Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
MỞ ĐẦU
Nấm linh chi đã được nuôi trồng từ rất lâu, không những là nấm ăn mà nó còn
là một loại dược liệu quý hiếm. Từ xa xưa đến nay nấm Linh chi vẫn được xem là
nguồn thực phẩm cao cấp với mùi vò thơm đặc trưng. Vì vậy nấm không chỉ là thức ăn
ngon mà còn là thực phẩm chức năng tốt cho sức khoẻ con người.
Cũng như nhiều loại nấm khác, nấm Linh chi có hàm lượng chất béo thấp.
Thành phần chất béo chủ yếu là axít béo chưa no, rất thích hợp cho những người ăn
kiêng, chống béo phì. Hàm lượng protein cao chỉ sau thòt và đậu nành.
Ngoài những giá trò về dinh dưỡng, nấm Linh chi còn có những dược tính quý.
Những khảo sát dược lý và lâm sàng hiện nay cho thấy Linh chi không có độc tính,
không có tác dụng phụ dù dùng dài ngày, không tương kỵ với những dược liệu khác
hoặc tân dược trong điều trò và Linh chi cũng có nhiều công dụng:
o Linh chi được dùng trong điều trò viêm gan do virus.
o Hỗ trợ điều trò các bệnh ung thư.
o Chống dò ứng, chống viêm.
o Tác dụng như chống oxy hoá.
o Bảo vệ và chống ảnh hưởng của các tia chiếu xạ.
o Nâng cao hệ miễn dòch trong điều trò nhiễm HIV.
o Điều hoà và ổn đònh huyết áp. Chống nhiễm mỡ xơ mạch và các biến chứng,
giảm cholesterol.
o Chữa loét dạ dày, tá tràng.
o Hỗ trợ trong điều trò tiểu đường.
o Chống suy nhược thần kinh kéo dài, mất ngủ.
o Chống stress gây căng thẳng.Và còn nhiều công dụng khác…
Nhờ những giá trò dinh dưỡng và dược học mà ngày nay ở Việt Nam và trên
toàn thế giới việc nuôi trồng, tiêu thụ nấm Linh chi tăng mạnh. Các nước sản xuất
nấm Linh chi chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam …
Việt Nam là một nước nông nghiệp và giàu tiềm năng về lâm nghiệp, do đó
nguồn phế thải nông - lâm nghiệp như bã mía, rơm rạ, mạt cưa rất dồi dào, đây là
nguồn nguyên liệu thích hợp cho việc trồng nấm. Nuôi trồng nấm Linh chi ở nước ta
đã tiến hành từ nhiều năm trước đây, nhưng chỉ với những trang trại theo quy mô nhỏ
lẻ, tự phát. Do chưa cơ cấu giống thích hợp và chưa có kỹ thuật nuôi trồng cụ thể
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
hoặc có những người nuôi trồng chưa nắm bắt rõ. Nên hầu hết các trang trại nuôi
trồng nấm không phát triển so với các nước bạn.
Để bảo vệ môi trường do sự phát triển của ngành nông nghiệp ngày càng thải
nhiều chất gây ô nhiễm môi trường. Làm cho môi trường ngày càng bò ô nhiễm ảnh
hưởng tới đời sống và sức khoẻ của con người. Và hiệu quả kinh tế cao mà ngành
trồng nấm Linh chi mang lại. Do đó, việc nghiên cứu kỹ thuật nuôi trồng nấm với
nhiều loại phế thải nông nghiệp thải ở Việt Nam.
Nấm Linh chi là một loại nấm có giá trò dinh dưỡng, giá trò dược học và giá trò
kinh tế cao. Hiểu được những lợi ích của nấm Linh chi đem chúng tôi muốn nghiên
cứu để biết rõ về loại nấm quý này. Nội dung đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật trồng nấm
Linh chi đỏ (Ganoderma Lucidum) trên mạt cưa cao su”.
Từ những điều trình bày trên, mục tiêu của đề tài là:
1. Nghiên cứu kỹ thuật trồng nấm Linh chi đỏ (Ganoderma lucidum) trên mạt cưa
cao su.
2. Khảo sát tốc độ phát triển lan tơ của nấm Linh chi.
3. So sánh tốc độ lan tơ của nấm Linh chi giống trên hạt lúa và trên thân khoai
mì.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 3
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
1.1. Giới thiệu về nấm Linh Chi
Linh chi có rất nhiều tên gọi: Nấm vạn năm, Nấm thần tiên, Cỏ trường sinh,
Hạnh nhó,… trong đó Linh chi thảo là phổ biến nhất và được truyền tụng từ hàng ngàn
năm nay với rất nhiều truyền thuyết. Ngược dòng thời gian, các ghi chép sớm nhất về
Linh chi là từ thời Hoàng đế, cách đây hơn 2000 năm. Theo các sách kim điển thì
Linh chi có tác dụng làm trẻ hóa, sống lâu và ngừa được bách bệnh.
Trong truyền thuyết của người Trung Quốc thường lưu truyền các câu chuyện
về Linh chi chữa bệnh nan y, khá nhiều chuyện hấp dẫn và cảm động. Trong truyền
thuyết nổi tiếng “Bạch xà truyện” kể rằng vì muốn cứu sống người chồng mà xà tinh
Bạch nương nương đã không quản ngại hiểm nguy đến tận núi Nga My xa hàng ngàn
dặm lấy cắp tiên thảo của Nam Cực tiên ông. Cuối cùng mục đích của nàng đã đạt
được, Hứa Tiên được cứu sống và tiên thảo đó chính là Linh chi. Vào thời Hán Vũ đế,
trên chiếc xà ngang cung điện, một hôm bỗng mọc ra một cây nấm Linh chi, các vò
đại thân đến chúc mừng và tâu rằng: Linh chi mọc là dự báo điềm lành đến với nhà
vua. Từ đó Hán Vũ đế đã hai lần hạ chiếu ân xá phạm nhân.
Về công dụng chữa bệnh của Linh chi, lần đầu tiên xuất hiện là trong y văn
Hán Vũ đế. Trong “Thần nông bản thảo kinh”, bộ sách nổi tiếng về thảo dược ra đời
cách đây hơn 2000 năm được biên soạn từ thời hậu Hán (năm 25 đến 22 trước công
nguyên), đề cập đến 365 dược thảo thì Linh chi xếp vào loài Thượng dược, ở vò trí số
một sau đó mới đến nhân sâm. Thần nông bản thảo kinh phân biệt Linh Chi theo màu
sắc, có ghi: Linh Chi có 6 loại: Xích chi, Thanh chi, Bạch chi, Hoàng chi, Hắc chi, Tử
chi.
Đến thời Minh, Lý Thời Trân viết bản thảo cương mục gồm 2000 loài thuốc thì
Linh Chi vẫn được xếp vào hàng đầu. Ông viết: “Dùng lâu người nhẹ nhàng, không
già, sống lâu như thần tiên”. Ông căn cứ vào tính vò, công năng, tác dụng mà phân
Linh Chi ra thành 6 loại :
1. Thanh chi: Còn có tên là Long chi: Toàn bình, không độc. Chủ trò sáng mắt, bổ
can khí, an thần, tăng trí nhớ.
2. Hồng chi: Còn có tên là Xích chi hay Đơn chi: Vò đắng, tính bình, không độc.
Chủ trò xung trung kết (tức ngực) ích tâm khí, bổ trung, tăng trí nhớ, tăng trí
tuệ.
3. Hoàng chi: Còn có tên là Kim chi: Cam (ngọt) bình, không độc. Chủ trò ích
trùng khí, an thần.
4. Bạch chi: Còn có tên là Ngọc chi: Cay, bình, không độc. Chủ trò ích phế khí,
làm thông miệng, mũi, an thần.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 4
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
5. Hắc chi: Còn có tên gọi là Huyền chi: Mặn, bình, không độc. Chủ trò ù tai, lợi
khớp, bảo thần (bảo vệ công năng của hệ thần kinh) ích tinh khí, làm dai gân
cốt.
6. Tử chi: Còn có tên gọi là Mộc chi: Ngọt, ôn, không độc. Chủ trò lợi thủy đạo
(lợi tiểu), ích thận khí.
Trong các bức họa hoặc các tướng đạo Trung Quốc, Linh chi thường được
mang bên mình. Các đạo só tin rằng Linh chi được các thần linh ban cho và “là hạt
giống tinh thần”. Họ tôn trọng Linh chi vì nó làm cân bằng ngũ quan và do đó hỗ trợ
trường thọ.
Ở Việt Nam, trong những tác giả xưa có hai ngưới nói đến Linh chi, một là
danh y Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791) trong “Y lý thâu nhàn ngôn phụ chí”
(Trong khi làm thuốc tìm thú nhàn, mượn lời quê để nói lên ý chí của mình) bài thơ số
14, Hải Thượng viết:
Xuân nhật đăng sơn thái dược.
Vu hồi thạch kính đạt sơn phi.
Lai tuyết tàn hoa thẩm đạo y.
Phất khứ hoang vân đăng tuyệt hiến.
Phượng hoàng sào hạ mòch Linh chi.
Đã được Nguyễn Thanh Giản, Nguyễn Tử Siêu, Nam Trân cùng dòch như sau:
Ngày xưa lên núi hái thuốc.
Đường lên sườn núi mãi quanh đi.
Tuyết rụng hoa rơi thẫm đạo y.
Rẽ lối mây mù leo tận đỉnh.
Tới vùng tổ phượng hái Linh chi.
Người Việt Nam thứ hai có nói đến Linh chi là nhà bác học Lê Quý Đôn (1726
– 1784) viết về Linh chi trong “Vân Đoài loại ngư” và “Kiến văn tiểu lục” đánh giá
Linh chi là “Một sản vật quý hiếm của đất rừng Đại Nam” với những tác dụng lớn
như kiện não, bảo can, cường tâm, kiên vò, cường phế, giải độc, giải cảm và giúp con
người sống lâu tăng tuổi thọ.
Nấm Linh chi được Kỹ Sư Nguyễn Thanh đưa từ Trung Quốc về Việt Nam với
một số chủng Linh chi đỏ quý Ganoderma lucidum (Leyss ex Fr.) Karst …, và được
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 5
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
nuôi trồng ra quả thể tại Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Ở (hình 1.1 và hình 1.2) là quả
thể nấm Linh chi đỏ.
Hình 1.1: Bề mặt trên của quả thể nấm Linh chi đỏ (Ganoderma lucidum)
Hình 1.2: Bề mặt dưới của quả thể nấm Linh chi đỏ (Ganoderma lucidum).
Ngày nay, các nhà khoa học đã xác đònh Linh chi là một loài nấm Linh chi là
một loài có tên khoa học là Ganoderma lucidum (Leyss ex Fr.) Karst, tên thông dụng
là Linh chi (Việt Nam), Lingzhi (Trung Quốc), Reishi (Nhật Bản). Nấm có màu đỏ,
hiện nay có khoảng 45 thứ (variete) Linh chi được xác đònh, nghóa là chỉ có Linh chi
đỏ ta đã có 45 loại có màu sắc khác nhau thay đỗi từ vàng, vàng cam đến cam, đỏ
cam, đỏ, đỏ sậm, đỏ tía, …Ngoài ra còn có Linh chi đen (Ganoderma sinense) như
(hình1.4), Linh chi tím (Ganoderma japonicum) là hai loại hoàn toàn khác Linh chi
đỏ. Linh chi vàng gặp ở Việt Nam là (Ganoderma colossum) như (hình 1.3) chưa phát
hiện ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á khác.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 6
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Hình 1.3: Qủa thể nấm Linh chi vàng (Ganoderma colossum)
Hình 1.4: Quả thể
nấm Linh chi đen
(Ganoderma
sinense)
Hình 1.5: Quả thể nấm Linh chi trắng
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 7
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Các loài Linh chi được xếp vào một họ riêng là họ nấm Linh chi
Ganodermataceae trong đó chi Ganoderma có rất nhiều loài, đến gần 80 loài, do vậy
Linh chi đỏ được gọi là Linh chi chuẩn để phân biệt với những loài khác cùng chi
Ganoderma nhưng không phải là Linh chi thật sự. Khi nói đến Linh chi là đề cập đến
Linh chi đỏ Ganoderma lucidum đây là loại Linh chi tốt nhất trong các loài thuộc họ
Linh chi. Cho đến nay chưa ai thấy và chưa có mơ tả khoa học về Linh chi trắng (hình 1.5)
và Linh chi xanh thuộc chi Ganoderma trong họ Ganodermataceae mà chỉ mới thấy Linh
chi đỏ, Linh chi đen, Linh chi vàng, Linh chi tím. Ngồi ra, các nhà khoa học Nhật Bản
còn cho rằng trồng trong một số điều kiện khác nhau Linh Chi sẽ có màu khác nhau.
Tên khoa học: Ganoderma lucidum (Leyss ex Fr) Kart (Linh Chi có nhiều loài
khác nhau).
Nấm Linh Chi thuộc:
− Ngành : Eumycota.
− Lớp : Basidiomycetes.
− Bộ : Polyporales.
− Họ : Ganodermataceea.
− Chi : Ganoderma
− Loài : Ganoderma lucidum
Chi Ganoderma rất phong phú và phân bố khá rộng, nhất là ở vùng nhiệt đới
ẩm, một số dùng làm thực phẩm chức năng và dược phẩm. Gặp hầu hết ở các nước
Châu Á ở Việt Nam gặp rãi rác từ Bắc đến Nam.
1.1.1. Đặc điểm sinh học
Về hình thái ngoài chúng cũng có ít nhiều sai khác. Quả thể có cuống dài hoặc
ngắn, thường đính bên, đôi khi trở thành đính tâm do quá liền tán mà thành. Cuống
nấm thường hình trụ, hoặc thanh mảnh (cỡ 0,3 – 0,8 cm đường kính), hoặc mập khỏe
(tới 2 – 3,5 cm đường kính). Ít khi phân nhánh, đôi khi có uốn khúc cong quẹo (do
biến dạng trong quá trình nuôi trồng). Lớp vỏ cuống láng đỏ – nâu đỏ – nâu đen,
bóng, không có lông, phủ suốt lên mặt tán nấm.
Mũ nấm dạng thận – gần tròn, đôi khi xòe hình quạt hoặc ít nhiều dò dạng
đồng tâm và có tỉa rảnh phóng xạ, màu sắc từ vàng chanh – vàng nghệ – vàng nâu –
vàng cam – đỏ nâu – nâu tím, nhẵn bóng, láng như verni. Khi già, sẫm màu lớp vỏ
láng lớùp phấn đỏ nâu trên bề mặt ngày càng nhiều và dày hơn. Kích thước tai nấm
biến động lớn, từ 5 – 12 cm, dày 0,8 – 3,3 cm. Phần đính cuống hoặc gồ lên hoặc lõm
như lõm rốn (hình 1.6)
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 8
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Hình 1.6: Hình thái giải phẫu thể quả nấm Linh chi
Phần thòt nấm dày từ 0,4 – 2,2 cm, màu vàng kem – nâu nhợt – trắng kem,
phân chia kiểu lớp trên và lớp dưới. Thấy rõ ở các lớp trên, các tia sợi hướng lên.
Trên lát cắt trên giải phẫu hiển vi, chỉ thấy đầu trên các sợi phình hình chùy, màng
rất dày, đan khít vào nhau, tạo thành lớp vỏ láng (dày khoảng 0,2 – 0,5 mm). Nhờ lớp
láng bóng không tan trong nước do đó mà nấm chòu được mưa, nắng. Ở lớp dưới hệ
sợi tia xuống đều đặn, tiếp giáp vào tầng sinh bào tử.
Tầng sinh sản (bào tầng – thụ tầng - hymenium) là một lớp ống dày từ 0,2 –
1,8 cm màu kem – nâu nhạt gồm các ống nhỏ thẳng, miệng gần tròn, màu trắng, vàng
chanh nhạt, khoảng 3 -35 ống/mm. Đảm đơn bào (holobasidie) hình trứng hình chùy,
không màu dài 16 – 22 µm, mang 4 đảm bào tử (basidiospores).
Bào tử đảm thường được mô tả có dạng trứng cụt (truncate). Đôi khi có tác giả
mô tả là dạng hình trứng có đầu chóp tròn – nhọn. Thực ra đó là do chụp phủ lớp nảy
mầm (tectum cap) hoặc phồng căng, hoặc lõm thụt vào mà thành. Bào tử đảm có cấu
trúc lớp vỏ kép, màu vàng mật ong sáng, chính giữa khối nội chất tụ lại một giọt hình
cầu, dạng giọt dầu, kích thước bào tử rất nhỏ dao động ít nhiều khoảng từ 8 – 11,5 x 6
– 7,7 µm, phải xem dưới kinh hiển vi mới thấy được, khá phù hợp với tác giả (bảng
1.1). Bào tử Linh chi có hai lớp vỏ rất cứng, khó nảy mầm. Bào tử Linh chi có chứa
các thành phần giống như Linh chi: Polyssacharide, triterpen, acid béo, acid amin,
vitamin và các nguyên tố vi lượng, với hàm lượng đậm đặc hơn Linh chi từ 7 đến
khoảng 20 lần (theo một số báo cáo). Khi Linh chi phóng thích bào tử, nhìn xuyên
qua ánh nắng sẽ thấy từng đợt bào tử bay như khói bám vào mặt trên Linh chi tạo
thành một lớp bụi mỏng màu nâu đỏ, rất mòn, như đất đỏ bazan.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 9
Bào tầng – Thụ tầng
Mô thòt nấm
Cuống nấm
Mũ nấm
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Tuy vậy số lượng bào tử Linh chi là rất ít. Khi thu hoạch 1 tấn nấm Linh chi sẽ
thu được 1kg bào tử. Tác dụng của bào tử cũng giống như tác dụng của nấm Linh chi.
Thường một vài sản phẩm của các hãng trên thò trường có phối hợp Linh chi và bào tử
phá vỏ hoặc không phá vỏ. Các sản phẩm này thường đắt hơn các sản phẩm không có
bào tử. Tuy nhiên những bào tử đã phá lớp vỏ thì dễ bò oxy hóa nếu bảo quản không
tốt, còn nếu không phá vỏ thì cơ thể khó hấp thụ nếu dùng dưới dạng viên nang.
Bảng 1.1: Biến động kích thước bào tử đảm nấm Linh chi chuẩn ở các mẫu
vật khác nhau.
Nguồn Kích thước bào tử Vùng thu mẫu
1889Patouuillard
1939 Imazeki
1964 teng
1972 Steyaert
1973 Pegler et al
1976 Ryvarden
1980 Ryvarden et al
1981 Kiet
1982 Bazzalo et al
1986 Melo
1986 Gilbertson et al
1986 Adaskaveg et al
1987 Petersen
1989 Zhao
1990 Hseu
1994 Thu
1994 Tham et al
1996 Tham
10 – 12 x 6 – 8
9,5 – 11 x 5,5 – 7
8,5 – 11,5 x 5 – 6,5
8,5 – 10,8 – 13 x 5,5 – 8,5
9 – 13 x 6 – 8
7 – 12 x 6 – 8
7 – 12 x 6 – 8
7,5 – 10 x 5 – 6,5
9 – 13 x 5 – 7
8,2 – 11,5 – 13,5 x 6,3 – 7,5 –8,1
9 – 12 x 5,5 – 8
10 – 11,8 x 6,8 – 7,8
7 – 8 x 6 – 8
9 – 11 x 6 – 7
8,5–11,5 x 5–7
9 – 12 x 5 – 7
8 – 10,5 x 5 – 7
7,5 - 11,5 x 5,5 – 7
Đông Dương
Nhật Bản
Trung Quốc
Indonesia. Úc Châu
Anh Quốc
Bắc Âu. Phi Châu
Đông Phi Châu
Bắc Việt Nam
Argentine
Bồ Đào Nha
Bắc Mỹ
Bắc Mỹ
Bắc Âu
Trung Quốc
Đài Loan
Hà Bắc Việt Nam
Lạng Sơn Việt Nam
Đà Lạt Việt Nam
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Vỏ bào tử khá dày, cỡ 0,7 – 1,2 µm có cấu trúc phức tạp, mặc dù kích thước
biến đỗi nhưng cấu trúc tinh vi của bào tử đảm có độ ổn đònh cao, dù là ở chủng nuôi
trồng ở Trung Quốc, Nhật Bản chủng nấm Linh chi Hà Bắc hay chủng Đà Lạt. Rõ
ràng kiến tạo lỗ thủng trên bề mặt lớp vỏ ngoài là phổ biến nhất ở các chủng nghiên
cứu, và quan sát thường thấy mấu lồi nhỏ (đường kính 0,5 – 1,5µm) ở đầu đối diện
với lỗ nảy mầm – tức là ở đáy bào tử (có thể thấy rõ ở chủng nấm Linh Chi). Mới chỉ
thấy Steyaert (1972), Futado (1962), Hseu (1990), Buchanan và Wilkie (1994), … chụp
và vẽ mô tả cấu trúc này nhưng chưa ai đưa ra nhận xét và thuật ngữ nào.
Lỗ nảy mầm của bào tử đảm khá lớn, là đặc điểm quan trọng của loài
Ganoderma (đường kính cỡ 3,2 – 4,2µm). Đã có nhiều thảo luận lý thú, đặc biệt là
các thí nghiệm gieo đảm bào tử để xác đònh chức năng của cấu trúc này. Đặc biệt
Furtado và Steyaert thường lưu ý, gọi vùng này là đỉnh bào tử, nhấn mạnh đặc điểm
nở phồng dày lên của vùng này của các loài Ganoderma.
Trên lớp vỏ ngoài thấy rõ các trụ chống chính là khái niệm “gai chống” do đa
số các tác giả nhận xét đỉnh các trụ nổi gồ thành các mụn cóc. Các trụ chống chính là
tầng cột theo phân loại của Erdtman (1952) – các trụ được nối với nhau bằng vách
mỏng chống từ tầng nền tới tầng phủ mỏng, trong suốt, bao bọc toàn bộ bên ngoài
bào tử. Như thế tạo thành các xoang rỗng ở lớp vỏ ngoài, nhờ đó tạo khả năng bảo vệ
cao cho vỏ bào tử.
Lớp vỏ trong mỏng hơn, sát ngay bên dưới tầng nền của lớp vỏ ngoài, thường
cảm quan mạnh, do vậy thấy đậm màu dưới kính hiển vi quang học. Cấu trúc của lớp
vỏ trong cho đến nay còn chưa được biết rõ.
1.1.2. Đặc điểm sinh trưởng và sinh sản
Các bào tử đảm đơn bội, trong điều kiện thuận lợi, nảy mầm tạo hệ sợi sơ cấp,
trong thực nghiệm thì tỷ lệ nảy mầm ở nhiệt độ 28 – 30
o
C. Hệ sợi sơ cấp đơn nhân
đơn bội mau chóng phát triển, phối hợp với nhau tạo ra hệ sợ thứ cấp – tức hệ sợi
song hạch phát triển, phân nhánh rất mạnh, tràn ngập khắp giá thể. Lúc này, thường
có hiện tượng hình thành bào tử vô tính màng dày – rất dày.
Chúng dễ dàng rụng ra khi gặp điều kiện phù hợp sẽ nảy mầm cho ra hệ sợi
song mạch tái sinh. Hệ sợi thứ cấp phát triển mạnh đạt tới giai đoạn cộng bào – tức
các vách ngăn được hòa tan.
Tiếp đó là giai đoạn sợi bện kết để chuẩn bò cho sự hình thành mầm mống quả
thể, đây chính là giai đoạn phân hóa hệ sợi. Từ hệ sợi nguyên thủy hình thành các sợi
cứng màng dày, ít phân nhánh bên kết lại thành cấu trúc bó được cố kết bởi các sợi
bên phân nhánh rất mạnh.
Từ đó hình thành các mầm nấm màu trắng mòn vươn dài thành các trụ tròn
mập. Phần đỉnh trụ bắt đầu xòe thành tán, trong lúc lớp vỏ láng đỏ cam xuất hiện.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 11
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Tán lớn dần hình thành bào tầng và bắt đầu phát tán bào tử đảm liên tục cho đến khi
nấm già sẫm màu, khô tóp và lụi dần trong vòng 3 – 4 tháng. Chu trình sống của nấm
Linh chi (hình 1.7).
Hình 1.7: Chu trình sống của nấm Linh chi.
Nấm Linh chi có thể mọc trên cây gỗ (thường là thuộc bộ đậu Fabales) đã
chết. Quả thể gặp rộ vào mùa mưa (từ tháng 5 – tháng 11 dương lòch), có thể trên
thân cây (cuống thường ngắn, tai nấm nhỏ), quanh gốc cây hoặc từ các rễ cây khi ấy
cuống thường dài và có thể phân nhánh, đôi khi tán nấm lớn (xấp xỉ 30 cm). Nấm
thường mọc tốt dưới bóng rợp, ánh sáng khuyếch tán nhẹ. Do có lớp vỏ láng đỏ, Linh
chi có thể chòu nắng rọi, khi ấy sẽ xuất hiện lớp phấn ánh xanh tím, có thể chòu mưa
liên tục. Đáng chú ý là các chủng nấm Linh chi thường có màu nâu đỏ bóng sẫm màu
hơn, trong khi chủng Linh chi ở Đà Lạt thường đỏ hồng – đỏ cam. Ở những vùng thấp
(< 500 m) rõ ràng là ưu thế của các chủng chòu nhiệt độ cao (28 – 35) như ở vùng
châu thổ sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (quanh thành phố Hồ Chí Minh).
Bởi thế, chủng Linh chi đỏ được chúng tôi chọn làm đối tượng để tìm hiểu và
nuôi trồng khảo cứu chính phục vụ cho bài tốt nghiệp. Và nghiên cứu chi tiết hơn về
kỹ thuật nuôi trồng Linh chi ở điều kiện khí hậu tại TP. Hồ Chí Minh.
1.1.3. Điều kiện sinh trưởng và sinh sản
Nhiệt độ thích hợp:
− Giai đoạn nuôi sợi: Từ 20
o
C đến 30
o
C
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 12
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
− Giai đoạn quả thể: Từ 22
o
C đến 28
o
C
Độ ẩm:
− Độ ẩm cơ chất: Là lượng nước bổ sung vào cơ chất để nấm có thể mọc được từ
60 đến 65%.
− Độ ẩm không khí: Gọi là độ ẩm tương đối không khí. Nó biểu hiện bảng phần
trăm của tỉ lệ độ ẩm tuyệt đối trên độ ẩm bảo hoà của không khí, độ ẩm không
khí từ 80% đến 95%.
− Độ thông thoáng: Trong suốt quá trình nuôi sợi và phát triển quả thể, nấm Linh
chi đều cần có độ thông thoáng tốt.
Ánh sáng:
− Giai đoạn nuôi sợi: Không cần ánh sáng.
− Giai đoạn phát triển quả thể: Cần ánh sáng tán xạ (ánh sáng có thể đọc sách
được). Cường độ ánh sáng cân đối từ mọi phía.
pH:
Linh chi thích nghi trong môi trường trung tính đến acid yếu. Đối với nguyên
liệu trồng nấm, không ở dạng dung dòch, nên khó đo với các loại máy đo pH ở dạng
dung dòch. Người ta có thể dùng “pH đo đất” để xác đònh độ pH của nguyên liệu.
Dụng cụ đơn giản như một cái dùi nhọn, khi ghim vào nguyên liệu sẽ cho biết ngay
pH của cơ chất.
Dinh dưỡng:
Sử dụng nguồn dinh dưỡng trực tiếp từ nguồn xenlulo.
1.1.4. Thành phần hóa học và dược tính cơ bản của nấm Linh chi
Số lượng các chủng loài nấm Linh chi được sử dụng trong công nghệ dược liệu,
dược phẩm ngày càng tăng và đó cũng là bí quyết của các quốc gia Á Đông. Khái
niệm Lục Bảo Linh chi từ thời Lý Thời Trân cách nay 400 năm (1595) có lẽ phải bao
hàm hàng chục loài khác nhau. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà ở Trung Quốc có
khá nhiều cơ sỡ tầm cỡ nghiên cứu và sản xuất Linh chi (đặc biệt là ở Phúc Kiến và
Tứ Xuyên).
Các nước Châu Á dẫn đầu về nghiên cứu hoá dược, nuôi trồng và bào chế các
loại Linh chi. Thực tế một số tác giả đã quan tâm phân tích thành phần cấu tạo vỏ
láng ở các loài Ganoderma và Amauroderma vào thập niên 20, phát hiện các
ergosterol và các enzyme phenoloxydase, peroxydase,…ở G.lucidum (dẫn theo tài liệu
Trung Quốc, 1976). Gần đây mới có lẻ tẻ các khảo cứu về tác dụng gây dò ứng và
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 13
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
bệnh đường hô hấp bởi bào tử một số loài Ganoderma ở Aukland (New Zealand)
(Hasnain. SM. Et al 1985) đặc biệt bởi các thành tố chiết từ G. applanatum, G.
lucidum và G. meredithiae ở New Orleans (Hoa Kỳ) (Horner, W. E. et al 1993).
Năm 1936, nấm Linh chi (Ganoderma lucidum) nuôi trồng đại trà thành công ở
Nhật Bản thì trào lưu nghiên cứu về hoá sinh học nấm càng trở nên mạnh mẽ. Sản
lượng nấm nuôi trồng chủ động trên thế giới ngày một nâng cao cung cấp đủ nguyên
liệu cho các nhà dược học đi dâu vào nghiên cứu thành phần hoá học của nấm Linh
chi.
Vào thập niên 70 – 80, bắt đầu một trào lưu khảo cứu hoá dược học các nấm
Linh chi (bảng 1.2). Chủ yếu ở trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt
Nam. Gần đây một số phòng thí nghiệm ở Hoa Kỳ và vùng Đông Nam Á cũng bắt
đầu tham gia vào tiến trình này.
Với các phương pháp cổ điển trước đây người ta đã phân tích các thành phần
hoá dược tổng quát của Linh chi, cho thấy:
Nước : 12 – 13%
(trong cao mềm của Việt Nam thì tới 22,32%)
Cellulose : 54 – 56%
Lignin : 13 – 14 %
Hợp chất nitơ : 1,6 – 2,1%
Chất béo (kể cả dạng xà phòng hoá) : 1,9 – 2%
(có thể có tới 0,4% trong cao)
Hợp chất Sterol toàn phần : 0,11 – 0,16%
Saponin toàn phần : 0,3 – 1,23%
Alcaloide và Glucoside tổng số : 1,82 – 3,06%
Từ những năm 1980 đến nay, người ta, bằng các phương pháp hiện đại: phổ kế
UV (tử ngoại), IR (hồng ngoại)…, phổ kế khối lượng – sắc ký khí (GC - MS), phổ kế
cộng hưởng từ hạt nhân (đánh dấu với H – 3 và C – 13) (NMR) và đặc biệt là kỹ
thuật sắc ký lỏng cao áp (HPLC) và phổ kế plasma (ICP), đã xác đònh chính xác gần
100 hoạt chất và dẫn xuất trong nấm Linh chi. Dẫn liệu từ MedLine cho thấy cũng có
đến gần con số 200 công trình nghiên cứu trong lónh vực này (từ 1983 – 1993 ). Có
thể khái quát trong (bảng 1.3) dưới đây:
Điều đáng lưu ý là các nhóm hoạt chất chính gặp khá phổ biến ở nhiều loài
Ganoderma Kast. Và cả các loài Amauroderma Murr như luận điểm về tính thống
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 14
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
nhất của họ Ganodermataceae Donk về phương diện hoá sinh học của (Lê Xuân
Thám, Đàm Nhuận, 1994).
Bảng 1.2: Một số loài Linh chi đã được phân chất
Tên loài Các nhóm hoạt chất
Steroide Triterpenoide Polysaccharide
Ganoderma applanatum + + +
G. boninese + + +
G.capense + + +
G. fomosanum + + +
G. japoincum + + +
G. lucidum + + +
Gsinense + + +
G. tenue + + +
G. tsugae + + +
Amauroderma rude + + +
A macer + + +
Điều đáng lưu ý nữa là các nhóm hoạt chất này cũng gặp khá nhiều phổ biến
trong các cấu trúc nấm. Trong thể nang bào tử (Sporosphores, Sporocarps) trong bào
tử đảm (Basidiospores) và trong hệ sợi (Mycelia) trong nấm tự nhiên hoang dại và
nuôi trồng chủ động.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 15
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Bảng 1.3: Thành phần hoạt chất cơ bản ở nấm Linh chi
Hoá chất Nhóm Hoạt chất dược tính
Cyclooctasulfur Nucleotide ƯcÙ chế giải phóng histamine
Adenosine dẫn xuất Proteine Ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn
cơ, giảm đau
Lingzhi – 8 Alcaloide Chống dò ứng phổ rộng. Điều hoà
miễn dòch
*** Steroide Trợ tim
Ganodosterone Steroide Giải độc gan
Lanosporeric acid A Steroide Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol
Lanosterol Steroide Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol
II, III, IV, V Steroide Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol
Ganoderans A, B, C Polysaccharide Hạ đường huyết
Beta – D Glucan Polysacc Chống ung thư, tăng tính miễn dòch
BN – 3B; 1, 2, 3, 4 Polysacc
D – 6 Polysacc Tăng tổng hợp protein, tăng chuyển
hoá acid nucleic
*** Polysacc Trợ tim
Ganoderic acids R, S Triterpenoide Ức chế giải phóng histamine
Ganoderic acids B, D, F, H, Y Triterpen Hạ huyết áp, ức chế ACE
Ganoderic acids Triterpen Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol
Ganodermadiol Triterpen Hạ huyết áp, ức chế ACE
Ganodermic acids Mf Triterpen Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol
Ganodermic acids T. O Triterpen Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol
Lucidone A Triterpen Bảo vệ gan
Lucidenol Triterpen Bảo vệ gan
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 16
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Ganosporelacton A Triterpen Chống khối u
Ganosporelacton B Triterpen Chống khối u
Oleic acid dẫn xuất Acid béo Ức chế giải phóng Histamine
Trong số các nhóm hoạt chất, nhóm có bản chất protein nổi bật với Lingzhi – 8
do các nhà khoa học Nhật Bản tìm ra (Kino .K et al 1989, 1991…), được chứng minh là
một tác nhân chống dò ứng phổ rộng và điều hoà miễn dòch hữu hiệu, đồng thời duy
trì tạo kháng thể chống các kháng nguyên viêm gan B.
Riêng nhóm nucleoside, nổi bật trong Ganoderma lucidum và G. capense có
các dẫn xuất của adenosine với tác dụng thư giãn cơ giảm đau và ức chế sự dính kết
tiểu cầu.
Nhóm alcaloide còn ít được khảo cứu, mặc dù với tác dụng trợ tim là rõ ràng.
Dẫn liệu về nấm Linh chi (G. lucidum) cho thấy hàm lượng alcaoide tổng số rất đáng
kể có vẻ mâu thuẫn với ý kiến của G. Paris (1948) cho rằng nấm Linh chi không có
alcaloide và không độc.
Nhóm Steroid khá phong phú ở nấm Linh chi với tác dụng chủ đạo ức chế sinh
tổng hợp Cholesterol. Đặc biệt từ bào tử đảm G. lucidum ngoài 2 lacton A, B còn có 5
hợp chất sterol đã được Chen – Ry và Yu 1991 xác đònh chính xác công thức phân tử:
3, 7, 11, 12, 15, 23 - hexaoxo - 5 alpha - lanosta - 8 - en - oic acid (I)
3beta, 7beta - trihydroxy - 11, 25, 23 trioxo - 5 alpha - lanosta 8 - en - 26 oic acid(II)
7beta – hydroxyl – 11, 15, 23 - pentaoxo - 5 alpha - lanosta - 8 - en - oic acid (III)
3,7, 11, 15, 23 – pentaoxo - 5 alpha - alpha - lanosta - 8 - en - oic acid (IV)
24, 25, 26 - trihydroxy - 5 alpha - lanosta – 7, 9 (11) - dien -3- one(V)
Trong đó hợp chất đầu (I) là một chất mới tìm thấy được đặt tên là
Ganosporeric A còn 4 chất sau lần đầu tiên thu nhận được từ bào tử G. lucidum.
Các hợp chất Lanostannoid có cấu trúc kiểu triterpen được phát hiện ngày một nhiều,
năm 1986, Arisawa, M, et al xác đònh cấu trúc 3 hợp chất mới.
− Ganodermenonol:
26 - hydroxyl - 5 alpha - lanosta –7,9,(11)24 - trien – 3 - one
− Ganodermadiol:
5 alpha - lanosta - 7,9,(11)24 - trien – 3 beta,26 diol
− Ganodermatriol:
5 alpha - lanosta - 7,9,(11)24 - trien – 3 beta, 26, 27 – triol
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 17
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Trong nhóm các Ganodermic acid, Wang, C.N., et al (1989) đã chứng minh
hiệu lực ức chế kết tụ tiểu cầu người và xác đònh cấu trúc phân tử của ganodermic
acid S.
lanosta - 7,9,(11)24 - trien – 3 beta, 15 alpha – diacetoxy – 26 – oic acid
Kết quả gắn đồng vò phóng xạ P- 32 chỉ ra rằng Ganodermic acid S hoạt hoá
sự thuỷ phân P1P2 (đó là phosphatidylinostol 4,5- bophosphate). Dưới kính hiển vi
điện tử quét, ở dưới ngưỡng kết tụ, tiểu cầu có dạng dóa với gai nhỏ, còn ở trên
ngưỡng, chúng dạng tròn hoặc bất thường có gai và các biến dạng của màng.
Nhóm ester với acid béo không no linoleic được ghi nhận vào 1991 có hoạt
tính chống ung thư với công trình của Lin, C.N. et al. Đó là 2 ergosterol mới:
− Steryl ester 1:
Ergosta – 7,22 - dien – 3 beta – yl - linoleate
− Steryl ester 2:
5 alpha, 8 alpha – epidioxyergosta – 6,22 dien – 3 beta- yl - linoleate
Đồng thời các tác giả còn tìm ra 1 lanostanoid và steroid mới cũng có tác dụng
ức chế các tế bào ung thư.
Nhóm Polysaccharide cũng rất phong phú ở các nấm Linh chi và phổ hoạt lực
mạnh.
He. Y. et al (1992) đã khảo cứu các BN3B – gồm 4 polysaccharide đồng nhất
có hoạt tính tăng miễn dòch. Trong đó arabinogalactan mang các liên kết glycoside.
Hikino. H. et al 1985 – 1989 chứng minh hoạt lực hạ đường huyết của nhiều
polysaccharide. Đó chính là các heteroglycan có cả hoạt tính chống ung thư. Đó là
ganoderan B có tác dụng làm tăng mức insuline huyết tương, làm giảm sinh tổng hợp
glycogen và hàm lượng glycogen trong gan; và đó là cơ sở điều trò liệu trên các bệnh
nhân đái đường.
Đặc biệt các phức hợp polysaccharide – protein có hoạt tính chống khối u và
tăng miễn dòch đã được chỉ ra từ lâu (Ukai, S. et al 1983). Byong kak Kim (1992,
1994) et al còn tiến hành lai hệ sợi bằng dung hợp Protoplast giữa nấm Linh chi
chuẩn G. lucidum với các loài khác: G. applanatum… thậm chí với cả nấm hương
Lentinus edodes, nhờ đó tăng cường hoạt tính chống khối u sarcom 180 của các phức
polysaccharide – protein lên đáng kể. Gần nay tác dụng tăng sinh tổng hợp IL -2
(Interleukine - 2) và hoạt tính AND polymerase ở chuột già tuổi bởi polysaccharide
đã soi sáng thêm khả năng trẻ hoá, tăng tuổi thọ bởi các nấm Linh chi (Lei. L.S và
Lin. Z.B 1993).
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 18
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Loạt nghiên cứu về polysaccharide không tan trong nước của các tác giả Nhật
Bản (Sone, Y. et al, 1985; Takashi, M.et al, 1993,...) chứng tỏ hiệu lực chống khối u
rất rõ, thậm chí làm tan khối u với tỷ lệ ¾ với các loài G.applanatum và G. lucidum.
Gần đây Lin Zhibin và Lei sheng (1994) đã xác đònh trọng lượng phân tử của
Polysaccharide từ G.lucidum cho kết quả: 7.100 – 9.300. Nhưng tổng kết xác đáng về
vai trò sinh – dược học của nhóm hoạt chất này đã được R. Chang (1994) giới thiệu
tại hội thảo Bắc Kinh với báo cáo thực nghiệm của tác giả Đài Loan, Trung Quốc và
Hoa Kỳ.
Mặc dù còn ít nghiên cứu, song các alcaloide ở Ganoderma capence (Lloyd)
Teng rất đáng lưu ý. Chúng là các pyrroles đặc biệt (Yang, J, J và Yu, DQ, 1990);
(Yu, J,G, et al 1990).
ganoine:
N - isopentyl - 5 hydroxymethyl - pyrryl aldehyde
gnaodine:
N - phenylethyl - 5 hydroxymethyl - pyrryl aldehyde
ganoderpurine:
N9 – (anpha, anpha diemethyl – gama - oxybutyl) adenine
Từ đó đã tổng hợp các alkaloid tương tự các mẫu tự nhiên có hiệu quả chống
viêm (1A và 1B):
1A: 1 - isopentyl 1- 2 - formyl 5 - hydroxymethylpyrrole
1B: 1 - phenylethyl 1 - 2 – formyl - 5 hydroxymethylpyrrole
Tác dụng bảo vệ gan, chống tác hại của CCl, được chứng minh rõ ràng với
các chế phẩm chiết từ các loài linh chi.
Có lẽ đa dạng nhất và tác dụng dược lý mạnh nhất là nhóm sapoine –
triterpenoids – các acid ganoderic. Lần đầu tiên Nishtoba et al (1984 - 1987) chứng
minh các ganoderic acid C là mới trong tự nhiên, sau đó Morigiwa et al. 1986, tìm ra
thêm ganoderic acid B. Chúng thể hiện hoạt lực ức chế giải phóng histamine, ức chế
Angiotensine Conversion enzyme (ACE), ức chế sinh tổng hợp Cholesterol và hạ
huyết áp. Ngày nay nhóm ganoderic acids đã được phát hiện có tới hàng chục dẫn
xuất khác nhau. Kết quả tách trên sắc ký lỏng cao áp (HPLC) loài Linh chi G.tsugae
Murrill rất đặc sắc.
Rõ ràng có sự tương đồng lớn với G. lucidum. Ngoài lucideric acid (lucidone)
do Kohda et al (1985) tìm ra, còn có dẫn xuất lucidenol được Su. C. H et al (1993)
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 19
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
chứng minh là mới hoàn toàn. Cấu trúc phân tử của 4 hoạt chất chính được các kỹ
thuật quang phổ và cộng hưởng từ hạt nhân xác đònh (Su et al, 1993).
Các hợp chất này đều có tác dụng bảo vệ gan, thực nghiệm đặc sắc thu được
với việc gây tăng GOT và GOP bằng CCL4 (tetrachlorurcarbon). Điều lý thú là từng
triterpenoid tinh khiết riêng rẽ thể hiện hoạt lực thấp hơn khi dùng các phân đoạn
tách chưa tinh chế, nghóa là tổ hợp các đồng phân của chúng hiệu quả hơn. Do vậy dễ
hiểu người ta thường dùng tách dòch chiết toàn bộ từ nấm Linh chi.
1.1.5. Tác dụng của nấm Linh chi:
Linh chi được dùng như một thượng dược từ khoảng 4000 năm nay ở Trung
Quốc. Chưa thấy có tư liệu về tác dụng xấu, độc tính của Linh chi (ngoại trừ các khảo
cứu về khả năng tồn tại các dò ứng nguyên trên bề mặt bào tử một số loài Ganoderma
– điều rất phổ biến trong nấm).
Linh chi là “Cây gậy chống trước khi ngã”
Linh chi là một loại nấm đặc biệt, Linh chi có tính bình, vò đắng, có tác dụng
tăng co bóp cơ tim, tăng tuần hoàn, trò chứng tắc nghẽn, khó chòu, tăng trí lực, kéo dài
tuổi thọ.
Bảng 1.4: Tác dụng dược lí của nấm Linh chi theo sắc màu (Lý Thời Trân,
1590).
Tên Màu Tác dụng dược lí
Thanh chi: Còn có tên
là Long chi:
Xanh Vò chua, Toàn bình, không độc. Chủ trò sáng
mắt, bổ can khí, an thần, tăng trí nhớ.
Hồng chi còn có tên là
Xích chi hay Đơn chi:
Đỏ Vò đắng, tính bình, không độc. Chủ trò xung trung
kết (tức ngực) ích tâm khí, bổ trung, tăng trí nhớ,
tăng trí tuệ.
Hoàng chi còn có tên là
Kim chi:
Vàng Cam (ngọt) bình, không độc. Chủ trò ích trùng
khí, an thần.
Bạch chi còn có tên là
Ngọc chi:
Trắn
g
Cay, bình, không độc. Chủ trò ích phế khí, làm
thông miệng, mũi, an thần.
Hắc chi còn có tên gọi
là Huyền chi:
Đen Mặn, bình, không độc. Chủ trò ù tai, lợi khớp,
bảo thần (bảo vệ công năng của hệ thần kinh)
ích tinh khí, làm dai gân cốt.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 20
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Tử chi còn có tên gọi là
Mộc chi:
Tím Ngọt, ôn, không độc. Chủ trò lợi thủy đạo (lợi
tiểu), ích thận khí.
Trên thực tế, có thể coi Linh chi không có độc tính. Quá trình kiểm tra đã được
thực hiện ở Việt Nam, tại một số cơ sở theo GS. Bùi Chí Hiếu. 1993.
Tất cả các nhà y học cổ xưa của Trung Quốc đều dùng Linh chi như một
thượng dược, với ý nghóa không độc, không tác dụng phụ dù dùng liều cao và trong
một thời gian dài. Tại Trung Quốc, Linh chi được xem là một loại thuốc trò bách bệnh
trong dân gian, trò tất cả các loại bệnh.
Trung Quốc là nước có tryền thống sử dụng nấm Linh chi lâu đời nhất. Từ thế
kỷ XVI, Lý Thời Trân đã sử dụng và theo màu sắc cũng có tác dụng trò liệu tương
ứng như (Bảng 1.4):
Phân viện kiểm nghiệm Dược phẩm – Bộ y tế – Si Gòn.
Trung tâm Đào tạo và nghiên cứu y dược học Dân tộc.
Viện Dược liệu, Hà Nội (Đàm Nhận, 1994 - 1995).
Kết quả cho thấy dùng liều cao gấp 50 - 150 lần liều dùng thông thường cho
người cũng không gây ra độc cấp tính hay trường diễn. Kết quả (bảng1.5) tổng hợp
của Gueng – Tao Lui rất đáng lưu ý với hiệu quả trò liệu cao.
Bảng 1.5: Thử nghiệm chiết bằng cồn – nước rửa của các lồi Ganoderma
(theo Geng – Tao Lui, 1993).
Bệnh Chế phẩm Số ca Mức hiệu quả
%
Tháng
điều trò
Xơ cứng bì MAW 173 79,1 % 3 – 6
Viêm da cơ MAW 55 96,4 % 3 – 6
Hồng ban Lupus MAW 84 82,1 % 3
Ruing tóc từng phần MAW 232 78,9% 1 – 3
Giảm trương lực teo cơ MAW.SAW 35 74,3 % 3 – 6
Loạn dưỡng cơ tiến triển MAW.SAW 121 56,2 % 3 – 6
Công hiệu của Linh chi ghi trong “Thần nông bản thảo kinh” hiện nay hoàn
toàn được chứng minh đồng thời còn phát hiện các hoạt tính dược lý và trò liệu đa
phương của Linh chi. Lý do là Linh chi có khả năng nâng cao sức đề kháng của cơ
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 21
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
thể, chính vì vậy mà phòng trừ được các chứng bệnh sinh ra do sức đề kháng của cơ
thể yếu.
Linh chi có công dụng nâng cao thể chất, nâng cao khả năng thích ứng của cơ
thể, điều chỉnh cân bằng sinh lý, nâng cao khả năng kháng bệnh, khả năng phục hồi
sức khỏe. Linh cho có công hiệu phòng trò tốt đối với nhiều loại bệnh, từ ung bướu
đến cao huyết áp, mỡ trong máu cao, ứ máu, tắc mạch máu, bệnh mạch vành, chảy
máu não, nhồi máu cơ tim; từ bệnh tró đến viêm tuyến tiền liệt; từ bệnh suy nhược
thần kinh đến bệnh hen suyễn đều có thể dùng Linh chi để phòng ngừa và điều trò
bệnh. Ngoài ra Linh chi còn có tác dụng làm trì hoãn quá trình lão hóa của cơ thể,
nâng cao khả năng kháng bệnh.
Linh chi chứa khá đầy đủ thành phần khoáng vi lượng mà các khoáng tố này là
nhân tố quan trọng trong rất nhiều phản ứng chống ung thư, dò ứng, chống lão hoá, xơ
vữa, chống kết dính tiểu cầu…điều chỉnh dẫn truyền luồng thần kinh. Do đó Linh chi
được xem như biện pháp phòng trò cơ bản.
Theo BS Lương Lễ Hoàng (Cộng hoà liên bang Đức) thì “… Linh chi có tác
dụng gián tiếp theo cơ chế đòn bẩy, thanh lọc cơ thể toàn diện qua chức năng lợi tiểu
và lợi mật, một mặt kích thích nhiều chuỗi phản ứng sinh hoá trong cơ thể để từ đó
điều chỉnh các rối loạn chức năng, làm lành ác tổn thương cơ quan, phục hồi hệ miễn
nhiễm. Một khi hội đủ ba điều kiện trên thì cơ thể khó bệnh, con người khó già trước
tuổi. Nếu biết cách áp dụng Linh chi sẽ là một trong các phương tiện hữu hiệu và an
toàn để tăng cường sức đề kháng cơ thể trong cuộc sống đầy căng thẳng và ô nhiễm
môi trường của thế kỷ 21…”
Linh chi đóng một vai trò quan trọng trong y học cổ truyền Trung Quốc dù
dùng độc vò hay phối hợp với các thảo dược khác.
Đối với bệnh ung bướu:
Theo “Linh chi phòng trò bệnh” thì “Linh chi có tác dụng nâng cao khả năng
miễn dòch cơ thể. Linh chi còn giúp cải thiện thể chất của bệnh nhân ung bướu, giảm
nhẹ triệu chứng”. Đa số bệnh nhân ung bướu sau khi uống Linh chi hoặc bào tử Linh
chi triệu chứng giảm thấy rõ, ăn uống và giấc ngủ được cải thiện, các triệu chứng như
sốt nhẹ, ho, tức ngực, đại tiện lỏng đều chuyển biến tốt, khối u bò ức chế, chức năng
miễn dòch được phục hồi. Tinh thần và thể lực được cải thiện, tuổi thọ kéo dài, một số
trường hợp ung bướu được trò lành. Dùng Linh chi phối hợp với hoá trò, xạ trò, nâng
cao hiệu quả của hoá trò và xạ trò.
Đối với bệnh tim mạch:
Trước đây người ta cho rằng không thể điều trò để giảm xơ vữa. Nhưng gần
đây, đã có công trình chứng minh được, nếu điều trò tốt sẽ làm giảm kích thước mảng
xơ vữa, giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, giảm đột tử.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 22
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Linh chi có công dụng hạ huyết áp, hạ mỡ trong máu. Linh chi có tác dụng làm
giảm độ tạo huyết khối của máu và phòng ngừa tắc mạch máu, chủ yếu là nhờ:
− Linh chi có thể làm tăng lượng lipoprotein mật độ cao trong máu, từ đó dần
dần chuyển hoá, hoà tan và đào thải cholesterol mật độ thấp.
− Linh chi có thể nâng cao khả năng hoà tan của máu, làm tan các khối tiểu cầu
trong máu nhằm ngăn ngừa tạo huyết khối và tắc mạch máu.
Linh chi làm giảm nồng độ mỡ trong máu, kể cả loại cholesterol xấu. Các thử
nghiệm dược lý ở Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy khi bổ sung Linh chi vào khẩu
phần ăn của chuột bò cao huyết áp sẽ làm giảm huyết áp rõ rệt hơn là chuột không bổ
sung Linh chi. Khi thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân cho thấy huyết áp trên bệnh
nhân điều trò tiến gần đến tiêu chuẩn của WHO cho người cao huyết áp bình thường.
Ngoài ra còn có sự giảm tổng số cholesterol, và có ý nghóa ở chổ cholesterol tốt
không giảm trong khi các cholesterol xấu giảm đi.
Ngày nay nhiều loại thuốc điều trò bệnh tim mạch chỉ có tác dụng làm giảm
thiểu bệnh tình một phần nào chứ không thể điều trò triệt để tận gốc. Khi dùng Linh
chi phối hợp để điều trò, có tác dụng làm bệnh thuyên giảm đồng thời hiệu quả lại ổn
đònh, là loại thảo dược lý tưởng dùng để hỗ trợ điều trò bệnh tim mạch hiện nay.
Đối với bệnh viêm gan:
Bệnh gan là một bệnh khó trò, khi bệnh gan tiến triển thì quá trình tổng hợp,
trao đỗi chất trở nên xấu đi; cơ thể người bệnh trở nên suy yếu, đó là lý do làm cái
chết đến nhanh hơn.
Tỉ lệ người Việt Nam bò nhiễm virus viêm gan B (HBV) hiện nay là 18 - 24%.
Việt Nam được xếp vào những nước có tỉ lệ nhiễm HBV cao trên thế giới. Tuy nhiên
khi nhiễm virus viêm gan B, không phải ai cũng trở thành người bệnh. Ung thư gan
thường là sau khi bò xơ gan do rượu (thường gặp ở Châu Âu) và xơ gan do HBV hoặc
HCV.
Linh chi được xem là có hiệu quả đối với gan chủ yếu là do có chứa
polysaccharide và các triterpen. Germanium có trong Linh chi tác dụng đến chất
endorphin là chất do cơ thể tiết ra, giống như morphin, làm giảm đau, dễ chòu nhưng
endorphin rất dễ bò phân giải, chính germanium ngăn chặn sự phân giải endorphin,
kéo dài cảm giác dễ chòu, giảm đau. Ngoài ra Linh chi còn kích thích tiết Interferon,
nâng cao khả năng miễn dòch của cơ thể, có tác dụng chống virus rất mạnh và tác
dụng trực tiếp đến tế bào gan bò tổn hại, ngăn chặn sự phát triển của bệnh gan.
Linh chi có tác dụng:
− Tiêu viêm, làm viêm gan thuyên giảm.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 23
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
− Chất triterpen có trong Linh chi làm phục hồi các hoạt động của tế bào gan.
Ngoài ra, Linh chi có tác dụng nâng cao khả năng miễn dòch cơ thể, nâng cao
khả năng phân biệt, sát thương và nuốt chửng virus viêm gan của tế bào miễn dòch (tế
bào NK, tế bào T, tế bào B…) nâng cao khả năng tái sinh của tế bào gan, xúc tiến
phục hồi tổ chức gan bò tổn thương, phục hồi và nâng cao chức năng gan. Do vậy Linh
chi điều trò các bệnh viêm gan rất tốt, nhất là viêm gan cấp.
Chống HIV:
Các chất chiết tan trong nước của Linh chi có tác dụng chống HIV (Hattori et
al, 1997 Kim eet al, 1997). Gần nay Mekkawy (1998), Min et al (1998) cho biết
ganoderiol F và ganodermanontriol, acid ganoderic beta, ganodermanondiol,
ganoderma nontriol và acid ganolucidic A và gucidumol B cũng có tác dụng chống
HIV. Đặc biệt, có hai báo cáo của Đại học Chulalongkorn, Thái Lan và một báo cáo
của Đại học Y dược Toyama, Nhật về thử nghiệm trên virus HIV. Theo Tiến só
Praphan Panuphak, nấm Linh chi đã được micron hoá (micronized) thử nghiệm trên
những bệnh nhân nhiễm HIV ở Thái Lan cho thấy thuốc được dung nạp tốt nhưng tác
dụng lâm sàng chưa rõ rệt.
Điều này gợi mở cho các nhà nghiên cứu Linh chi trên thế giới một hướng mới
trong việc khảo sát loại nấm được xem là trường thọ này, ngoài những tác dụng đã
biết và làm chúng ta nhớ lại một thông tin đăng trên Sunday Morning Post 18 – 10 –
1992: Cơ quan FDA của Hoa Kỳ cho phép được sử dụng Linh chi (một trong 7 loại
được phép) trong khi chờ những thuốc công hiệu hơn để ngăn ngừa và điều trò AIDS,
mà Linh chi đã được chứng minh có ảnh hưởng phục hồi hệ miễn dòch của cơ thể. Dr.
Anderew Weil cho biết: “Linh chi kích thích hệ thống miễn dòch tốt nhất, Linh chi
không độc và rất hữu dụng trong lónh vực này”. Ông sử dụng nó trong ba năm cho các
trường hợp ung thư, các trường hợp nhiễm HIV, các điều kiện tiền HIV và cho việc
suy giảm hệ miễn dòch một cách tổng quát. Và gần đây là hữu ích trong các trường
hợp của triệu chứng mệt mỏi mạn tính.
Hiệu quả của Linh chi đối với mệt mỏi mạn tính:
Linh chi phục hồi, làm giảm mỏi mệt, phòng ngừa bệnh Linh chi từ xưa đến
nay được trân trọng như thuốc chữa vạn bệnh nhưng ngay cả những người không
bệnh, Linh chi cũng hữu dụng.
Người ta cho rằng việc tích tụ mệt mỏi do căng thẳng giữa mối quan hệ con
người với nhau, do công việc, do môi trường làm phá vỡ sự thăng bằng của tâm hồn
và cơ thể là nguyên nhân. Muốn điều trò, trước hết phải xem lại nhòp độ sinh hoạt của
bản thân và sữa chữa lại, đồng thời việc sử dụng Linh chi cũng góp phần làm cân
bằng nhòp sinh học của cơ thể.
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 24
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Thạc Só Nguyễn Thò Sáu
Linh chi cũng có công dụng dưỡng nhan sắc. Một số vật chất tiểu phân tử loại
oligosaccharide có trong Linh chi có thể được cơ thể hấp thụ thông qua biểu bì, có
công dụng cải thiện tuần hoàn ngoại vi ở da, trừ khử gốc tự do, tiêu trừ sắc tố nâu tích
tụ ở da, từ đó đem lại hiệu quả làm nhuận da, dưỡng nhan sắc. Ngày nay có nhiều
hãng làm mỹ phẩm từ Linh chi.
Hiệu quả giảm đường huyết:
Bệnh tiểu đường phát sinh là do tuyến t bò tổn thương hoặc viêm, hoặc do
tuổi già, cơ thể suy nhược, chức năng sinh lý của tuyến t suy yếu, lượng insulin tiết
ra giảm nên gây bệnh. Insulin có các chức năng: Thúc đẩy tiến trình oxy hoá glucose
trong tế bào để cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động. Kích thích tổng hợp
glucose thành glycogen dự trữ trong gan. Ức chế glycogen trong gan phân giải thành
glucose. Ức chế protein, chất béo phân giải thành glucose. Nếu Isulin bò giảm, lượng
đường huyết trong máu tăng và bò thải ra ngoài theo đường nước tiểu, làm tiểu nhiều.
Từ đó dẫn đến phải uống nhiều nước để bù vào lượng nước đã mất, nhưng vẫn không
hết khát. Luôn luôn cảm thấy đói, ăn nhiều nhưng do glucose cung cấp cơ thể không
giữ được, lại tiếp tục cảm thấy đói, phải ăn nhưng cơ thể vẫn thấy gầy ốm vì không
hấp thu được glucose, lượng protein và mỡ dự trữ bò huy động để tạo năng lượng.
Linh chi có hiệu quả trò liệu nhất đònh đối với bệnh tiểu đường. Linh chi có thể
làm tăng tuần hoàn máu ở tuyến t tăng lượng isulin tiết ra từ t. Vài triteerpen như
ganoderan A, B, C chiết xuất từ Linh chi làm giảm đường huyết mạnh (Hikino et
al,1985) tác dụng phụ của những thuốc trò bệnh tiểu đường khi phối hợp với Linh chi
được giảm đến mức thấp nhất. Bệnh nhân tiểu đường sau khi uống Linh chi, đường
niệu, đường huyết đều giảm, thể lực gia tăng.
Linh chi trò suy nhược thần kinh:
Linh chi trò suy nhược thần kinh hiệu quả rất rõ rệt, vừa cải thiện giấc ngủ,
tăng sự thèm ăn, làm giảm hoặc khỏi chứng nhức đầu, nặng đầu, chống mệt mỏi, giúp
phục hồi trí nhớ đồng thời không gây ra phản ứng phụ. Linh chi có tác dụng an thần,
giảm đau và chống co thắt cơ trơn. Linh chi có tác dụng kháng viêm, có thể giảm
viêm mô thần kinh nên cũng có khả năng phục hồi trí nhớ, phần nào có ích trong điều
trò bệnh Alzheimer. Sự kiện này giải thích việc người xưa dùng Linh chi để phục hồi
trí nhớ ở người cao tuổi.
1.2. Giới thiệu về nguyên liệu mạt cưa và vi sinh vật phân giải nguyên liệu
Nguyên liệu trồng nấm Linh Chi bao gồm các loại cây lá rộng thân mềm, có
thể sử dụng cây rừng hoặc cây vườn. Linh Chi sử dụng nguyên liệu chủ yếu là mạt
cưa cao su tươi, khô, không có tinh dầu và độc tố. Ngoài ra còn có thể trồng Linh Chi
từ nguyên liệu là thân gỗ. Tốt nhất nên sử dụng cây gỗ Cao Su, Bồ Đề, So Đũa,
Sung, …
SVTH: Ngô Thò Thanh Vân
Trang 25