Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Vốn viện trợ nước ngoài vào Việt nam: Thách thức cho quản lý thất thóat và hiệu quả sử dụng potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.13 KB, 78 trang )

Lời mở đầu
Cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hiện nay
là nguồn tài chính rất quan trọng đối với Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh
tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với khoản ODA trị giá 17,5
tỷ USD mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam và 41% trong số đó đã được
giải ngân trong 8 năm qua, ODA đã khẳng định vai trò của nó đối với nền kinh tế
Việt Nam. Nguồn ngoại tệ này đóng góp một phần quan trọng để khắc phục tình
trạng thiếu vốn và cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật thấp kém ở nước ta.
Bên cạnh đó, sự gia tăng của nguồn vốn ODA còn giúp Chính phủ Việt Nam trong
việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế và giáo
dục cơ bản.
Trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời gian qua, mức giải ngân
thấp luôn luôn là chủ đề thảo luận với nhiều nhà tài trợ song phương và đa phương
nhằm tìm ra những nguyên nhân và giải pháp để khắc phục. Tuy nhiên, cho đến nay
vẫn chưa có sự tiến bộ đáng kể mà còn xuất hiện xu hướng tốc độ giải ngân chậm
lại trong thời gian gần đây. Giải ngân thấp thể hiện sự không hiệu quả trong việc sử
dụng nguồn vốn ODA và là một sự lãng phí lớn, trong điều kiện nhu cầu về vốn cho
phát triển kinh tế còn rất lớn như hiện nay.
Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ
giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai đoạn
2001-2005 " làm đề tài nghiên cứu cho bài Luận văn tốt nghiệp của mình. Mục tiêu
của đề tài là trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận về ODA, phân tích thực trạng
giải ngân ODA ở Việt Nam trong những năm qua để tìm ra những tồn tại, nguyên
nhân và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy tốc độ giải ngân ODA, nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn vốn này.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, bài Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này
được bố cục như sau:
Chương I : Cơ sở lý luận chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
và giải ngân vốn ODA.
Chương II : Đánh giá tổng quan về tình hình giải ngân nguồn vốn ODA tại Việt
Nam giai đoạn 1993-1999.


Chương III : Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA giai đoạn
2001-2005.
chương I
cơ sở lý luận chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
I-Những lý luận cơ bản về ODA
1-Khái niệm và đặc điểm của ODA
1.1-Khái niệm
ODA là tên gọi tắt của ba từ tiếng Anh Official Development Assistance có nghĩa
là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính thức.
Năm 1972, tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra định nghĩa như sau:
"ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch
này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%".
Tại Điều I Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ban
hành ngày 5-8-1977 có nêu khái niệm về ODA như sau :" Hỗ trợ phát triển chính
thức được hiểu là sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với một hay nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, bao gồm các hình thức sau:
1) Hỗ trợ cán cân thanh toán.
2) Hỗ trợ theo chương trình.
3) Hỗ trợ kỹ thuật.
4) Hỗ trợ theo dự án.
ODA bao gồm ODA không hoàn lại và ODA cho vay ưu đãi có yếu tố không hoàn
lại chiếm ít nhất 25% giá trị khoản vay.
Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại , viện trợ có
hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên
Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát
triển.
Nguồn vốn đưa vào các nước đang và chậm phát triển được thực hiện qua nhiều
hình thức:
-Tài trợ phát triển chính thức ( Official Development Finance - ODF ) là nguồn tài

trợ chính thức của chính phủ cho mục tiêu phát triển. Nguồn vốn này bao gồm ODA
và các hình thức ODF khác, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF.
-Tín dụng thương mại từ các ngân hàng ( Commercial Credit by Bank ) là nguồn
vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Invesment - FDI ) là loại hình kinh
doanh mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn tự thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh cho
riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê người quản lý (đầu tư
100% vốn ), hoặc góp vốn với một hay nhiều xí nghiệp của nước sở tại thiết lập cơ
sở sản xuất kinh doanh, rồi cùng các đối tác của mình làm chủ sở hữu và cùng quản
lý cơ sở sản xuất kinh doanh này ( xí nghiệp liên doanh ).
-Viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ ( Nongovernment Organisation -
NGO ).
-Tín dụng tư nhân: loại vốn này có ưu điểm là hầu như không gắn với các ràng buộc
chính trị - xã hội, song các điều kiện cho vay khắt khe ( thời hạn hoàn trả vốn ngắn
và mức lãi suất cao), vốn được sử dụng chủ yếu cho các hoạt động xuất nhập khẩu
và thường là ngắn hạn. Vốn này cũng được dùng cho đầu tư phát triển và mang tính
dài hạn. Tỷ trọng của vốn dài hạn trong tổng số có thể tăng lên đáng kể nếu triển
vọng tăng trưởng lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là khả
quan.
Các dòng vốn quốc tế này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một nước kém
phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hện đại hoá các cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội, thì cũng khó có thể thu hút được các nguồn vốn FDI, cũng
như vay vốn tín dụng khác để mở rộng kinh doanh. Nhưng nếu chỉ tìm kiếm các
nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút các nguồn vốn FDI và các nguồn vốn
tín dụng khác thì chính phủ sẽ không có đủ thu nhập để trả nợ cho các loại vốn
ODA.
1.2-Đặc điểm của nguồn vốn ODA:
-ODA là một giao dịch quốc tế, thể hiện ở chỗ hai bên tham gia giao dịch này
không có cùng quốc tịch. Bên cung cấp thường là các nước phát triển hay các tổ
chức phi chính phủ. Bên tiếp nhận thường là các nước đang phát triển hay các nước

gặp khó khăn về nguồn lực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế hay môi
trường.
-ODA thường được thực hiện qua hai kênh giao dịch là kênh song phương và kênh
đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp ODA trực tiếp cho chính
phủ quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương , các tổ chức quốc tế hoạt động nhờ các
khoản đóng góp của nhiều nước thành viên cung cấp ODA cho quốc gia được viện
trợ. Đối với các nước thành viên thì đây là cách cung cấp ODA gián tiếp.
-ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện ở chỗ giá
trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự chấp thuận và
phê chuẩn của chính phủ quốc gia tiếp nhận. Sự đồng ý tiếp nhận đó được thể hiện
bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với nhà tài trợ.
-ODA được cung cấp với mục đích rõ ràng. Mục đích của việc cung cấp ODA là
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước nghèo. Đôi lúc ODA cũng
được sử dụng để hỗ trợ các nước gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như khủng hoảng
kinh tế, thiên tai, dịch bệnh Do đó, có lúc các nước phát triển cũng được nhận
ODA. Nhưng không phải lúc nào mục đích này cũng được đặt lên hàng đầu, nhiều
khi các nhà tài trợ thường áp đặt điều kiện của mình nhằm thực hiện những toan
tính khác.
-ODA có thể được các nhà tài trợ cung cấp dưới dạng tài chính, cũng có khi là hiện
vật. Hiện nay, ODA có ba hình thức cơ bản là viện trợ không hoàn lại (Ggant Aid),
vốn vay ưu đãi ( Loans Aid ) và hình thức hỗn hợp.
2-Phân loại ODA
2.1-Phân loại theo tính chất
-ODA không hoàn lại : Đây là nguồn vốn ODA mà nhà tài trợ cấp cho các nước
nghèo không đòi hỏi phải trả lại. Cũng có một số nước khác được nhận loại ODA
này khi gặp phải các vấn đề nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh
Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn này thường được cấp dưới dạng các dự
án hỗ trợ kỹ thuật, các chương trình xã hội hoặc hỗ trợ cho công tác chuẩn bị dự án.
ODA không hoàn lại thường là các khoản tiền nhưng cũng có khi là hàng hoá, ví dụ
như lương thực, thuốc men hay một số đồ dùng thiết yếu.

ODA không hoàn lại thường ưu tiên và cung cấp thường xuyên cho lĩnh vực giáo
dục, y tế. Các nước Châu Âu hiện nay dành một phần khá lớn ODA không hoàn lại
cho vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ rừng và các loài thú quý.
-ODA vốn vay ưu đãi : đây là khoản tài chính mà chính phủ nước nhận phải trả
nước cho vay, chỉ có điều đây là khoản vay ưu đãi. Tính ưu đãi của nó được thể
hiện ở mức lãi suất thấp hơn lãi suất thương mại vào thời điểm cho vay, thời gian
vay kéo dài, có thể có thời gian ân hạn. Trong thời gian ân hạn, nhà tài trợ không
tính lãi hoặc nước đi vay được tính một mức lãi suất đặc biệt. Loại ODA này
thường được nước tiếp nhận đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng xã hội như xây
dựng đường xá, cầu cảng, nhà máy Muốn được nhà tài trợ đồng ý cung cấp, nước
sở tại phải đệ trình các văn bản dự án lên các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ
nước tài trợ. Sau khi xem xét khả thi và tính hiệu quả của dự án, cơ quan này sẽ đệ
trình lên chính phủ để phê duyệt. Loại ODA này chiếm phần lớn khối lượng ODA
trên thế giới hiện nay.
-Hình thức hỗn hợp : ODA theo hình thức này bao gồm một phần là ODA không
hoàn lại và một phần là ODA vốn vay ưu đãi. Đây là loại ODA được áp dụng phổ
biến trong thời gian gần đây. Loại ODA này được áp dụng nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
2.2-Phân loại theo mục đích:
-Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội và môi trường. đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
-Hỗ trợ kỹ thuật : là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây
dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư phát triển
thể chế và nguồn nhân lực Loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại.
2.3-Phân loại theo điều kiện :
-ODA không ràng buộc : Là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi
nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
-ODA có ràng buộc :
+Ràng buộc bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là nguồn ODA được cung cấp dành để
mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ chỉ giới hạn cho một số công ty do

nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát ( đối với viện trợ song phương ), hoặc công ty
của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
+Ràng buộc bởi mục đích sử dụng: Nghĩa là nước nhận viện trợ chỉ được cung cấp
nguồn vốn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này cho những lĩnh vực
nhất định hay những dự án cụ thể.
-ODA ràng buộc một phần: Nước nhận viện trợ phải dành một phần ODA chi ở
nước viện trợ (như mua sắm hàng hoá hay sử dụng các dịch vụ của nước cung cấp
ODA), phần còn lại có thể chi ở bất cứ đâu.
2.4-Phân loại theo hình thức:
-Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó
có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu
đãi.
-Hỗ trợ phi dự án: Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ sở tự nguyện.
Nhận thức về các vấn đề bức xúc ở nước sở tại, nhà tài trợ yêu cầu chính phủ nước
sở tại được viện trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn đó. Khi được chính phủ chấp
thuận thì việc viện trợ được tiến hành theo đúng thoả thuận của hai bên. Loại ODA
này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ phía chính phủ nước tài trợ.
Do đó, chính phủ nước này phải cân nhắc kỹ các đòi hỏi từ phía nhà tài trợ xem có
thoả đáng hay không. Nếu không thoả đáng thì phải tiến hành đàm phán nhằm dung
hoà điều kiện của cả hai phía. Loại ODA này thường có mức không hoàn lại khá
cáo, bao gồm các loại hình sau:
+Hỗ trợ cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển
giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hay hỗ trợ xuất nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng
hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho ngân
sách.
+Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món nợ mà nước
nhận viện trợ đang phải gánh chịu.
+Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời
gian xác định mà không phải xác định chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
3-Nguồn gốc lịch sử của ODA

Sau Đại chiến thế giới lần thứ II, nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng. Nhiều nước tham chiến bị thiệt hại nặng nề về cả người và
của. Với mục đích vực dậy nền kinh tế thế giới, nhiều tổ chức tài chính quốc tế đã
được thành lập vào thời kỳ này. Một trong những kế hoạch tái thiết kinh tế lúc đó là
kế hoạch Marshall, tiền thân của hình thức hỗ trợ phát triển chính thức sau này, có
mục đích là hỗ trợ các nước châu Âu khôi phục lại nền kinh tế đã bị chiến tranh tàn
phá. Ngày 14-12-1960, tại Paris, Tổ chức hợp tác kinh tế châu Âu (OEEC ), tiền
thân của tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) được thành lập để thực hiện
kế hoạch Marshall. Các nước tham dự hội nghị Paris đã thống nhất mục tiêu của Tổ
chức hợp tác kinh tế châu Âu gồm:
-Cải thiện mức sống và điều kiện lao động của các nước thành viên.
-Đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững, duy trì sự ổn định về tài chính.
-Hỗ trợ các nước khác đặc biệt là các nước thành viên và các nước chịu sự tàn phá
nặng nề sau chiến tranh trong quá trình phát triển kinh tế.
-Tăng cường phát triển thương mại quốc tế dựa trên cơ sở đa phương.Tổ chức này
ban đầu có 19 thành viên gồm có áo, Bỉ, Canađa, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp,
Aixơlen, ý , Lucxămbua, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Thổ
Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ. Các nước gia nhập thêm sau đó là Nhật Bản (năm 1964), Phần
Lan (năm 1969), Ôxtrâylia (năm 1971), Niuzilân (năm1973) và Mêhicô (năm
1994).
OECD thành lập nhiều uỷ ban để phân chia quyền hạn và nhiệm vụ trong hoạt động
của mình. Một trong số đó là ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC). Đây là ủy ban chuyên
cung cấp ODA dạng tài chính cho các nước đang phát triển. Thành viên của ủy ban
này gồm có Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Đức, Hà Lan, Vương Quốc Anh, Canađa, Thụy
Điển, Đan Mạch, ý, Na Uy, Ôxtrâylia, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bỉ, áo, Phần Lan, Bồ
Đào Nha, Ailen, Niuzilân, Luxcămbua và ủy ban châu Âu.
Ban đầu, OECD chỉ tập trung viện trợ cho các nước tham chiến trong chiến tranh
thế giới thứ II và các nước bị chiến tranh tàn phá. Sau khi kinh tế các nước này đã
được phục hồi, việc viện trợ được mở rộng ra các quốc gia khác với mục đích thúc
đẩy sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới.

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước đang phát triển thuộc phe Xã hội chủ
nghĩa trong đó có Việt Nam hầu như không nhận được sự viện trợ trực tiếp từ các
nước thuộc DAC mà chỉ nhận gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ và Liên
Hợp Quốc. Việt Nam trong nhiều năm liền chủ yếu nhận viện trợ từ Liên Xô và các
nước Đông Âu. Thời kỳ này việc cung cấp ODA chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu
tố chính trị.
Sau khi Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, các nước Xã hội
chủ nghĩa khác đã phải tiến hành cải cách chính trị cho phù hợp với tình hình mới,
các nước tư bản đã nối lại viện trợ cho Việt Nam, Trung Quốc và Cuba. Nhìn chung
hiện nay, vấn đề chính trị không còn ảnh hưởng nhiều tới việc cung cấp ODA nữa.
Nhờ những cải cách mang tính chất tích cực, nước ta nhận được sự ủng hộ ngày
càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ.
Trong những năm qua, hoạt động của viện trợ chính thức đã góp nhiều công sức cho
việc phát triển kinh tế toàn thế giới và giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc
gia. Một số nước đã vươn lên từ đói nghèo và lạc hậu như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Mêhicô đã chứng minh cho những thành công của ODA trên thế giới. Bên cạnh
đó, ODA trong những năm qua còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Tuy vậy nó vẫn
đóng vai trò quan trọng trong con đường phát triển của toàn nhân loại.
4- Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển:
Trong mỗi xã hội luôn tồn tại sự hoạt động của các ngành, các lĩnh vực không sinh
lợi. Chẳng hạn như trong lĩnh vực môi trường, các công nhân thu dọn vệ sinh có thể
bị coi là "ăn bám" xã hội bởi lẽ công việc của họ chẳng làm ra một đồng của cải nào
cho xã hội cả. Thế nhưng chỉ thiếu họ một tuần hay một ngày thôi thì mùi xú uế sẽ
bốc lên nồng nặc cả thành phố. Có hay không tồn tại của một công viên cây xanh
cũng chẳng phải là vấn đề sống còn của bất cứ ai, nhưng nếu không có nó thì mọi
người sẽ không có chỗ nghỉ ngơi, giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng. Đây là
những lĩnh vực mà tư nhân hầu như không quan tâm đầu tư mặc dù nó giữ vai trò
thiết yếu đối với bất kỳ xã hội hiện đại nào ngày nay. Bởi vì lĩnh vực này không
sinh lời, nếu có thì cũng cần thời gian thu hồi vốn lâu. Hãy thử tưởng tượng một
thành phố không có bóng dáng công nhân quét rác hay một công viên cây xanh thì

điều gì sẽ xảy ra. Chắc chắn, người ta sẽ không chịu nổi sự ô nhiễm môi trường
nặng nề mà chính họ là nguyên nhân gây ra.
Môi trường không sinh lợi đã đành, ngay cả những lĩnh vực có sinh lợi nhưng hiệu
quả kinh tế chậm như giao thông, thuỷ lợi, điện, nước cũng chẳng có cá nhân nào
dám bỏ tiền ra để xây dựng. Vì nó đòi hỏi vốn lớn và thời gian thu hồi chậm. Do đó
các công trình cộng cộng thường phải do Nhà nước đầu tư thực hiện.
Thế nhưng, Chính phủ các nước đang phát triển lại gặp rất nhiều khó khăn trong
việc đầu tư vào các lĩnh vực công cộng. Đây hầu hết là các nước nghèo, đời sống
nhân dân còn nhiều khó khăn. Do đó, có rất ít vốn tích lũy cho đầu tư phát triển.
Dân nghèo thì số tiền thu ngân sách cũng không được là bao, không đủ để xây dựng
các công trình công cộng, hạ tầng kỹ thuật. Các quốc gia đang phát triển hầu hết đều
đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu. Vì vậy vấn
đề phát triển cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đang trở lên hết sức cấp bách.
Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đang là điều kiện bắt buộc các nước đang
phát triển phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả, tính cạnh tranh của nền kinh tế và
vấn đề thiếu vốn đang là trở ngại lớn nhất trên con đường tìm kiếm sự phát triển của
các nước này. Hàng năm, với tinh thần nhân đạo cao cả, các nước phát triển đã cung
cấp một khối lượng ODA đáng kể trị giá hàng trăm tỷ USD cho các quốc gia đang
phát triển. khối lượng ODA đó có vai trò rất quan trọng đối với các nước này, nó
cho phép họ có một khoản tiền để giải quyết một số vấn đề cấp thiết, và đầu tư vào
hạ tầng cơ sở, các công trình công cộng.
Có thể nói, một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt sẽ là nền tảng cho sự phát triển của một
đất nước. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang phát triển có hệ thống cơ sở hạ tầng lạc
hậu, không đáp ứng được nhu cầu cho phát triển kinh tế. Hiện nay, xu hướng chung
của các nước đang phát triển là tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI
và ODA), bổ sung cho nguồn vốn eo hẹp trong nước. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), có ưu điểm là khối lượng vốn đầu tư lớn và nước tiếp nhận
không phải chịu gánh nặng nợ nần. Nhưng nếu muốn thu hút được nhiều nguồn vốn
FDI thì đòi hỏi các nước đang phát triển phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, một

môi trường kinh doanh thuận lợi. Đây là những yếu tố mà các nước đang phát triển
còn thiếu. Nếu chỉ thu hút riêng vốn FDI thì không đủ nhu cầu ngày càng cao về
vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thu hút nguồn vốn ODA để bổ sung
nhu cầu về vốn. ODA có ưu điểm là nước tiếp nhận được chủ động trong việc sử
dụng nguồn vốn này vào những lĩnh vực mà mình quan tâm. Ngoài việc sử dụng
vốn ODA để giải quyết các vấn đề khác của đất nước thì ODA có thể tập trung cho
việc xây dựng cơ sở hạ tầng, làm cho môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Điều
này sẽ góp phần tích cực tăng khả năng thu hút nguồn vốn FDI của các nước đang
phát triển.
II- sự cần thiết phải tăng cường thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn
ODA để phát triển nền kinh tế Việt Nam
1-Một số hình thức chủ yếu của ODA ở Việt Nam
1.1-Hỗ trợ theo chương trình
Hình thức này thường tập trung giải quyết các vấn đề xã hội như y tế, giáo dục và
các vấn đề xã hội khác Các chương trình thường được phía nhà tài trợ chủ động
đề xuất.
Đối với lĩnh vực y tế, một số chương trình chủ yếu của hình thức này là chương
trình bảo vệ sức khoẻ sinh sản, chương trình tiêm chủng cho trẻ sơ sinh, chương
trình kế hoạch hoá gia đình, chương trình thanh toán một số bệnh xã hội, xây mới
và cải tạo hệ thống trạm xá, chương trình phẫu thuật nụ cười, chương trình cấp
thuốc miễn phí cho một số vùng sâu, vùng xa Các chương trình hỗ trợ cho ngành
y tế thường mang tính nhân đạo cao và rất được sự quan tâm của các tổ chức quốc
tế.
Đối với lĩnh vực giáo dục, một số hình thức chủ yếu là xây mới và cải tạo trường
học cho một số tỉnh gặp khó khăn, chương trình cấp học bổng cho sinh viên đại
học, chương trình đào tạo đại học và sau đại học
Ngoài ra hình thức này còn bao gồm nhiều chương trình khác như chương trình xoá
đói giảm nghèo, chương trình cấp cây và con giống cho bà con nông dân, chương
trình nước sạch nông thôn
Đối với Việt Nam, hình thức ODA hỗ trợ theo chương trình khá quan trọng, nó đảm

bảo cho chúng ta một sự phát triển hài hoà, bền vững. Tuy vậy khối lượng ODA
thời gian qua dành cho hình thức này chưa nhiều, mới chỉ giải quyết được một số
vấn đề cấp bách nhất. Do đó, trong thời gian tới chúng ta phải tăng cường thu hút
ODA hỗ trợ cho các chương trình.
1.2-Hỗ trợ theo dự án
Hình thức này khá phổ biến ở Việt Nam thời gian qua. Hỗ trợ theo dự án thường
được thực hiện bằng nguồn vốn vay ưu đãi và hỗn hợp. Các dự án thường phải đáp
ứng được một số yêu cầu từ phía các nhà tài trợ. Hình thức này thường phổ biến ở
lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông, thủy lợi, năng lượng; cơ
sở hạ tầng xã hội và lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Khối lượng ODA dành cho hỗ trợ dự án là rất lớn, chiếm phần lớn lượng vốn mà
các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam kể từ năm 1993 đến nay. Đây là hình
thức rất quan trọng bởi vì nó góp phần tạo đựng cơ sở vật chất thúc đẩy nền kinh tế
nước ta phát triển.
1.3-Hỗ trợ cán cân thanh toán
Chi ngân sách của nước ta thời gian qua thường lớn hơn thu hàng chục ngàn tỷ
đồng mỗi năm. Bội chi ngân sách cũng là tình trạng chung của các nước đang phát
triển. Các nhà tài trợ đã sử dụng hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán như một công
cụ để giữ vững sự ổn định của thị trường tài chính quốc tế và giúp đỡ một phần
chính phủ các nước đang phát triển giảm nhẹ gánh nặng bội chi ngân sách. Hình
thức này chưa phát triển ở Việt Nam và chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay
ưu đãi nhỏ.
1.4-Hỗ trợ kỹ thuật
Đây là một hình thức ODA quan trọng, đặc biệt là đối với những nước có trình độ
kỹ thuật lạc hậu như Việt Nam. Hình thức này được thực hiện dưới dạng các
chương trình hợp tác kỹ thuật như: chương trình cử chuyên gia, chương trình đào
tạo cán bộ kỹ thuật, chương trình cung cấp trang thiết bị Thời gian qua, các
chương trình này đã đóng góp một phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ của
đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.
2-Sự cần thiết phải tăng cường thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn

ODA để phát triển nền kinh tế Việt Nam
Đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, đất nước ta còn nghèo nàn và lạc hậu, hiện
nay chúng ta chưa có đủ các tiền đề cần thiết cho một sự phát triển bền vững.
Để phát triển nền kinh tế với tốc độ nhanh trong khi nền kinh tế nhỏ bé đang thiếu
vốn nghiêm trọng và tiết kiệm trong nước còn quá thấp thì cần phải bổ sung vốn
đầu tư bằng khối lượng lớn nguồn vốn nước ngoài. Huy động vốn nước ngoài rất
cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế để hoà
nhập với kinh tế thế giới, trong đó tranh thủ vốn ODA là một chủ trương lớn của
nước ta từ giai đoạn mở cửa.
Các công trình thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay đã xuống cấp
nghiêm trọng, không thể duy trì phát triển kinh tế lâu dài. Hệ thống giao thông
đường bộ chắp vá. Để nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông quốc gia xuyên suốt từ
nay đến năm 2005, mỗi năm chúng ta cần hàng chục ngàn tỷ đồng, đó là chưa kể
đến hệ thống giao thông nội tỉnh. Hệ thống giao thông đường thủy được xây dựng
từ nhiều năm nay lại không được quan tâm bảo dưỡng hàng năm nên không thể đáp
ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá. Muốn phục vụ tốt cho xuất khẩu thì trước
mắt phải nâng cấp một số cảng quan trọng như cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng,
cảng Đà Nẵng; phải xây mới và nâng cấp các cầu cảng và hệ thống kho bãi của các
cảng này. Hệ thống sân bay cũng cần được cải tạo hàng năm cho phù hợp với nhu
cầu. Hệ thống thông tin liên lạc đã phát triển rất nhanh thời gian qua cần tiếp tục
phát huy và có một số đổi mới cho thích hợp hơn. Mỗi ngành này cũng cần đầu tư
hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng.
Bên cạnh đó, các vấn đề cũ còn tồn tại và các vấn đề xã hội mới nảy sinh cũng đòi
hỏi phải có nguồn lực để giải quyết. Một xã hội không thể phát triển bền vững nếu
trẻ em không được đi học, người già và người tàn tật không được chăm sóc, bệnh
dịch không được thanh toán Do đó phát triển con người là chiến lược của Đảng ta
trong công cuộc phát triển kinh tế. Để giải quyết những vấn đề đó mỗi năm chính
phủ phải chi hàng chục ngàn tỷ đồng.
Hiện nay các khoản thu của ngân sách không đủ đáp ứng các nhu cầu trên. Thuế là
nguồn thu chủ yếu nhưng mỗi năm vẫn bị thất thu một số lượng lớn. Năm 1999

tổng thu ngân sách của Nhà nước khoảng trên 70.000 tỷ đồng trong khi tổng các
khoản chi xấp xỉ 90.000 tỷ đồng. Như vậy chúng ta phải bù đắp bội chi ngân sách
khoảng 20.000 tỷ đồng. Do đó, việc thu hút nguồn lực bên ngoài sẽ giúp chính phủ
trong việc giảm bội chi ngân sách.
Kể từ năm 1987, các công ty nước ngoài được phép chính thức hoạt động tại Việt
Nam. Khối lượng vốn của các công ty này đã giúp đỡ rất nhiều cho chính phủ trong
việc khắc phục tình trạng thiếu vốn. Chính nhờ quyết định mở cửa này, nền kinh tế
Việt Nam đã có bước tăng trưởng vượt bậc trong hơn 10 năm qua, quan hệ sản xuất
tỏ ra phù hợp hơn, lực lượng lao động được giải phóng, nến kinh tế trong nước phát
triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, về cơ bản nền kinh tế đã thoát khỏi cuộc khủng
hoảng kéo dài hàng chục năm qua. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất
lớn trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước, tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng bộc
lộ những mặt hạn chế. Nhà đầu tư chỉ quan tâm bỏ vốn đầu tư vào những lĩnh vực
có khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh tế nhanh. Điều này đã gây ra sự phát triển mất
cân đối trong nền kinh và không thực hiện được nhiều mục tiêu kinh tế-xã hội
khác. Ngoài ra còn có nguy cơ mất ổn định nền kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính
năm 1997 vừa qua của các nước khu vực Đông Nam á là một minh chứng cụ thể.
Trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt
của nguồn vốn ODA đối với tiến trình phát triển nền kinh tế- xã hội của đất nước.
Do đó, phải tăng cường khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Hiện nay, việc giải ngân chậm đang là một tồn tại rất lớn cần sớm được khắc phục.
Thời gian qua, Việt Nam đã khá thành công trong việc vận động, thu hút nguồn vốn
ODA thông qua việc tổ chức Hội nghị các nhà tài trợ (CG). Kết quả của những nỗ
lực trên là 15,14 tỷ USD vốn ODA mà cộng đồng các nhà tài trợ đã cam kết dành
cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-1999. Tuy nhiên, muốn có được số vốn này để
đầu tư vào các chương trình, dự án thì còn là một quá trình từ xác định dự án, chuẩn
bị dự án, thẩm định dự án, đàm phán vay vốn và phê duyệt khoản vay cho tới thực
hiện dự án. Có thể hiểu, để đưa những đồng vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết
vào thực hiện các chương trình, dự án chính là quá trình giải ngân vốn ODA. Như
vậy, muốn tận dụng tốt nguồn vốn ODA, biến những cam kết của các nhà tài trợ

thành hiện thực, chúng ta phải giải quyết triệt để những yếu tố gây cản trở quá trình
giải ngân nguồn vốn này. Có tăng được tỷ lệ giải ngân thì việc thu hút nguồn vốn
ODA mới thực sự có tác dụng. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân mới làm cho đồng vốn
ODA thực sự đi vào cuộc sống góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế -
xã hội ở Việt Nam.
Trong những năm qua, vốn ODA thực hiện đã góp phần quan trọng vào việc phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó có nhiều dự án đã hoàn thành và có tác
động tích cực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nguồn vốn ODA đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển hiện nay của
ngành năng lượng. Một loạt các nhà máy sản xuất điện đã được xây dựng bằng vốn
ODA như nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Thủy điện
Hàm Thuận - Đa Mi Việc xây dựng những nhà máy này làm giảm bớt sự quá tải
của mạng lưới điện Quốc gia, đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện ngày càng cao
cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Những công trình giao thông chủ chốt của nền
kinh tế Việt Nam đã được thực hiện bằng nguồn vốn ODA như cải tạo, nâng cấp và
phát triển các đường quốc lộ huyết mạch (Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, xây
dựng cầu Mỹ Thuận ).
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và miền núi được sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA
thông qua một loạt các dự án phát triển cà phê, chè; chồng rừng; xây dựng các cảng
cá ; phát triển chăn nuôi; thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và phát triển
cơ sở hạ tầng ở nhiều tỉnh nghèo. Một số hệ thống thủy lợi lớn ở miền Bắc, miền
Trung, miền Nam đang được khôi phục và phát triển.
Nguồn vốn ODA cũng được sử dụng để hỗ trợ các lĩnh vực y tế, xã hội, giáo dục và
đào tạo như Dự án giáo dục tiểu học, Dự án Hỗ trợ y tế Quốc gia Ngoài ra, việc
cải thiện, cung cấp nước sinh hoạt tại các thành phố, thị xã và các vùng nông thôn,
miền núi là lĩnh vực ưu tiên cao trong sử dụng vốn ODA. Đến nay, hầu hết các
thành phố, thị xã của các tỉnh đã có các dự án ODA về phát triển hệ thống cung cấp
nước sinh hoạt được thực hiện. Nguồn vốn ODA cũng góp phần hỗ trợ đáng kể
nhằm thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các khoản tín dụng điều chỉnh
cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rộng, Quỹ Miyazawa

Một số chương trình, dự án ODA thực hiện xong và hiện đang phát huy tác dụng
tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam như Nhà máy nhiệt
điện sử dụng khí thiên nhiên Phú Mỹ 2 - giai đoạn 1 (công suất 400 MW). Một số
công trình giao thông quan trọng đã đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả như
Quốc lộ 5; Quốc lộ 1A đoạn Hà Nội - Vinh, đoạn TPHCM - Cần Thơ, đoạn
TPHCM - Nha Trang. Cảng Hải Phòng; các hệ thống cung cấp nước sinh hoạt ở Hà
Nội, Lào Cai, Hoà Bình Nhiều bệnh viện ở các thành phố và thị xã như Bệnh viện
Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Đức (Hà Nội) và 9 bệnh viện ở Hà Nội
Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, các chương trình y tế khác (chống sốt
rét, bướu cổ, AIDS - HIV ) được thực hiện có hiệu quả. Nhiều trường học nhất là
các trường tiểu học ở các tỉnh hay bị bão, lũ lụt ở miền Bắc và miền Trung đã được
xây dựng.
Như vậy, ODA đã tham gia vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội, ODA đang và
sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển của Việt Nam. Trong
Văn kiện Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 8 đã chỉ rõ: "Tranh thủ thu hút
nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) đa phương và song phương, tập trung chủ
yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học
công nghệ và quản lý đồng thời dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn
lại cho những vùng chậm phát triển. Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án
trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng
nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả và kiểm tra, quản
lý chặt chẽ, chống lãng phí, tiêu cực".
Chương II: Đánh giá tổng quan về tình hình giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt nam
giai đoạn 1993- 1999
I-Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam trong mối quan hệ với nguồn vốN ODA
1-Những chuyển biến về kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian qua
Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986), nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng. Việt Nam bị xếp vào một trong 10 nước chậm phát triển
nhất thế giới với thu nhập dưới 200 USD/ người . Nhập siêu liên tục gia tăng, nợ

nước ngoài hầu như không có khả năng trả. Cơ chế bao cấp bộc lộ nhiều khuyết
điểm và không còn phù hợp. Tệ quan liêu, bao cấp, cửa quyền hoành hành trong bộ
máy tổ chức Nhà nước làm cho nền dân chủ bị vi phạm nghiêm trọng hơn bao giờ
hết. Kẻ địch đã tận dụng cơ hội này để gây mất lòng tin của nhân dân với Đảng.
Đứng trước nguy cơ đó, năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam
đã đánh giá như sau:
"Cơ chế tập trung quan liêu dựa trên bao cấp của Nhà nước được thực hiện từ nhiều
năm nay, đã không tạo được động lực phát triển, lại còn làm suy yếu nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm
hãm sản xuất, giảm sút năng suất , chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế, đẩy
phân phối và lưu thông vào tình trạng rối loạn và làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu
cực trong xã hội chúng ta."
Kết luận quan trọng này đã mở đầu giai đoạn tăng cường công cuộc đổi mới ở Việt
Nam. Quyết định đổi mới toàn diện, mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới của
Đảng là tiền đề để các nhà tài trợ hướng tới Việt Nam. Khối lượng lớn nguồn vốn
ODA mà Việt Nam nhận được kể từ năm 1993 thể hiện sự quan tâm, ủng hộ của
cộng đồng các nhà tài trợ dành cho Việt Nam.
Đến nay sau hơn 10 năm đổi mới, tình hình kinh tế- xã hội Việt Nam đã có nhiều
chuyển biến rõ rệt. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao, tuy rằng
sau cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ của khu vực đã làm cho
Tốc độ tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn đạt cao so với các nước trong vùng.
Tốc độ tăng GNP bình quân giai đoạn 1991-1995 là 8,2%/năm và giai đoạn 1996-
2000 là 6,7%/năm. Với việc hoàn thành vượt mức và toàn diện những chỉ tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 mà các kế hoạch 5 năm trước đó chưa bao giờ
thực hiện được đã đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài
hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa được vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần
thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đạt được nhiều kết
quả. Vốn đưa vào thực hiện hàng năm chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã

hội. Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi , phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đất nước.
Một số ngành công nghiệp quan trọng phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều
sâu:
-Giao thông vận tải : Giao thông đường bộ được thiết lập trên 96,8% tổng số xã của
cả nước. Hệ thống giao thông đường thủy được hiện đại hoá và mở rộng quy mô,
hiện có khả năng vận chuyển 45 triệu tấn hàng mỗi năm. Giao thông hàng không
cũng không ngừng nâng cao khả năng và chất lượng phục vụ.
-Bưu chính viễn thông có bước phát triển khá, được hiện đại hoá về cơ bản. Tất cả
các tỉnh và các huyện được trang bị tổng đài điện tử và nối với nhau qua các tuyến
cáp quang, các tuyến viba số. Mật độ điện thoại đạt 4/100 dân, tăng 13,8 lần so với
năm 1991. Mạng viễn thông quốc tế được xây dựng khá hiện đại, hoàn chỉnh và
ngày càng được tăng cường về quy mô. Mạng lưới bưu chính được mở rộng. Công
tác phát hành báo chí được bảo đảm tới 7 điểm truyền và in báo từ xa. Tất cả các
tỉnh thành và 895 huyện thị và 74% số xã, phường có báo đến hàng ngày.
-Điện: Cho đến nay, tổng công suất nguồn điện đạt 5.284,91 Mw, tổng chiều dài
lưới điện là 105,096 km. Hết năm 2000, mục tiêu 100% số huyện, 80% số phường
xã có điện là có thể đạt được.
-Thủy lợi : Cả nước đã xây dựng được 743 hồ đập vừa và lớn, 3.500 hồ đập vừa và
nhỏ, hơn 1.000 cống tưới tiêu lớn, khoảng 10.600 trạm bơm nước, tổng công suất
tưới đạt 3,7 triệu ha, tiêu đạt 1,4 triệu ha. Các công trình thủy lợi đó đã đảm bảo
tưới cho khoảng 6 trong 7 triệu ha gieo trồng lúa, 90 vạn ha rau và cây công nghiệp.
Một số ngành công nghiệp khác cũng có chuyển biến rõ rệt như dầu khí, dệt, điện tử
, may mặc, vật liệu xây dựng
Bên cạnh đó, nông nghiệp cũng đạt được những thành công rực rỡ. Chẳng những
giải quyết triệt để vấn đề an ninh lương thực mà còn là nguồn thu ngoại tệ lớn với
các mặt hàng xuất khẩu như gạo , cà phê, hạt tiêu
Giá cả được ổn định trong nhiều năm cũng tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
vững vàng hơn. Giá đồng Việt Nam giảm đều đặn so với đồng Đô la Mỹ ở một tỷ lệ
chấp nhận được, giúp cho việc xuất khẩu hàng hoá thuận lợi hơn. Nhờ đó, cán cân

thương mại được cải thiện rõ rệt. Năm 2000, xuất khẩu đã xấp xỉ nhập khẩu, tuy
chưa hoàn toàn là điều đáng mừng vì nó cho thấy suy giảm đầu tư sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ, song cũng không thể phủ nhận thành công của chính sách
xuất khẩu.
Tình hình xã hội cũng có những chuyển biến tích cực. Thu nhập của người dân, đặc
biệt là của người nông dân tăng nhiều so với trước đây. GDP bình quân năm 2000
đạt 400 USD/người gấp 1,8 lần so với năm 1990. Đời sống vật chất và tinh thần
được cải thiện tốt hơn. Công tác xoá đói giảm nghèo được đặc biệt quan tâm đã trở
thành phong trào sâu rộng trong quần chúng nhân dân và đạt được nhiều kết qủa, số
hộ nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 20% năm 1995 và 10% năm 2000.
Xuất hiện ngày càng nhiều các hộ gia đình làm kinh tế giỏi mỗi năm thu nhập hàng
trăm triệu đồng.
Chất lượng khám chữa bệnh được từng bước nâng lên, trang thiết bị y tế được nâng
cấp ở các tuyến, y tế cơ sở được củng cố, hầu hết các xã đều có trạm xá. Đã hình
thành một số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân.
Giáo dục cũng rất được chú trọng đầu tư, nhất là cơ sở vật chất. Trường lớp đã
khang trang hơn, điều kiện học tập của học sinh, sinh viên đã tốt hơn nhiều so với
trước đây. Đầu tư cho giáo dục tuy chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra song đã góp
phần nâng cao dân trí của toàn dân.
An ninh chính trị được giữ vững, sự ổn định xã hội cơ bản được duy trì. Tính dân
chủ được phát huy trong nội bộ Đảng và toàn xã hội. Đảng cộng sản nhận được sự
ủng hộ to lớn của toàn thể nhân dân. Quan hệ quốc tế được củng cố và mở rộng.
Như vậy, thành tựu mà Việt Nam đạt được trong công cuộc cải cách kinh tế là rất
lớn, trong đó có một phần đóng góp không nhỏ của nguồn vốn ODA. Mặt khác,
những thành quả đầy ấn tượng có được trong việc đổi mới nền kinh tế cũng giúp
cho Việt Nam nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ.
2-Một số đặc điểm của nền kinh tế có ảnh hưởng đến việc thu hút vốn ODA
-Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao, nền kinh tế phát triển khá
ổn định tạo niềm tin cho các nhà tài trợ ODA. Đặc điểm này cùng đặc điểm vị trí
địa lý giúp cho nước ta trở thành mối quan tâm lớn của các nước khác trong chính

sách ngoại giao nói chung và việc tài trợ ODA nói riêng.
-Thứ hai, về cơ bản nước ta vẫn còn là một nước nghèo, GDP bình quân đầu người
thấp. Đây là một đặc điểm khá thuận lợi vì một điều kiện quan trọng cho việc tài trợ
ODA của các nước DAC là mức thu nhập bình quân thấp.
-Thứ ba, cơ sở hạ tầng yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều nơi thiếu điện, nước sạch, hệ thống giao
thông xuống cấp nghiêm trọng. Do đó, việc thu hút ODA để đầu tư phát triển hạ
tầng là rất quan trọng và luôn được ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế của
Chính phủ ta.
-Thứ tư, nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, công nghiệp kém
phát triển. Có tới gần 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, do đó phần
lớn lực lượng lao động chưa được đào tạo, chất lượng lao động thấp. Công nghiệp
chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế, thiếu công nghệ, công nhân lành nghề. Phong
cách làm việc của cán bộ nhà nước còn chịu ảnh hưởng bởi tác phong nông nghiệp
và chế độ bao cấp trước đây nên hiệu quả thấp, nhiều khi gây khó khăn cho phía
đối tác cung cấp ODA. Do đó, các lĩnh vực như phát triển khoa học công nghệ, đào
tạo, cơ khí hoá nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn và cần được đầu tư thích đáng.
Việc thu hút ODA để giải quyết vấn đề này được Chính phủ ta rất chú trọng.
-Thứ năm, môi trường đầu tư còn nhiều bấp bênh , rủi ro. Cuộc cải cách hành chính
diễn ra rất chậm và chưa thu được kết quả đáng kể. Bộ máy hành chính vẫn còn
cồng kềnh và trùng lắp chức năng, chưa đảm bảo được sự điều hành tập trung,
thống nhất. Bên cạnh đó, hệ thông pháp luật còn chồng chéo, nhiều chỗ bất hợp lý
gây khó khăn không ít cho các nhà đầu tư và các nhà tài trợ ODA.

×