tháng năm
2002 là 1.055.893 đồng, năm 2001 là 1.070.000 đồng, năm 2000 là 1.610.000 đồng
(như biểu 7).
2.3.3. Tình hình đôn đốc thu nộp thuế.
Đôn đốc thu nộp thuế là khâu thiết thực đem lại số thu thực tế cho Ngân sách Nhà
nước. Vì vậy, Chi cục cũng coi đây là trọng tâm quản lý. hàng tháng, Chi cục chỉ
đạo các đội thuế phường, chợ có trách nhiệm đôn đốc hộ kinh doanh nộp tiền thuế
đúng thời hạn, đảm bảo thu róc số thuế phát sinh, tối thiểu phải đạt 90% số cơ sở
nộp đúng ngày ghi theo thông báo, số còn lại chậm nhất đến ngày 25 của tháng sau
phải thu hết.
Toàn quận hiện nay có 2.130 hộ nộp thuế trực tiếp tại Kho bạc (chiếm 18,52% số hộ
quản lý), số còn lại (81,48%) cán bộ thuế trực tiếp thu tiền và viết biên lai thuế. Với
một số lượng lớn hộ nộp tiền thuế thông qua cán bộ thuế đó không chỉ ảnh hưởng
đến quỹ thời gian để cán bộ thuế đi sâu quản lý mà còn dễ phát sinh tiêu cực như
cán bộ thuế xâm tiêu tiền thuế …
Trên địa bàn quận có 4 điểm thu của cơ quan Kho bạc là:
Trụ sở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng.

Chợ Mơ.
Chợ Hoà Bình.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Số 44 phố Trần Nhân Tông.
Biểu 8: Kết quả thu nộp thuế hộ kinh doanh cá thể
Năm Số thuế ghi thu Số thuế thực nộp Tỷ lệ nộp Số thuế nợ đọng
Tỷ lệ nộp
2001 52.316.810.000 51.418.810.000 98,28% 898.000.000 1,72%
2002 52.686.907.000 52.107.351.000 98,9% 579.556.000 1,1%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2001-2002)
Số liệu trong biểu 8 cho thấy kết quả rất đáng ghi nhận của Chi cục trong việc đôn
đốc thu nộp thuế: Số hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách rất
cao (trên 98%) dẫn đến số thuế thực thu được đạt cao. So với 12 Chi cục Thuế quận
huyện của Thành phố Hà Nội, số thu về hộ của Chi cục cao thứ 2, chỉ đứng sau
quận Hoàn Kiếm. Chi cục luôn cố gắng hạ thấp tỷ lệ nợ đọng xuống mức có thể;
nếu như năm 2001 tỷ lệ nợ đọng là 1,72% thì sang năm 2002 tỷ lệ này chỉ còn 1,1%
- số thuế nợ đọng giảm từ 898.000.000 đồng xuống 579.556.000 đồng.
Tuy nhiên, số thuế nợ đọng phát sinh hàng năm còn lớn, đòi hỏi chi cục cần phải
tiếp tục tập trung đôn đốc.
Biểu 9: Báo cáo nợ đọng khu vực cá thể tính đến 31/12/2002
Tổng số thuế nợ luỹ kế Nợ năm trước chuyển sang Nợ năm 2002
Lượt hộ Thuế Lượt hộ Thuế Lượt hộ Thuế
4.407 1.010.903.000 1.995 431.347.000 2.412 579.556.000
Như vậy, tính đến hết năm 2002, Chi cục có 4407 lượt hộ nợ thuế với số tiền thuế là
1.010.903.000 đồng - trong đó chỉ có 2412 lượt hộ nợ phát sinh trong năm 2002,
còn 1995 hộ nợ tồn đọng từ các năm trước. Hiện tượng nợ đọng thuế không những
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
không động viên kịp thời, đầy đủ vào cho ngân sách Nhà nước mà còn gây ra thất
thu thuế. Các hộ nợ đọng tiền thuế do nhiều nguyên nhân:
Tình hình kinh doanh gặp khó khăn về tài chính xin Chi cục cho nợ thuế.

Bỏ, nghỉ hẳn không kinh doanh nữa hay di chuyển địa điểm kinh doanh sang địa
bàn khác - những trường hợp này, hộ kinh doanh không thực hiện báo cáo với Chi
cục nêu trong thời gian cán bộ thuế chưa phát hiện ra thì bộ phận nghiệp vụ vẫn căn
cứ vào sổ bộ thuế đã duyệt ra thông báo thuế làm tăng số thuế nợ đọng.
Cố tình chây ỳ, dây dưa và chốn thuế.
Các nguyên nhân khác.
Hàng năm, công tác phối hợp với lực lượng liên ngành và chính quyền cơ sở để thu
hồi nợ đọng thuế đối với các hộ kinh doanh đều đã được Chi cục tiến hành và đem
lại những kết quả nhất định:
Năm 2002:
+ Chi cục đã thu nợ của 1536 lượt hộ với số thuế 695.280.000 đồng.
+ Kết hợp Viện kiểm sát quận đòi nợ 2 trường hợp, số tiền 86.381.000 đồng.
+ Chuyển hồ sơ các hộ cho thuê nhà, cửa hàng có hành vi chây ỳ không chấp
hành nộp thuế để Viện kiểm sát hỗ trợ xử lý.
2.3.4. Tình hình triển khai kế toán hộ kinh doanh.
Thực hiện sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ khoa học giúp cho hoạt động quản lý
kinh doanh được thuận lợi. Về mặt quản lý Nhà nước đã hạn chế dần tình trạng thất
thu về thuế, từng bước tạo nguồn thu ổn định, tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
Đồng thời là điều kiện thuận lợi để thực hiện thành công Luật thuế giá trị gia tăng
và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và sự cần thiết của công tác kế toán hộ, Chi cục
Thuế Hai Bà Trưng đã rất quan tâm và tích cực triển khai công tác ngày trong
những năm qua.
Năm 2001 là năm trọng tâm triển khai công tác kế toán hộ. Chỉ tiêu Cục giao về
việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán là 3.300 hộ, Chi cục đã thực hiện mở sổ sách
cho 3.448 hộ - đạt 104,45%, trong đó có 3.280 hộ đã mở từ năm 2000, và 168 hộ
mới phát sinh được mở thêm.
Năm 2002, Chi cục tiếp tục duy trì số hộ hiện đang thực hiện sổ sách kế toán và
thường xuyên rà soát, phân loại hộ kinh doanh trên địa bàn để đưa thêm số hộ phát

sinh vào diện thực hiện sổ sách kế toán.
Biểu 10: Báo cáo thực hiện triển khai kế toán hộ năm 2002
Thực hiện năm 2001
Số hộ môn bài bậc 1, 2 năm 2002
Số hộ đã triển khai kế toán hộ đến nay
Trong đó
Hộ khấu trừ Hộ kê khai chênh lệch
Hộ kê khai doanh thu
Hộ khoán
Như vậy, năm 2002 số hộ triển khai kế toán tăng 318 hộ so với thực hiện năm 2001.
Đối với các hộ mới phát sinh, Chi cục đã mời các hộ lên phổ biến về chế độ kế toán
hộ và làm thủ tục nhận sổ để thực hiện việc ghi chép. Đồng thời Chi cục đã lựa
chọn cán bộ có trình độ nghiệp vụ xuống từng hộ để hướng dẫn thực hiện ghi chép
sổ sách kế toán.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Công tác tuyên truyền phổ biến về mục đích, nội dung chế độ kế toán hộ kinh doanh
theo Quyết định số 169 của Bộ Tài chính được thực hiện thường xuyên trên các
phương tiện truyền thanh của phường, do đó hộ kinh doanh dần dần ý thức được lợi
ích của việc thực hiện chế độ kế toán, nộp thuế theo kê khai là công bằng, khoa học
hơn hình thức nộp thuế khoán: kinh doanh nhiều nộp thuế nhiều, ít nộp thuế ít,
không kinh doanh không nộp.
Thông qua thực tế, các hộ kinh doanh đã biết cách ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng
hoá đơn chứng từ khi mua bán hàng hoá.
Đặc biệt, do yêu cầu của việc thực hiện Luật thuế các doanh nghiệp đòi hỏi phải
được xuất hoá đơn khi có quan hệ cung ứng hàng hoá, dịch vụ đã thúc đẩy hộ kinh
doanh thực hiện tương đối tốt chế độ sổ sách kế toán và sử dụng hoá đơn chứng từ,
góp phần chống thất thu thuế, các hộ kinh doanh đã tự kê khai doanh thu và thuế
tăng nhiều so với trước đây:
Hộ kinh doanh Mức thuế khoán Thuế thu theo kê khai
Hộ ông Dũng - 176 Trương Định 1.500.000 đ/tháng 12.043.000 đ

Hộ ông Thịnh - 62 Mai Hắc Đế 370.000 đ/tháng 13.000.000 đ
Hộ bà Loan - 276 Ngô Thì Nhậm 1.995.000 đ/tháng 10.787.000 đ
Tuy nhiên, công tác kế toán hộ kinh doanh vẫn còn nhiều tồn tại cần được khắc
phục như:
- Trên địa bàn quận còn khoảng 30 hộ kinh doanh thuộc diện mở sổ sách kế toán (có
bậc môn bài 1,2) nhưng chưa thực hiện do nguyên nhân khách quan, như các hộ có
doanh thu lớn nhưng bán hàng ở vỉa hè, kinh doanh hàng thực phẩm tươi sống, hộ
cho thuê nhà kê khai theo hợp đồng … Còn khoảng 20 hộ đã có quyết định của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
UBND quận phải mở sổ sách kế toán nhưng chưa thực hiện do không mặn mà vì
vừa phải giữ sổ, xuất hoá đơn, vừa thường phải chịu mức thuế cao hơn mức khoán
doanh thu với các hộ cùng bậc môn bài cùng ngành hàng kinh doanh. Mặt khác do
một số cán bộ thuế có nhiều quyền lợi trong việc ấn định thuế nên không chú ý đến
việc thực hiện sổ sách. Còn trên 1000 hộ (chiếm 30%) không thực hiện việc nộp tờ
khai thuế, Chi cục chưa có biện pháp xử lý kiên quyết.
- Tình hình quản lý, sử dụng hoá đơn của một số hộ kinh doanh chưa được tốt, còn
nhiều vi phạm:
+ Xuất hiện nhiều hộ kinh doanh làm mất hoá đơn với số lượng rất lớn. Hành
vi làm mất hoá đơn thể hiện phức tạp, nhiều dạng và có tính chất, mức độ nguy
hiểm cao.
+ Xuất hiện những hộ lợi dụng hoạt động kinh doanh để mua bán hoá đơn
kiếm lời. Tình hình sử dụng hoá đơn của các hộ này có những hiện tượng như: bán
khống liên 2, liên lưu ghi số tiền ở mức thấp; báo mất cả quyển hoá đơn nhưng thực
tế vẫn giữ lại để bán hoá đơn khống cho những đối tượng có nhu cầu; đăng ký thuế
để mua hoá đơn, nộp thuế từ 1 đến 2 tháng, sau đó xuất hoá đơn các liên khớp nhau
với số tiền rất lớn, Chi cục vừa phát hiện để điều chỉnh thuế thì đối tượng đã xin báo
nghỉ.
+ Ngoài ra, đối với một số hộ kinh doanh nộp thuế khoán, các hộ này thường
ghi hoá đơn trên ít dưới nhiều, sự chênh lệch giữa các liên hoá đơn có khi lên đến
hàng trăm triệu đồng.

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việc quản lý, sử dụng hoá đơn như thế của các hộ kinh doanh sẽ gây hậu quả rất
xấu cho công tác quản lý thuế. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng
mua bán hoá đơn, trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế có cơ hội phát triển.
- Nhìn chung số thuế nộp khi thực hiện chế độ kế toán của các hộ nộp thuế theo
phương pháp trực tiếp trên doanh thu là thấp hơn số thuế phải nộp theo phương
pháp khoán trước đây. Số thuế nộp thấp hơn không phản ánh đúng thực tế kinh
doanh của hộ. Đó thực chất là số thuế hộ kinh doanh kê khai theo cách đối phó với
cơ quan thuế. Để nộp thuế thấp hơn, hộ kinh doanh chỉ việc so sánh doanh thu ấn
định theo mức thuế khoán trước đây với mức doanh thu thể hiện trên Sổ nhật ký bán
hàng trên hoá đơn bán hàng. Nếu doanh thu bán hàng cao hơn (nộp thuế cao hơn)
doanh thu ấn định, hộ kinh doanh sẽ có biện pháp điều chỉnh lại số doanh thu bán
hàng, bằng cách hạn chế việc xuất hoá đơn, ghi Sổ nhật ký bán hàng. Do không phải
theo dõi hàng hoá mua vào, tồn kho nên việc quản lý doanh thu đầu ra của các hộ
này là hết sức khó khăn. Và việc thực hiện ghi doanh số thấp hơn thực tế, đối với hộ
kinh doanh thì không có gì là khó khăn. Với hình thức kế toán áp dụng đối với hộ
nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu hiện nay (quy định chỉ phải mở
một loại sổ sách kế toán là Sổ nhật ký bán hàng), cơ quan thuế không thể kiểm tra
toàn diện, chính xác, đầy đủ việc xuất hoá đơn của các hộ kinh doanh để xác định,
kết luận hộ kinh doanh xuất hoá đơn không đúng thực tế.
- Việc mua hàng lấy hoá đơn không phải lúc nào cũng dễ dàng thuận tiện, nhất là
đối với trường hợp người tiêu dùng mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu cá
nhân do tâm lý người mua hàng khi thấy việc lấy hoá đơn khó khăn, phải chờ đợi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thì ngại, không lấy hoá đơn. Mặt khác do người dân mua hàng chưa có thói quen
yêu cầu người bán xuất hoá đơn.
2.4. Đánh giá tình hình quản lý thu thuế hộ kinh doanh cá thể.
2.4.1. Những kết quả đạt được.
Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ viên chức trong Chi cục, được sự chỉ
đạo và giúp đỡ của Quận uỷ, Hội đồng Nhân dân Quận, UBND Quận, Cục Thuế

Thành phố Hà Nội và các ban ngành có liên quan, sự phối kết hợp chặt chẽ của
UBND các phường, công an, quản lý thị trường , thời gian qua Chi cục luôn hoàn
thành nhiệm vụ thu đối với khu vực cá thể. Số thu từ các hộ kinh doanh cá thể của
Chi cục lớn thứ hai Thành phố, chỉ sau quận Hoàn Kiếm. Số liệu cụ thể như sau:
Biểu 11: Kết quả thu thuế hộ cá thể
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002
Tổng thu ngoài quốc doanh 62.749.311.000 65.503.243.000
Thuế thu từ khu vực cá thể 51.107.351.000 52.107.351.000
Tỷ trọng thu khu vực cá thể so tổng thu NQD 81,4% 79,5%
Thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao cho, ngay từ đầu năm, để đảm bảo tiến độ
công việc, tất cả các cán bộ viên chức trong Chi cục đã tập trung, phấn đấu cao độ
thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Căn cứ vào kế hoạch cấp trên giao, vào tình
hình thực tế trên địa bàn, Chi cục đã giao kế hoạch cụ thể cho từng đội thuế. Mọi
công việc từ khâu lập sổ bộ, rà soát, phân loại nợ đọng … đều được tiến hành khẩn
trương, có sự phối hợp giữa văn phòng với các đội thuế phường, đội thanh tra.
Chi cục tiếp tục duy trì hoạt động của Tổ Thường trực giải đáp các vướng mắc về
chính sách thuế cho các hộ kinh doanh trên địa bàn, theo dõi và nắm chắc tình hình
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
biến động về giá cả thị trường, về tình hình quản lý và sử dụng hoá đơn bán hàng …
Tổ Thường trực theo dõi tình hình triển khai các luật thuế, tăng cường đối thoại với
các đối tượng nộp thuế để phát hiện những khó khăn, vướng mắc, kịp thời có biện
pháp xử lý.
Bệnh cạnh đó, Chi cục cũng phát huy mạnh mẽ vai trò của Ban Chỉ đạo chống tham
nhũng và Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan. Ban chỉ đạo đã
kiểm tra đôn đốc các tổ, đội trong Chi cục phải thực hiện nghiêm túc 2 Pháp lệnh:
Pháp lệnh tiết kiệm chống lãng phí, Pháp lệnh chống tham nhũng và thực hiện Kế
hoạch số 38 của UBND Thành phố Hà Nội về triển khai thực hiện quy chế dân chủ.
Cụ thể: Chấn chỉnh việc tiếp dân, đảm bảo đúng quy chế; xử lý dứt điểm các vụ vi
phạm xẩy ra qua kết luận của thanh tra Chi cục hoặc xử lý dứt điểm các đơn tố cáo
nội bộ; xem xét giải quyết kịp thời các vụ khiếu nại thuộc thẩm quyền của pháp luật

quy định; đôn đốc các bộ phận hành thu thực hiện đúng quy trình quản lý thu thuế
của ngành.
Công tác kiểm tra hộ nghỉ được tiến hành thường xuyên, nhất là vào dịp Tết nguyên
đán, kiên quyết xử lý truy thu và phạt đối với những hộ lợi dụng xin nghỉ để kinh
doanh trốn lậu thuế.
Hàng tháng Chi cục thường xuyên kiểm tra, rà soát tất cả các hộ có sản xuất kinh
doanh trên địa bàn, đặc biệt là các khu nhà tập thể, chợ tạm, ngõ xóm …, đối chiếu
các hộ đang có mã số thuế, khắc phục tình trạng chênh lệch về số hộ thu môn bài và
số hộ cấp mã số thuế.
Thực hiện Thông tư 42 về việc ổn định mức thuế đối với hộ thu khoán Chi cục phối
hợp với Hội đồng tư vấn thuế các phường tiến hành rà soát doanh thu, chống thất
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thu về doanh số (chú trọng với những hộ thực hiện chế độ kế toán) để tiến hành ổn
định thuế 6 tháng - 1 năm cho các hộ kinh doanh.
Công tác khai thác các nguồn thu khác trên địa bàn nhiều phường đã phối hợp với
các đội thuế thu tốt góp phần tích cực vào việc thực hiện kế hoạch.
Về công tác kế toán hộ kinh doanh, hàng tháng Chi cục đều tiến hành kiểm tra sổ
sách kế toán và việc sử dụng hoá đơn; vận đơn, khuyến khích các hộ kinh doanh
thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ, nộp thuế theo kê khai.
Hàng tháng, Chi cục đều chú trọng công tác thu hồi nợ đọng, xử lý kiên quyết
những trường hợp dây dưa chây ỳ tiền thuế, tham mưu và tập trung lực lượng giúp
cho Ban Chỉ đạo thu hồi nợ đọng thuế của quận. Tập trung đôn đốc các đối tượng
kinh doanh nộp đúng, nộp đủ, nộp kịp thời số thuế đã phát hành thông báo vào Kho
bạc, không để nợ thuế.
Thực hiện chỉ thị về việc tăng cường quản lý chống thất thu thuế của Bộ Tài chính,
Chi cục đã thành lập các tổ công tác chống thất thu. Căn cứ vào đặc thù của từng địa
bàn, các tổ công tác đã có biện pháp trọng tâm thiết thực: kiểm tra việc chấp hành
chế độ sổ sách kế toán, kiểm tra chống sót hộ, rà soát doanh thu, đôn đốc thu nợ …
Nói chung, công tác quản lý thu thuế đối với hộ cá thể ở Chi cục Thuế Hai Bà
Trưng đã có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao ý tuân thủ pháp luật

thuế của các hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho Ngân sách Nhà nước.
2.4.2. Những hạn chế cần khắc phục.
Qua báo cáo tổng kết công tác hàng năm, mỗi cán bộ thuế trong Chi cục đều rất
phấn khởi tự hào về kết quả thu thuế năm sau tăng hơn năm trước và năm nào cũng
hoàn thành vượt mức nhiệm vụ kế hoạch thu được giao. Tiếc rằng, trong mỗi báo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cáo tổng kết, dẫu thành tích phong phú đến bao nhiêu, đều có một đoạn văn mang
tính điệp khúc: "Tuy nhiên, kết quả thu như trên vẫn chưa tương xứng với tốc độ
tăng trưởng kinh tế, tiềm năng vẫn còn và có thể khai thác thu để đạt ở mức cao
hơn, tình trạng thất thu thuế vẫn còn".
Thất thu từ đối tượng nộp thuế:
- Thất thu về hộ kinh doanh xuất phát từ việc không thực hiện chế độ đăng ký m• số
thuế nhất là ở lĩnh vực vận tải tư nhân, hộ cho thuê nhà, xây dựng tư nhân, hộ kinh
doanh sáng tối, hộ kinh doanh thời vụ, vãng lai … Cạnh đó có những hộ kinh doanh
hàng tháng không nộp tờ kê khai thuế. Cũng có trường hợp hộ kinh doanh xin nghỉ
hoạt động, được miễn thuế nhưng thực tế vẫn kinh doanh bình thường.
- Đối tượng nộp thuế kê khai không trung thực, hiện tượng phổ biến là: kê khai
không đúng doanh thu thực tế, khai thấp giá bán và số lượng hàng bán, để ngoài sổ
sách kế toán những khoản thu đáng kể phải đánh thuế, ghi sai thuế suất - những mặt
hàng, hoạt động phải chịu thuế suất cao khai sang loại chịu thuế suất thấp … để
được nộp thuế thấp hơn số thuế phải nộp theo đúng luật.
- Chậm hoặc kéo dài thời gian nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế nhằm
chiếm dụng tiền thuế vào hoạt động kinh doanh của đơn vị, tiền thuế không được
tập trung đầy đủ, kịp thời vào Ngân sách Nhà nước.
Thất thu từ cán bộ thuế và cơ quan thuế:
- Chưa đưa hết các hộ có thực tế kinh doanh vào diện quản lý thu thuế chưa thu thuế
đầy đủ về số lượng cũng như giá cả hàng hoá tiêu thụ, áp dụng sai thuế suất quy
định cho từng ngành nghề, mặt hàng và thường là áp dụng với thuế suất thấp hơn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Cán bộ thuế thoả hiệp với đối tượng nộp thuế để giảm bớt số thuế phải nộp, nhất là

trong trường hợp xác định doanh thu, mức thuế khoán xem xét miễn giảm thuế.
- Chưa kiểm tra, thanh tra phát hiện sai sót trong kê khai nộp thuế và ghi chép sổ
sách kế toán.
Tình trạng thất thu thuế đã làm giảm số thu vào Ngân sách Nhà nước, không thực
hiện được yêu cầu công bằng bình đẳng giữa các hộ kinh doanh trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế, hơn thế nó làm nhờn kỷ cương phép nước.
2.4.3. Nguyên nhân thất thu thuế:
Từ đối tượng nộp thuế:
Bản chất của các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là tư lợi. Các hộ
kinh doanh nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung thường đòi hỏi được
hưởng nhiều quyền lợi nhưng lại không muốn thực hiện đầy đủ các chính sách động
viên của Nhà nước, trong đó có thuế. Với trình độ dân trí có hạn, họ chưa hiểu được
những lợi ích mà họ được hưởng về an ninh quốc phòng, về kinh tế - xã hội, về
phúc lợi công cộng, chủ yếu được đáp ứng từ nguồn thu về thuế. Đây là chủ thể trực
tiếp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nếu không tự giác thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để
trốn lậu thuế, chính vì vậy, việc nộp thuế được quy định thành nghĩa vụ công dân
trong Hiến pháp, là những nguyên tắc, chế độ trong Luật Thuế.
Từ cán bộ và cơ quan thuế:
Trình độ chuyên môn của cán bộ trực tiếp quản lý thu thuế nói chung còn yếu kém,
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Có cán bộ chưa đề cao tinh thần
trách nhiệm, không chịu khó tìm hiểu học hỏi nên khả năng công tác chưa tiến kịp
với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Một số cán bộ chưa sâu sát cơ sở, chỉ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
làm việc theo kiểu bàn giấy nên không kịp thời kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử
lý trốn lậu thuế. Một số cán bộ cố tình vi phạm pháp luật, chưa tự giác thực hiện
nghiệm chỉnh các quy trình, biện pháp về quản lý thu thuế.
Tuy công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đã được quan tâm hơn trước nhưng
còn nặng về hình thức, chưa thường xuyên và đi sâu để giải đáp cụ thể vướng mắc
để chính sách, chế độ thuế được thông suốt trong các tầng lớp dân cư.
Chương II Thực trạng công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi

cục thuế quận hai bà trưng
2.1. Đặc điểm tình hình hoạt động của hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận hai
bà trưng.
Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, phía Bắc giáp quận
Hoàn Kiếm, phía Đông giáp sông Hồng - Gia Lâm, phía Tây giáp quận Đống Đa và
Thanh Xuân, phía Nam giáp huyện Thanh Trì. Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng,
địa bàn quận thấp, có nhiều hồ, ao, sông, mương - đã từ lâu là hệ thống thoát nước
của thành phố, có cảng phà Đen cùng hệ thống đường bộ qua các cửa ô đã nối liền
Hà Nội với các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh phía Nam của Tổ quốc.
Quận Hai Bà Trưng có dân số khoảng 360,9 ngàn người, diện tích gần 15 km2 gồm
25 phường. Toàn quận có 364 đơn vị quốc doanh Nhà nước; 1453 công ty TNHH;
tổ sản xuất; hợp tác xã; công ty cổ phần; 6 chợ lớn, 9 chợ vừa và trên 20 chợ tạm, 3
trường đại học lớn: Kinh tế Quốc dân, Bách Khoa, Xây Dựng và 96 trường từ mầm
non đến trung học cơ sở; 5 bệnh viện lớn: Việt Xô, 108, Mắt, Thanh Nhàn, bệnh
viện Đường sắt và 34 cơ sở của các trung tâm y tế; cùng nhiều khu trung tâm vui
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chơi giải trí: Công viên Lê Nin, Hồ Thiền Quang, Bể bơi Tăng Bạt Hổ … Điều đó
cho thấy hoạt động sản xuất, kinh doanh của quận diễn ra khá sầm uất.
Trong các loại hình sản xuất, kinh doanh trên địa bàn quận, các hộ cá thể là đối
tượng kinh doanh chủ yếu. Hiện nay, trên toàn bộ quận có 13.600 hộ cá thể phân bố
rải rác trên khắp các phường, chợ. Trong số 25 phường, Ngô Thì Nhậm là phường
có số hộ kinh doanh cao nhất 655 hộ, thấp nhất là phường Hoàng Văn Thụ có 174
hộ. Trong 6 chợ lớn là: chợ Đồng Tâm, chợ Mai động, chợ Hôm, chợ Trương Đình,
chợ Mơ và chợ Hoà Bình thì chợ Mơ có số lượng tư thương cao nhất với 519 hộ.
Các hộ kinh doanh hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề thương mại, dịch vụ, ăn
uống, tiểu thủ công nghiệp vì đây là các ngành, lĩnh vực có thị trường lớn, đòi hỏi
vốn đầu tư không nhiều, phù hợp với nguồn vốn còn hạn hẹp của phần đông các hộ,
khả năng quay vòng vốn nhanh, hạn chế được rủi ro, tỷ suất lợi nhuận cao (trong
khi lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác thì cạnh tranh lớn, rủi ro cao, thị trường hẹp
…), phù hợp với triết lý khá phổ biến của các hộ "vốn ít, lãi nhiều, quay vòng

nhanh, rủi ro thấp". Sự tập trung của các hộ kinh doanh vào các lĩnh vực thương
mại - dịch vụ đã góp phần đáp ứng được nhiều nhu cầu về đời sống vật chất, văn
hoá của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy trở lại đối với sản xuất. Với sự phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng lẫn quy mô, các hộ kinh doanh đã đóng góp một phần đáng
kể vào tổng thu Ngân sách Nhà trước trên địa bàn quận. Hàng năm, số thu từ hộ
kinh doanh thường chiếm khoảng trên 50% trong tổng thu Ngân sách Nhà nước và
ngày một tăng qua các năm. Song, với một số lượng lớn hộ kinh doanh đó đã khiến
cho công tác quản lý thu thuế trở nên vô cùng phức tạp và bộc lộ nhiều hạn chế.
2.2. Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế tại chi cục thuế hai bà trưng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Chi cục Thuế quận Hai Bà Trưng được thành lập theo Quyết định số 315 ngày
21/8/1990 của Bộ Tài chính về việc thành lập Chi cục Thuế Nhà nước.
Nằm trong hệ thống thu thuế Nhà nước, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, chịu sự l•nh
đạo song trùng của Cục Thuế Hà Nội và UBND Quận Hai Bà Trưng, có chức năng
trực tiếp tổ chức công tác thu thuế trên địa bàn quận với nhiệm vụ và quyền hạn cụ
thể là:
Lập kế hoạch thu thuế hàng năm, hàng quý, hàng tháng trên địa bàn quận Hai Bà
Trưng.
Thực hiện các nghiệp vụ thu thuế và thu khác đối với các ĐTNT, đối tượng chịu
thuế theo đúng quy định của Nhà nước: tính thuế, lập sổ thuế, thông báo số thuế
phải nộp, phát hành các lệnh thu về thuế và thu khác, đôn đốc thực hiện nộp đầy đủ,
kịp thời mọi khoản thu vào Kho bạc Nhà nước, xem xét và đề nghị miễn giảm thuế
thuộc thẩm quyền và thực hiện quyết toán thuế.
Kiểm tra và xử lý các vi phạm chính sách, chế độ thuế, vi phạm kỷ luật trong nội
bộ ngành, giải quyết đơn thư khiếu nại theo thẩm quyền.
Thống kê, kế toán, thông tin và báo cáo tình hình kết quả thu nộp thuế.
Hiện nay toàn Chi cục có 238 cán bộ công chức (221 trong biên chế, 17 hợp đồng).
- Cán bộ công chức nam: 67 người.
Cán bộ công chức nữ: 171 người.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

+ Đại học : 17 người.
+ Trung học : 195 người.
+ Sơ cấp : 11 người.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Trình độ lý luận chính trị:
+ Cao cấp : 1 người.
+ Trung cấp : 4 người.
Bộ máy quản lý thu thuế của Chi cục bao gồm các bộ phận sau:
2.2.1. Ban Lãnh đạo.
Ban Lãnh đạo Chi cục gồm 5 người, trong đó:
Một Chi cục trưởng: Là chủ tài khoản, phụ trách chung kế hoạch thu thuế, phụ
trách Tổ Thanh tra - Kiểm tra và Tổ Nhân sự - Hành chính - Tài vụ.
Bốn Chi cục phó: trực tiếp phụ trách các đội thuế phường, chợ, tổ nghiệp vụ và các
đội thuế ở đầu mối giao thông.
2.2.2. Các tổ, đội thuế.
2.2.2.1. Tổ Nghiệp vụ:
- Xây dựng chương trình, biện pháp triển khai quản lý thu thuế, hướng dẫn việc
thực hiện chính sách thuế và các biện pháp nghiệp vụ hành thu.
- Hướng dẫn, giải thích những vướng mắc của ĐTNT trong quá trình thi hành luật
và các quy định về thuế của Nhà nước.
- Điều tra tình hình sản xuất của các ĐTNT để có kế hoạch điều chỉnh doanh thu và
mức thuế của các hộ, đảm bảo cân đối giữa các địa bàn. Rà soát các căn cứ tính thuế
của ĐTNT do các đội thuế gửi lên.
- Tham gia với Tổ Kế hoạch, tính thuế, lập bộ và kế toán để xây dựng dự toán thu.
- Tham gia với Tổ Thanh tra - Kiểm tra trong việc thanh tra, kiểm tra ĐTNT và các
đội thuế trong việc thực hiện quy trình thu.
2.2.2.2. Tổ Kế hoạch - tính thuế - lập bộ thuế và kế toán thu:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Chủ trì trong việc lập dự toán thu, theo dõi tình hình thực hiện dự toán thu thuế
hàng tháng, quý, năm.

- Lập sổ danh bạ ĐTNT, tổng hợp danh sách ĐTNT xin cấp mã số ĐTNT từ các đội
thuế chuyển đến để trình lên Cục Thuế, thông báo mã ĐTNT được cấp.
- Lập bộ thuế, xử lý tờ khai thuế, tính thuế, tính nợ, tính phát hoặc ấn định thuế,
phát hành thông báo thuế.
- Kế toán và theo dõi số thu nộp, thực hiện thống kê thuế.
- Xem xét quyết toán thuế của các ĐTNT kê khai, xác định số thuế phải nộp và thực
nộp trong năm, số thuế nộp thừa hoặc nộp thiếu để đưa vào thông báo thuế tiếp
theo.
- Thẩm hạch biên lai thuế.
- Cung cấp các thông tin cần thiết cho các Tổ nghiệp vụ, Thanh tra và các đội thuế
phục vụ cho công tác quản lý thu.
2.2.2.3. Tổ Thanh tra - Kiểm tra:
- Thực hiện kiểm tra các ĐTNT có đơn xin nghỉ kinh doanh, kiểm tra các tờ khai,
hồ sơ quyết toán thuế có nghi ngờ do đội thuế hoặc tổ kế hoạch chuyển đến.
- Thanh tra, kiểm tra cán bộ thuế trong việc thực thi chính sách thuế, các biện pháp
nghiệp vụ hành thu …
- Xử lý các trường hợp vi phạm về thuế, giải quyết các khiếu nại về thuế theo thẩm
quyền.
2.2.2.4. Tổ Quản lý ấn chỉ:
- Tổ chức kế toán nhập, xuất tất cả các loại ấn chỉ thuế, cấp phát và bán hoá đơn, tờ
khai thuế cho ĐTNT.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×