Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TẬP BÀI GIẢNG DÀNH CHO HỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG - BÀI 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.66 KB, 19 trang )

BÀI 2
CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG
ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM CƯƠNG LĨNH
Đảng chính trị phải có Cương lĩnh chính trị.
• Theo V.I. Lênin Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng
và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được và vì
mục đích gì mà đảng đấu tranh”.
• Theo quan niệm của Đảng ta, Cương lĩnh chính trị là văn bản trình
bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và
phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất định.
Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn
Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho
mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
• Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh 1930
để tập hợp và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng xã hội mới. Đến nay, chúng ta có thêm Cương lĩnh năm 1991.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH NĂM
1991
1. Năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta, cả trong quá
trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa (bao gồm cả 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ VI đề ra), từ những kinh nghiệm
thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công, Đại hội đại
biểu tòan quốc lần thứ VII của Đảng đã tổng kết, nêu ra năm bài học
lớn của cách mạng Việt Nam trong 60 năm qua:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân
tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ


nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai
vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc
trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
Năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam
Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự
lãnh đạo và tòan bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và
nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi
ích của nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đòan kết, đòan kết toàn
Đảng, đòan kết tòan dân, đòan kết dân tộc, đòan kết quốc tế.Đoàn
kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của dân
tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành
công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sức mạnh dân tộc, sức
mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực. Sức
mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật
và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại…
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo
đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Đểlàm được điều đó, phải xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường
xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của
tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam
2. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
a) Hoàn cảnh quốc tế

• Sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, vừa tạo ra thời cơ phát triển, nhanh, vừa tạo
ra những thách thức đối với nước ta và các nước.
• Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng,
thậm chí ở một số nước đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chế
độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc
luôn phản kích quyết liệt nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra
gay gắt.
• Chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, song bản
chất áp bức, bóc lột và bất công vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn
cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc…
Hoàn cảnh quốc tế
• Cuộc đấu tranh của các nước độc lập dân tộc và các nước đang
phát triển chống nghèo nàn, lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân
mới, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc để
bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc đang tiếp tục diễn ra dưới nhiều
hình thức và rất gay go phức tạp, quyết liệt.
• Nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách cần phải giải quyết như: ô nhiễm,
suy thoái môi trường, tình trạng nghèo đói, bùng nổ dân số
• Đặc điểm nổi bật của thời đại trong giai đoạn hiện nay là cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, phức tạp và
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã
hội đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
b) Những khó khăn, thuận lợi của nước ta khi bước
vào thời kỳ quá độ lên CNXH
• Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ
nghĩa; vốn là nước thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất

thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tàn dư thực dân, phong kiến
còn nhiều, các thế lực thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn chống phá
cách mạng nước ta.
• Chúng ta cũng có những thuận lợi rất cơ bản: (5 )
+ Có sự lãnh đạo của một Đảng được rèn luyện trong đấu tranh, dày
dạn kinh nghiệm lãnh đạo, có chính quyền nhân dân, đất nước trong
giai đoạn hòa bình xây dựng;
+ Dân tộc ta anh hùng, có ý chí vươn lên mạnh mẽ; nhân dân ta có
lòng yêu nước nồng nàn, lao động cần cù, sáng tạo;
+ Chúng ta đã xây dựng một số cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu
cho quá trình công nghiệp hoá.
+ Chúng ta có cơ hội mới do cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ mang lại.
+ Đặc biệt là, những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đã tạo
tiền đề rất quan trọng để đất nước ta mạnh lên cả thế và lực.
Những khó khăn, thuận lợi của nước ta khi bước vào
thời kỳ quá độ lên CNXH
• Cương lĩnh khẳng định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình
hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý
chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của
dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi,
hình thức và biện pháp thích hợp xây dưụng thành công chủ nghĩa
xã hội”[1].
• * Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.8.
3. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong
Cương lĩnh năm 1991
Một là, Nhân dân lao động làm chủ.
Hai là, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Ba là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, con người đựơc giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tòan diện cá nhân.
Năm là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đòan kết và giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ.
Sáu là, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng trên gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể
thống nhất, vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hòan thiện
dần từng bước trong quá trình xây dựng. Mọi hoạt động lãnh đạo,
quản lý đều phải chú ý đến cả sáu đặc trưng, đó là định hướng xã
hội chủ nghĩa trong hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
4. Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
• Một là, “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”[1].
• Hai là, “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước
theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp
tòan diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng
suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”[2].
• Ba là, “Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết
lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao
với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc
doanh và tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế chủ yếu”[3].
• Bốn là, "tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư
tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống của xã hội.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các
dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái
với những truyền thống tốt đẹp của dân tọc và những giá trị cao
quý của lòai người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội"[4].
• Năm là, “thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu
vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại
hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nứơc; trung thành với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã
hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"[5].
• Sáu là, “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh
giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tòan
xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”[6].
Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
• Bảy là, “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư

tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn
trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta”[7].
• Theo các phương hướng cơ bản nói trên, mục tiêu tổng quát phải
đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “…xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng
về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành
một nước XHCN phồn vinh”
Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
1. Việc thực hiện Cương lĩnh 1991 trong 15 năm qua
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trong đó có 15
năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, công cuộc đổi mới nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
• Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh.
• Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
• Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh
được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao.
• Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế
và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
III. VIỆC THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH NĂM 1991
TRONG 15 NĂM QUA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA CƯƠNG LĨNH NĂM
1991 TRONG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI X
2. Sự phát triển một số nội dung Cương lĩnh 1991

trong Nghị quyết Đại hội X
a) Nhận thức về CNXH
Qua 15 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X của Đảng
đã bổ sung và xác định xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng có 8
đặc trưng:
• Một là, "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh"[1]( đặc trưng mới)
• Hai là, "do nhân dân làm chủ"[2].(bỏ cụm từ lao động)
• Ba là, "Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất"[3](bỏ đoạn chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu)
• Bốn là, "Có nền văn hoá văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc"[4]. Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991( như Cương lĩnh
1991).
• Năm là, "Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện"[5](bỏ cum từ
bóc lột)
Nhận thức về CNXH:
• Sáu là, "Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ"[6]. Đặc trưng này về cơ bản
như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ "tương trợ".
• Bảy là, "Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản"[7](đặc
trưng mới so với Cương lĩnh 1991).
• Tám là, "Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên
thế giới"[8]. Đặc trưng này giống như đặc trưng của Cương lĩnh 1991.
b) Về con đường đi lên CNXH:
Cương lĩnh năm 1991 đã nêu bảy phương hướng cơ bản của quá
trình xây dựng CNXH. Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung

thành 8 quá trình tất yếu phải thực hiện như sau:
• Một là, “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa"[1].
• Hai là, “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa"[2].
• Ba là, “Xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm
nền tảng tinh thần của xã hội"[3].
• Bốn là, “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc"[4].
• Năm là, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân"[5].
Về con đường đi lên CNXH:
• Sáu là, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh"[6].
• Bảy là, “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia"[7].
• Tám là, “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"[8].
Đại hội X khẳng định: "Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm
đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn
của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn
đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp
tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng
chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã
hội"[9].

×