Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP CÔNG NGHỆ PHẦN MỀM “KĨ THUẬT LƯU LƯỢNG IP/WDM” CHƯƠNG 4_1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.38 KB, 16 trang )

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP CÔNG NGHỆ PHẦN MỀM “KĨ THUẬT LƯU
LƯƠNG IP/WDM”

CHƯƠNG IV PHẦN MỀM XỬ LÍ LƯU LƯỢNG IP/WDM
4.1 Phần mềm kĩ thuật lưu lượng IP/WDM
Như đã trình bày ở trên, kĩ thuật lưu lượng có thể được xây dựng theo hai xu
hướng, chồng lấn và tích hợp. Mặc dù các thành phần chức năng cơ bản của chúng
là giống nhau nhưng kiến trúc phần mềm của chúng là khác nhau đôi chút. Xu
hướng chống lấn có đặc điểm của mối quan hệ khách – chủ, cấu hình trong đó tầng
IP đòi hỏi các dịch vụ truyền dẫn từ tầng WDM. Kết quả là kĩ thuật lưu lượng được
thực hiện ở mỗi tầng một cách riêng rẽ. Do đó, tại mỗi tầng cũng có các thành phần
điều khiển mạng và kĩ thuật lưu lượng riêng. Hai khối chức năng kĩ thuật lưu lượng
tại tầng IP và tầng WDM được kết nối thông qua một giao diện đặc biệt để trao đổi
thông tin cần thiết. Xu hướng tích hợp hình thành mối quan hệ ngang hàng trong
đó mỗi node mạng bao gồm một bộ định tuyến IP và một ma trận chuyển mạch.
Xu hướng này vẫn đang trong quá trình nghiên cứu và phát triển. Trong một ví dụ,
bộ định tuyến IP (hay chức năng điều khiển IP) chỉ cung cấp mặt phẳng điều khiển
và các dòng lưu lượng dữ liệu đi qua các ma trận chuyển mạch toàn quang trực
tiếp. Trong một ví dụ khác, bộ định tuyến IP được mở rộng với ma trận chuyển
mạch WDM (thường sử dụng ma trận chuyển mạch O-E-O) do đó bộ định tuyến IP
có giao diện nhiều bước sóng. Cuối cùng, cũng có các nhóm nghiên cứu làm việc
với các bộ định tuyến gói tin toàn quang, trong đó họ cố gắng triển khai các chức
năng điều khiển IP (ví dụ như xử lí mào đầu) trong miền toàn quang. Trong kĩ
thuật lưu lượng tích hợp, mỗi bộ định tuyến/chuyển mạch WDM là một thiết bị có
thể đánh địa chỉ IP và mỗi node mạng cần được trang bị một thực thể kĩ thuật lưu
lượng.
4.2 Kiến trúc phần mềm cho kĩ thuật lưu lượng chồng lấn
Hình 4.1 miêu tả các thành phần và giao diện cho xu hướng kĩ thuật lưu lượng
chồng lấn. Tầng IP thể hiện một mô hình ảo mà chính là sự trừu tượng hoá của các
kết nối mạng vật lí. Tầng WDM quản lí mô hình vật lí mà các kết nối của chúng
dựa trên các bước sóng và các sợi quang. Phần điều khiển kĩ thuật lưu lượng trong


tầng WDM được cấy trên các chức năng quản lí hiệu năng và kết nối WDM. Kiến
trúc phần mềm kĩ thuật lưu lượng chồng lấn sẽ bao gồm các thành phần mạng IP
và các thành phần mạng WDM (xem hình 4.1).
Mỗi tầng IP và WDM bao gồm các chức năng điều khiển mạng và kĩ thuật
lưu lượng tương ứng. Điều khiển mạng IP bao gồm các giao thức định tuyến ví dụ
như OSPF, các giao thức báo hiệu ví dụ như RSVP và một bộ quản lí giao diện;
trong khi đó kĩ thuật lưu lượng IP bao gồm các bộ thu thập và phân tích dữ liệu
thống kê, một thuật toán tái cấu hình và một khối sắp xếp thời gian biểu dịch
chuyển. Khối mạng WDM trung tâm IP bao gồm các giao thức định tuyến, ví dụ
như OSPF với các mở rộng cho quang, các giao thức báo hiệu ví dụ như RSVP có
các mở rộng cho quang, LMP và OSCP; kĩ thuật lưu lượng WDM bao gồm các
thuật toán kĩ thuật lưu lượng WDM ví dụ như CSPF. Kĩ thuật lưu lượng đối với
giao thức điều khiển mạng (TECP) sẽ chỉ rõ giao diện giữa điều khiển mạng và kĩ
thuật lưu lượng. Trong kĩ thuật lưu lượng chồng lấn, TECP có hai nhóm các bản
tin là IP TECP và WDM TECP. Khuôn dạng của các bản tin TECP sẽ được trình
bày dưới đây. OSCP cung cấp giao diện giữa khối điều khiển mạng WDM và khối
điều khiển chuyển mạch.

Hình 4.1 Kiến trúc phần mềm cho kĩ thuật lưu lượng chồng lấn trong mạng
IP/WDM
Bộ quản lí giao diện IP có hai nhiệm vụ. Trước tiên, nó nhận lệnh từ khối kĩ
thuật lưu lượng IP để cho phép hoặc không cho phép các giao diện bộ định tuyến
phù hợp khi các đường đi ngắn nhất cơ sở đang được tái cấu hình. Thứ hai, nó có
trách nhiệm liên kết giữa giao diện bộ định tuyến và cổng xen/rẽ WDM và cung
cấp chuyển đổi địa chỉ IP và WDM. Chuyển đổi địa chỉ IP/WDM cũng có thể được
thực hiện nhờ sử dụng các máy chủ dành riêng ví dụ như ARP và RARP. Trong
triển khai, bộ quản lí giao diện IP có thể đưa ra các lệnh SNMP tới các bộ định
tuyến IP để truy vấn hoặc thay đổi trạng thái của các giao diện của nó. Hoặc nó
cũng có thể được triển khai nhờ sử dụng ‘ipconfig’ để tái cấu hình trạng thái và cấu
hình giao diện bộ định tuyến.

Kĩ thuật lưu lượng IP có ba thành phần chức năng chính là thuật toán tái cấu
hình, thu thập và phân tích dữ liệu thống kê và lập thời gian biểu dịch chuyển.
Khối thu thập dữ liệu thống kê có trách nhiệm giám sát mạng để thu thập các dữ
liệu thống kê về lưu lượng và thiết lập ngưỡng hiệu năng; khối phân tích dữ liệu
thống kê có khả năng truy tìm nguồn gốc kiểu lưu lượng và dự đoán lưu lượng
trong tương lai. Trong triển khai, người ta có thể sử dụng giao thức SNMP để giám
sát các bộ định tuyến IP cho việc đo đạc lưu lượng, và thu thập dữ liệu từ các bộ
định tuyến IP. Cũng có thể có phần mềm thứ ba cho việc thu thập dữ liệu thống kê,
ví dụ như libcap.
Thuật toán tái cấu hình lấy thông tin đầu vào từ khối thu thập và phân tích dữ
liệu thống kê và mô hình hiện thời từ giao thức định tuyến. Nó sẽ đưa ra một mô
hình mới cho khối lập thời gian biểu dịch chuyển. Thuật toán tái cấu hình được
thiết kế như là một tập các kinh nghiệm trong việc hỗ trợ các mục tiêu tái cấu hình
khác nhau ví dụ như là tối thiểu hoá trễ mạng. Các mục tiêu tối ưu hoá có thể được
chỉ định từ GUI. Khối lập thời gian biểu dịch chuyển sẽ tính toán các thứ tự bước
dịch chuyển để giảm thiểu các ảnh hưởng của hoạt động tái cấu hình lên lưu lượng
người sử dụng. Tồn tại nhiều chiến lược khác nhau cho việc lập thời gian biểu dịch
chuyển. Trước tiên, lập thời gian biểu có thể được thực hiện với hiểu biết tối thiểu
về tầng WDM. Với chiến lược này, các điều kiện ràng buộc cho việc lập thời gian
biểu được định nghĩa trước, bởi thế chuỗi dịch chuyển có vẻ như được thực hiện ở
tầng WDM. Một ví dụ tiêu biểu của các điều kiện ràng buộc như vậy hoàn toàn
được chứa trong các tài nguyên WDM (nghĩa là số lượng các đường đi ngắn nhất)
giới hạn trong mỗi bước dịch chuyển. Kết quả của khối lập thời gian biểu dịch
chuyển sẽ là một chuỗi các bước. Mỗi bước là một hoạt động thiết lập hoặc loại bỏ
một đường đi ngắn nhất duy nhất. Thứ hai, lập thời gian biểu có thể thực hiện với
hiểu biết đầy đủ về tầng WDM. Với chiến lược như thế, kết quả dịch chuyển được
đảm bảo để thực hiện trong tầng WDM. Cái giá phải trả cho một chuỗi dịch
chuyển không nghẽn là khối lập thời gian biểu dịch chuyển phải thu thập các thông
tin trạng thái tầng WDM. Tương ứng, một chuỗi dịch chuyển đơn giản có thể được
chỉ định từ GUI.

Trong mạng quang WDM truyền thống, các chức năng liên quan tới kĩ thuật
lưu lượng được cung cấp bởi các bộ quản lí kết nối và quản lí hiệu năng. Trong các
mạng WDM trung tâm IP, OSPF và LMP cung cấp định tuyến mặc định, phổ biến
thông tin, và phát hiện mô hình cũng như các node kế cận. Giống như trong mạng
IP, định tuyến mặc định trong OSPF chỉ cung cấp đường trong sợi quang theo nỗ
lực tối đa. Nó không tính đến độ sẵn sàng bước sóng cũng như các điều khiển ràng
buộc tính liên tục bước sóng. Do đó, cần các thuật toán kĩ thuật lưu lượng WDM
để tính toán đường đi ngắn nhất hiệu quả và không nghẽn. Một thuật toán đơn giản
trong các thuật toán kĩ thuật lưu lượng WDM là CSPF. CSPF sẽ càng phức tạp khi
càng nhiều điều kiện ràng buộc được xem xét đến. CSPF có thể được triển khai
như một bộ quản lí định tuyến đường đi ngắn nhất tập trung. Để nâng cao độ sẵn
sàng, CSPF có thể được phân bố ở mỗi node. Sự triển khai phân tán của CSPF đòi
hỏi sự đồng bộ giữa các thực thể kĩ thuật lưu lượng WDM. Dựa trên các yêu cầu kĩ
thuật lưu lượng, các đường đi ngắn nhất có thể được thiết lập hoặc loại bỏ nhờ sử
dụng RSVP.
Cuối cùng, để tiện lợi cho người sử dụng, IP/WDM GUI được thiết kế để
quản lí mạng phân tầng. GUI sẽ cung cấp các giao diện cấu hình, kết nối, lỗi, và
quản lí hiệu năng. Trong mạng IP/WDM chồng lấn, GUI cũng cung cấp tương
quan giao thức. Ví dụ như, một đường đi ngắn nhất ảo trong mô hình IP được liên
kết tới các bước sóng và sợi quang tương ứng trong mô hình WDM vật lí.
4.3 Kiến trúc phần mềm cho kĩ thuật lưu lượng tích hợp
Hình 4.2 miêu tả kiến trúc phần mềm cho kĩ thuật lưu lượng tích hợp. Trong
xu hướng này, mỗi node IP/WDM có thể có hỗ trợ hoàn toàn cho điều khiển và kĩ
thuật lưu lượng mạng. Mỗi node sở hữu hiểu biết mô hình một cách đầy đủ, nghĩa
là một W-MIB (bước sóng MIB). Nó bao gồm không những chỉ mô hình sợi quang
mà cả các đường đi ngắn nhất nằm trên đó và tình trạng gán các bước sóng.
Thành phần chính của phần mềm vẫn giống với các thành phần trong kiến
trúc kĩ thuật lưu lượng chồng lấn, nhưng chúng được cấu trúc theo kiểu tích hợp.
Điều khiển mạng bao gồm bốn thành phần là: định tuyến bước sóng, báo hiệu bước
sóng, truy cập bước sóng và OSCP.

Định tuyến bước sóng (bao gồm LMP trong trường hợp các kênh điều khiển
riêng rẽ so với các kênh dữ liệu) cho phép tất cả các node mạng thiết lập một cái
nhìn thống nhất về mạng, và kết hợp các quyết định định tuyến bước sóng để làm
thuận tiện các kết nối đường đi ngắn nhất yêu cầu. Các chức năng cụ thể bao gồm
phát hiện mô hình mạng ảo/vật lí, phổ biến và duy trì thông tin trạng thái tuyến nối
(sợi, bước sóng và đường đi ngắn nhất) và định tuyến nỗ lực tối đa mặc định. Các
chức năng định tuyến bước sóng có thể được hỗ trợ thông qua các giao thức trạng
thái tuyến nối tăng cường, chẳng hạn như OSPF mở rộng. Thông tin trạng thái
tuyến nối liên quan tới WDM có thể được triển khai theo cơ sở dữ liệu TE riêng rẽ
hoặc được tích hợp vào cơ sở dữ liệu trạng thái tuyến nối bộ định tuyến tiêu chuẩn.
Thông tin yêu cầu cho kĩ thuật lưu lượng có thể được thu thập thông qua tràn ngập
LSA mờ OSPF.

Hình 4.2 Kiến trúc phần mềm cho kĩ thuật lưu lượng tích hợp trong mạng IP/WDM
Báo hiệu bước sóng có thể hoàn thành các quyết định định tuyến bước sóng
bằng cách triển khai ít nhất một trong số các chức năng sau: gán bước sóng, quyết
định độ ưu tiên đường đi ngắn nhất, bước sóng đã được làm rỗng từ trước, bảo
vệ/tái tạo đường đi ngắn nhất, và thiết lập/loại bỏ đấu chéo. Một chức năng cơ bản
được hỗ trợ bởi báo hiệu là thiết lập và loại bỏ đấu chéo. Gán bước sóng đòi hỏi
giao thức báo hiệu cục bộ phải có hiểu biết nhất định về sự sử dụng bước sóng và
các điều kiện ràng buộc tính liên tục. Một chức năng tiên tiến của giao thức báo
hiệu là hỗ trợ khái niệm các đường đi ngắn nhất đã được gán ưu tiên. Trong trường
hợp như vậy, báo hiệu bước sóng có trách nhiệm phân xử tài nguyên nếu như xảy
ra trường hợp hai đường đi ngắn nhất cùng muốn một bước sóng trong cùng một
sợi quang. Hơn nữa, nó cũng có thể làm rỗng từ trước một bước sóng đang được sử
dụng bởi một đường đi ngắn nhất có độ ưu tiên thấp để hỗ trợ đường đi ngắn nhất
mới có độ ưu tiên cao hơn. Hơn thế, báo hiệu cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ
QoS thích ứng trong quá trình thiết lập đường đi ngắn nhất. Ví dụ như khi một
phần của đường định tuyến lambda không hỗ trợ tốc độ bit yêu cầu, các vấn đề về
QoS có thể được đàm phán nhờ việc sử dụng một giao thức báo hiệu bước sóng.

Điều khiển truy nhập bước sóng được sử dụng để ánh xạ các gói tin IP lên
bước sóng và quản lí bộ định tuyến IP lên tuyến nối WDM NE. Một mối quan tâm
quan trọng là làm cách nào để thiết kế hàm ánh xạ gói tin lên bước sóng. Nói
chung, nhiều đường đi ngắn nhất có thể tồn tại hoặc được xây dựng cho một node
cho trước. Do vậy, cần phải có một quyết định xem mỗi gói tin IP sẽ sử dụng
đường đi ngắn nhất nào. Hàm ánh xạ sẽ ánh xạ (sắp xếp) các gói tin riêng rẽ được
phân biệt bởi các đặc tính IP (thông tin trong các mào đầu IP như là địa chỉ đích,
địa chỉ nguồn, và loại dịch vụ…) lên các kênh bước sóng hoặc các đường đi ngắn
nhất được đặc trưng bởi các đặc tính tầng vật lí WDM (ví dụ như tốc độ dữ liệu kết
nối, OSNR của kênh quang, các hop sợi quang và tải kênh). Điều khiển truy nhập
bước sóng cũng có trách nhiệm quản lí liên kết giữa các chức năng IP và WDM, ví
dụ như trong quá trình tái cấu hình để tránh ảnh hưởng lên lưu lượng người sử
dụng.
Khi kĩ thuật lưu lượng được xem xét, mỗi node cần được trang bị các thành
phần chức năng NE: bộ thu thập và phân tích dữ liệu thống kê, thuật toán tái cấu
hình, lập thời gian biểu dịch chuyển và thuật toán CSPF quang. Chức năng của các
thành phần này thì tương tự như các thành phần trong xu hướng chồng lấn. Tuy
nhiên, chúng có thể được cấu hình theo một cách thức có tính phân tán cao hơn. Ví
dụ như, một node có thể tập trung vào trạng thái của các đường đi ngắn nhất (xuất
phát từ chính nó) trong quá trình lập thời gian biểu dịch chuyển.
4.4 Kĩ thuật lưu lượng IP - giao thức điều khiển mạng (IP TECP)
Trong ba phần kế tiếp, giao diện giữa điều khiển mạng và kĩ thuật lưu lượng
và giữa kĩ thuật lưu lượng IP và kĩ thuật lưu lượng WDM trong trường hợp kĩ thuật
lưu lượng chồng lấn sẽ được miêu tả. Các giao diện này sẽ được giới thiệu trong
ngữ cảnh mạng IP/WDM chồng lấn.

Hình 4.3 Sơ đồ khối kĩ thuật lưu lượng cho tầng IP
Hình 4.3 miêu tả các khối và các giao diện kĩ thuật lưu lượng cho tầng IP. Các
khối kĩ thuật lưu lượng thông tin với các bộ định tuyến IP tham gia vào mạng ảo IP
được xử lí kĩ thuật lưu lượng để nhận các thông tin tóm tắt định tuyến và các số

liệu thống kê từ mỗi bộ định tuyến. Thông tin tóm tắt định tuyến bao gồm các mô
tả chi tiết về mỗi bộ định tuyến biên IP và tất cả các giao diện IP của nó mà có thể
kết nối tới một thiết bị cạnh mạng WDM. Các thuộc tính ví dụ của một cơ sở dữ
liệu tóm tắt định tuyến là:
 ID bộ định tuyến
 ID giao diện
 Địa chỉ IP giao diện (nếu có)
 Địa chỉ cho điểm neo móc WDM (nếu có)
 Bước sóng hay sử dụng
 Các khuôn dạng tín hiệu được hỗ trợ
 Băng thông được hỗ trợ
Trên đây là các thuộc tính cơ bản tương ứng với một giao diện IP. Có thể có
các thông số liên quan tới dịch vụ và các thông số hướng chính sách nữa được xem
xét. Khi một bộ định tuyến IP đã được kết nối với một bộ định tuyến IP khác thông
qua mạng WDM mà mạng WDM này tham gia vào một mạng ảo IP được xử lí kĩ
thuật lưu lượng thì khối kĩ thuật lưu lượng cần biết thông tin về các kết nối đang
tồn tại. Tuy nhiên trong một vòng điều khiển đóng, cố định, hiểu biết đầy đủ về mô
hình ảo IP hiện tại không dựa vào bất cứ một thực thể nào nằm ngoài khối kĩ thuật
lưu lượng. Có điều này là bởi vì mô hình hiện tại là kết quả cuối cùng của thuật
toán thiết kế mô hình. Các liên lạc giữa khối kĩ thuật lưu lượng và các bộ định
tuyến IP có thể tuân theo SNMP.
Kĩ thuật lưu lượng IP cũng cần giao tiếp với các node cạnh WDM hoặc thực
thể kĩ thuật lưu lượng WDM. Khối kĩ thuật lưu lượng IP sẽ gửi các bản tin UNI
thay mặt cho các bộ định tuyến IP tới các node cạnh WDM khác nhau theo một trật
tự được xác định bởi khối lập thời gian biểu dịch chuyển. Các bản tin UNI này
hoặc là sẽ dùng để xoá một đường đi ngắn nhất hoặc là sẽ tạo một đường đi ngắn
nhất. Vì các mạng IP truyền thống đòi hỏi kết nối hai hướng giữa các bộ định
tuyến liền kề và tầng máy khách là IP nên các hoạt động đối với đường đi ngắn
nhất được yêu cầu bởi các bản tin UNI sẽ luôn áp dụng đối với một cặp đường đi
ngắn nhất. Hai đường đi ngắn nhất đơn hướng của một cặp đường đi ngắn nhất

cung cấp các kết nối theo các hướng ngược nhau giữa cùng cặp bộ định tuyến IP
đó. Giả thiết tương tự được hỗ trợ bởi cơ chế báo hiệu đường đi ngắn nhất trong
tầng WDM.
IP TECP được sử dụng bởi kĩ thuật lưu lượng IP để thu thập thông tin từ mỗi
bộ định tuyến IP cùng liên kết tới bộ chuyển mạch cạnh WDM. Ba loại thông tin
được thu thập là: thông tin tóm tắt định tuyến, thông tin số liệu thống kê lưu lượng
và thông tin kết nối ảo hiện tại. Thu thập thông tin được hỗ trợ bởi các bản tin IP
TECP sẽ được định nghĩa trong phần dưới. Tất cả các bản tin TECP sử dụng chung
một mào đầu được vẽ trên hình 4.4.


0

1

2

3

4

5

6

7

0

1


2

3

4

5

6

7

0
1

2

3

4

5

6

7

0


1

2

3

4

5

6

7

Phiên bản
Chi
ều d
ài PDU

Loại bản tin
ID giao d
ịch

(Tiếp tục)
ID phía gửi
ID phía nhận
Hình 4.4 Khuôn dạng mào đầu TECP chung
Định nghĩa các trường bản tin trong mào đầu TECP như sau:
 Version: giá trị phiên bản. Trường này sử dụng hai octet.
 PDU length: chiều dài tổng của PDU dưới dạng octet. Nó bao gồm cả

mào đầu. Trường này sử dụng hai octet.
 Message type: trường này xác định kiểu bản tin và sử dụng hai octet.
IP TECP đã định nghĩa các kiểu bản tin sau:
 InventoryReq: Loại bản tin này được gửi bởi khối kĩ thuật lưu lượng
IP tới một bộ định tuyến để truy vấn tóm tắt bộ định tuyến.
 InventoryResp: Loại bản tin được gửi bởi một bộ định tuyến tới
khối kĩ thuật lưu lượng IP tương ứng với một bản tin InventoryReq
và để thông báo thông tin tóm tắt của bộ định tuyến gửi nó đi.
 TrafficReq: Loại bản tin này được gửi bởi khối kĩ thuật lưu lượng IP
tới bộ định tuyến để truy vấn nhu cầu lưu lượng bộ định tuyến.
 TrafficResp: Loại bản tin này được gửi bởi một bộ định tuyến tới
khối kĩ thuật lưu lượng tương ứng với một TrafficReq và để thông
báo thông tin nhu cầu lưu lượng của bộ định tuyến gửi nó đi.
 ConnectionReq: Loại bản tin này được gửi bởi khối kĩ thuật lưu
lượng tới một bộ định tuyến để truy vấn kết nối ảo hiện tại.
 ConnectionResp: Loại bản tin này được gửi bởi bộ định tuyến tới
khối kĩ thuật lưu lượng tương ứng với ConnectionReq và để thông
báo thông tin kết nối ảo hiện tại của bộ định tuyến gửi nó đi.
 ID giao dịch: trường này chỉ ra một bộ nhận dạng đặc biệt thể hiện sự
quản lí để kết hợp các đáp ứng cho các yêu cầu tương ứng của chúng.
Trường này sử dụng sáu octet.
 ID phía gửi: trường này chỉ ra nhận dạng của phía gửi bản tin. Nó sử
dụng bốn octet.
 ID phía thu: trường này chỉ ra nhận dạng của phía nhận bản tin. Nó
cũng sử dụng bốn octet.
Bản tin yêu cầu tóm tắt và bản tin trả lời
0

1


2

3

4

5

6

7

0

1

2

3

4

5

6

7

0


1

2

3

4

5

6

7


0

1

2

3

4

5


ID giao diện
Địa cấu hình IP giao diện

Địa chỉ điểm truy nhập WDM
Các khuôn dạng tín hiệu hỗ trợ
Băng thông hỗ trợ
Lambda dưới
Lambda trên

Hình 4.5 Khuôn dạng bản tin cho các bản tin tóm tắt
Bản tin yêu cầu tóm tắt là bản tin InventoryReq. Loại bản tin này chỉ có phần
mào đầu (nghĩa là không có phần tải tin). Bản tin trả lời tóm tắt là bản tin
InventoryResp. Với loại bản tin này, ngoài mào đầu bản tin thông thường thì tải tin
của bản tin này có khuôn dạng như trên hình 4.5. Các trường trong bản tin được
định nghĩa như sau:
 ID giao diện: trường này chỉ ra nhận dạng của giao diện bộ định tuyến.
Giao diện này kết nối giữa bộ định tuyến với mạng WDM tại địa chỉ
điểm truy nhập WDM. Trường này có bốn octet.
 Địa chỉ IP giao diện: đây là địa chỉ của giao diện và nó gồm bốn octet.
 Địa chỉ điểm truy nhập WDM: đây là địa chỉ của điểm truy nhập
WDM mà giao diện phía gửi có giá trị ID giao diện và địa chỉ IP giao
diện kết nối với nhau. Trường này có bốn octet.
 Khuôn dạng tín hiệu được hỗ trợ: trường này chỉ ra tất cả các khuôn
dạng tín hiệu được hỗ trợ bởi giao diện nhờ một vectơ bit. Nó sử dụng
bốn octet.
 Băng thông được hỗ trợ: trường này chỉ ra băng thông lớn nhất có thể
được hỗ trợ bởi giao diện dưới dạng Mbps. Trường này cũng có bốn
octet.
 ID lambda cận trên: trường này cùng với trường dưới đây sẽ chỉ ra dải
bước sóng ưa thích. Trường này chỉ ra giới hạn trên của dải bước sóng
này nhờ sử dụng một nhận dạng lambda. Nếu như không có một tham
chiếu nào thì trường này sẽ được đặt bằng ‘0’ và trường phía dưới sẽ bị
bỏ qua. Trường này gồm hai octet.

 ID lambda cận dưới: trường này cùng với trường trên chỉ ra dải bước
sóng ưa thích. Nó chỉ ra giới hạn dưới của dải nhờ sử dụng nhận dạng
lambda. Nó gồm hai octet.
Bản tin yêu cầu dữ liệu thống kê lưu lượng
0

1

2

3

4

5

6

7

0

1

2

3

4


5

6

7

0

1

2

3

4

5

6

7


0

1

2

3


4

5


6


7

Loại thống kê
T
ốc
đ
ộ lấy mẫu

Cửa sổ trung bình
Khoảng thời gian báo cáo
Hình 4.6 Khuôn dạng bản tin cho các bản tin yêu cầu dữ liệu thống kê lưu lượng
Mã của loại bản tin này là TrafficReq. Khuôn dạng phần thân tải tin của bản
tin này được vẽ trên hình 4.6. Các trường trong bản tin này được định nghĩa như
sau:
 Trường thống kê: trường này chỉ ra cho phía nhận biết thứ cần giám
sát bằng cách chỉ định kiểu thống kê. Nó có thể là mật độ lưu lượng
tổng hoặc mật độ lưu lượng được ưu tiên khi diffserv được hỗ trợ.
Trường gồm có hai octet.
 Tốc độ lấy mẫu: trường này cho phía thu biết phương thức thu thập các
dữ liệu thống kê bằng cách chỉ ra một tốc độ lấy mẫu khuyến cáo. Phía
thu có thể chọn bất cứ một tốc độ lấy mẫu nào không thô hơn tốc độ

được khuyến cáo (nghĩa là tốc độ được chọn phải lớn hơn tốc độ được
khuyến cáo). Trường này có hai octet.
 Cửa sổ trung bình: các bộ định tuyến thường mong chờ tiền xử lí các
dữ liệu thống kê mà chúng thu thập cục bộ. Trường này chỉ ra cho mỗi
phía thu (bộ định tuyến) một kích thước cửa sổ trung bình phù hợp theo
thời gian. Trường này gồm có bốn octet.
 Khoảng thời gian báo cáo: trường này chỉ ra cho phía thu thời gian
báo cáo dữ liệu thống kê cho khối kĩ thuật lưu lượng bằng cách chỉ ra
khoảng thời gian giữa hai báo cáo. Trường này sử dụng bốn octet.
Bản tin trả lời dữ liệu thống kê lưu lượng
Mã của loại bản tin này là TrafficResp. Thân của loại bản tin này bao gồm hai
phần. Một nửa đầu là bản tin TrafficReq nhận được, và nửa còn lại là thông tin dữ
liệu thống kê. Khuôn dạng của nửa thứ hai thay đổi tuỳ theo loại dữ liệu thống kê.
Trong kĩ thuật lưu lượng thì yêu cầu là một ma trận nhu cầu lưu lượng. Khuôn
dạng bản tin tương ứng của nó được vẽ trên hình 4.7.

0

1

2

3

4

5

6


7

0

1

2

3

4

5

6

7

0

1

2

3

4

5


6

7


0

1

2

3

4

5


6


7

Loại dữ liệu thống kê
T
ốc độ lấy mẫu

Cửa sổ trung bình
Khoảng thời gian báo cáo
ID bộ định tuyến lối ra

Các dữ liệu thống kê

Hình 4.7 Khuôn dạng bản tin cho các bản tin trả lời dữ liệu thống kê lưu lượng

×