Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Các nhà máy sản xuất hàng thủ công nghiệp và các vấn đề về vốn do sự quản lý trực tiếp của nhà nước pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.83 KB, 86 trang )

Mở đầu
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà trong đó doanh
nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện giao vốn cho
doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao.
Việc Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu phải quản lý số vốn
đó. Đồng thời, việc thay đổi phương thức quản lý hiện vật sang phương thức quản lý
bằng giá trị là chủ yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước trong công
tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song thực tế cho thấy, công tác quản lý đối
với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước còn có những bất cập trong chế độ
chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy quản lý và trong tổ chức thực hiện. Điều đó
khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp đang bị ăn mòn và việc thực hiện vai trò chủ
đạo của thành phần kinh tế nhà nước bị hạn chế. Do vậy, việc hoàn thiện công tác quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay. Trong
điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước càng cần được thực hiện tốt hơn.
Trong thời gian thực tập tại Nhà máy len Hà Đông, em đã nghiên cứu tìm hiểu về
công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy và thấy rằng bên cạnh những thành tựu Nhà
máy gặt hái được trong những năm gần đây còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác
quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy (cả khi giao vốn và trong quá trình sử
dụng vốn). Do đó, để thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao, công
tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy cần sớm được hoàn thiện.
Em chọn đề tài: “Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
(Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)”
với mục đích qua nghiên cứu phát hiện những hạn chế trong công tác quản lý đối với
phần vốn tại Nhà máy len Hà Đông, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó, từ đó
đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len
Hà Đông.
Nội dung đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy
len Hà Đông


Chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại
Nhà máy len Hà Đông













Nội dung
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước. Có
người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm vụ sự nghiệp
(cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục ). Khi giảng về doanh nghiệp nhà nước, giáo sư
Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp
nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm đem bán hay không
đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá nhân? Từ đó, ông quan niệm
rằng: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước,
được phân làm hai loại: Loại một là các xí nghiệp, tổ chức sản xuất những sản phẩm
không dùng để bán, nó làm việc vì lợi ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính;
Loại hai là các xí nghiệp công cộng, loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ
nhất là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung,

sản phẩm của nó thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt
động trong môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.
ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày
20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư vốn
và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân,
có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong
phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu
riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh nghiệp
khác như:
Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản xuất-cung
ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của doanh
nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự atồn tại của doanh nghiệp nhà nước
trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi
doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về quản lý, về nghĩa vụ tài chính trong
việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách
là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp nhà nước có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh
nghiệp nhà nước địa vị pháp lý để đảm bảo độc lập tự chủ.
Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự chi
phối và tác động của môi trường kinh tế.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình doanh
nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây:
Một là, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết
định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Như vậy
doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh
(nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn để thực hiện các hoạt động công ích
(nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh nghiệp khác không phải do

nhà nước thành lập mà chỉ được nhà nước cho phép thành lập trên cơ sở đơn xin thành
lập của các chủ thể kinh doanh.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà nước tổ chức bộ
máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng; nhà nước bổ
nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp
Ba là, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước. Doanh
nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó thuộc sở hữu nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở hữu đối với tài
sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên số tài sản của nhà
nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở hữu với tài sản kinh
doanh của họ.
Có thể phân loại doanh nghiệp nhà nước thành hai loại căn cứ vào chức năng hoạt
động của doanh nghiệp là: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh (hoạt động chủ
yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận) và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích (hoạt động
sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh )
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ kinh tế
đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý. Doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu vực kinh tế quốc doanh
(doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch hoá mà còn tồn tại dưới nhiều
hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức doanh nghiệp khác nhau như: Doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh
Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng, nó là bộ phận nòng cốt của
thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau:
Thứ nhất, chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng này thể
hiện ở chỗ doanh nghiệp nhà nước phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến lược theo
đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham
gia; doanh nghiệp nhà nước phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về hiệu quả kinh doanh

để các doanh nghiệp khác noi theo;
Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và
các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước không phải
đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều kiện cho sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, doanh nghiệp nhà nước được bố trí xây dựng ở
những khu vực ngành nghề cần thiết tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển đồng đều
giữa các vùng của đất nước;
Thứ ba, chức năng đảm bảo sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn
nền kinh tế thị trường. Chức năng này được hiểu là các doanh nghiệp nhà nước phải có
đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng việc kinh doanh có hiệu quả; doanh
nghiệp nhà nước phải bảo đảm vai trò quyết định này để Chính phủ có đủ nguồn lực chỉ
đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đề ra.
1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1.2.1. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước

Vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn được cấp từ ngân
sách, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ.
Từ khái niệm trên có thể thấy vốn nhà nước được cấu thành bởi ba bộ phận:
Một là, vốn được cấp từ ngân sách, là vốn doanh nghiệp nhà nước được cấp phát lần
đầu khi mới hoạt động (xác định từ thời điểm giao nhận vốn), vốn được cấp bổ sung
trong quá trình hoạt động; vốn được tiếp quản từ chế độ cũ để lại.
Hai là, vốn có nguồn gốc ngân sách, là các khoản vốn tăng thêm do được miễn, giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chênh lệch giá tài sản cố định, vật tư, hàng
hoá tồn kho qua các lần kiểm kê, điều chỉnh giá; các nguồn vốn viện trợ: viện trợ nhân
dân, viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, quà tặng theo qui định phải ghi tăng
vốn ngân sách cấp;
Ba là, vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ, chính là phần thu nhập sau thuế
doanh nghiệp nhà nước giữ lại để tái đầu tư.
Hình thức thực hiện đầu tư của Chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước cụ thể như

sau:
Một là, giá trị quyền sử dụng đất, Chính phủ giao đất cho doanh nghiệp nhà nước hay
cho doanh nghiệp thuê đất, thực hiện những chính sách ưu đãi về đất đai đối với doanh
nghiệp nhà nước;
Hai là, cấp vốn điều lệ và bổ sung vốn:
- Vốn điều lệ để san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị đưa
vào sản xuất;
- Vốn bổ sung được cấp trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước được giao thêm nhiệm
vụ;
Ba là, không thu khấu hao, miễn giảm thuế hay cấp tín dụng nhà nước ưu đãi
Những khoản đó được doanh nghiệp nhà nước sử dụng để tái đầu tư, thay thế đổi mới tài
sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định của Chính phủ.
1.1.2.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước phải quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước vì:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà nước giao cho
một số cá nhân, đơn vị sử dụng. Như vậy có sự tách biệt giữa người sở hữu vốn và người
sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có mục tiêu không phù hợp nhau. Các doanh
nghiệp nhà nước không phải đương đầu với nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh mua lại như
các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Do đó người sử dụng vốn có thể sử dụng vào
những động cơ cá nhân, những động cơ có thể làm cho những nhà lãnh đạo các doanh
nghiệp nhà nước hành động không nhất quán với các mục tiêu của doanh nghiệp. Khi
những người này không nắm quyền sở hữu vốn của doanh nghiệp và cũng không thể
tăng thêm sự giàu có cho bản thân bằng cách tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
thì chẳng có gì kích thích họ phải nhìn xa khi quyết định phương án sản xuất kinh doanh.
Vì thế đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản
của nhà nước không bị xâm phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp
hoạt động theo đúng mục tiêu nhà nước đề ra.
Thứ hai, nhà nước quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cũng là thực
hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các chế độ tài chính đối với
doanh nghiệp nhà nước, theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các chế độ đó. Việc theo

dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước giúp cơ quan quản lý
nắm bắt được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp, theo dõi tiến trình thực hiện các văn
bản. Từ đó thu thập thông tin để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các chính sách cho kịp
thời, phù hợp với thực tế. Đồng thời thông qua công tác quản lý vốn, nhà nước mới có
những thông tin chính xác để đánh giá đúng chất lượng kinh doanh ở các doanh nghiệp
nhà nước. Trên cơ sở các thông tin đánh giá này, nhà nước có kế hoạch sắp xếp, bố trí lại
các doanh nghiệp, vốn và lao động, hoàn thiện các khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh
doanh và thực hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, phần lợi nhuận sau
thuế thuộc về nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy trì và tái sản xuất mở
rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của nhà nước. Do đó, để lợi nhuận
sau thuế được tối đa hoá, nhà nước phải quản lý phần vốn đầu tư của mình để nó được sử
dụng một cách có hiệu quả, trên cở sở đó tăng lợi ích nhà nước.
Tóm lại, việc nhà nước quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là một đòi
hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo toàn vốn và tài sản cũng
như để thực hiện vai trò quản lý của mình.
1.2. Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần
thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện quản lý vốn được giao và
giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình.
Hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung công tác này là việc xây dựng hệ thống văn bản
pháp luật về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khác với cách thức quản lý doanh
nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết,
Nhà nước quản lý doanh nghiệp một cách gián tiếp theo nguyên tắc: Nhà nước điều
chỉnh thị trường, thị trường điều chỉnh doanh nghiệp. Nhà nước ban hành chính sách
nhằm định hướng sự phát triển theo mục tiêu của Nhà nước và giúp doanh nghiệp tự chủ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nhà nước tạo hành lang pháp lý thông thoáng, bình
đẳng và môi trường kinh doanh vừa thuận lợi, vừa đòi hỏi hiệu quả kinh tế cao để các
doanh nghiệp hoạt động. Chính sách quản lý vốn được ban hành hướng vào việc khai

thác, động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm
khuyến khích phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phát triển
kinh tế xã hội của đất nước và nâng cao hiệu quả của nền tài chính quốc gia.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan
trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ thống các chính
sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn đúng đắn sẽ kích thích sự chuyển dịch
các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng duy động mọi nguồn vốn vào
đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó
tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh, tăng nguồn thu vào ngân sách nhà
nước. Nguồn thu vào ngân sách nhà nước càng nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài
chính để tăng quy mô đầu tư vốn, phát triển các quỹ tài trợ cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp; kế đó, quy mô đầu tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh nghiệp càng
lớn thì nó sẽ kích thích mạnh mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và qua đó Chính phủ
còn thực hiện được yêu cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế theo định hướng đã đề ra.
Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý vốn và tài sản theo hướng:
Một là, tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp nhà nước
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý vốn và
tài sản;
Hai là, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng các
nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để hướng sự quan tâm và tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn như: cơ chế trích lập dự
phòng, cơ chế bù lỗ
Ba là, quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi thực hiện các nhiệm vụ nhà
nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho người lao động trong các doanh
nghiệp nhà nước này Đồng thời thiết lập cơ chế quản lý hợp lý đối với doanh nghiệp
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao trùm các nội
dung quản lý sau:
a, Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước:

Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư bổ sung
trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình thành do kết quả quốc hữu
hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình thành trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ban
đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế mà nhà nước quyết định cấp
dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà nước) hay gián tiếp (qua các hình
thức ghi thu-ghi chi như: chuyển vốn từ doanh nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp
nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu
tư ). Đối với vốn lưu động, nhà nước có thể cấp theo định mức một phần, phần còn lại
doanh nghiệp phải huy động trên thị trường vốn và chịu lãi suất thị trường. Đồng thời,
tuỳ thuộc vào khả năng của ngân sách nhà nước của mỗi nước mà chính sách đầu tư vốn
cho doanh nghiệp nhà nước ở các nước là khác nhau. ở Pháp, những doanh nghiệp nhà
nước hoạt động theo yêu cầu của nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do nhà
nước quản lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với doanh nghiệp
khác thì nhà nước không cấp vốn. ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp tăng nhưng
mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. ở Malaysia, nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà
nước được hình thành như sau: Vốn cố định ban đầu được nhà nước cấp 100% và hàng
năm, doanh nghiệp phải trả lã (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của nhà
nước; vốn lưu động thì các công ty phải vay theo lãi suất thị trường. Còn ở nước ta, việc
quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước được hướng dẫn cụ thể
trong Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999, Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh
nghiệp nhà nước mới thành lập ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ quan
có thẩm quyền khi quyết định thành lập doanh nghiệp mới phải đảm bảo đủ vốn thực có
tại thời điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định nhà nước quy định cho mỗi
ngành nghề. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất dinh doanh,
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội mà nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng của
ngân sách nhà nước, nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho các doanh nghiệp trong
những trường hợp cần thiết. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao vốn thuộc sở
hữu nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy
định hiện hành của nhà nước.
Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như sau:

+ Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn nhà nước ghi trong quyết toán vốn
đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh, vốn điều lệ được nhà nước
bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu nhà nước (nếu có).
+ Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập, chia tách) là
số vốn sở hữu hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp thành viên, sau khi đã
được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.
Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động một cách tự chủ và linh
động trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế nhà nước thường chỉ được phép huy
động vốn dưới một số hình thức nhất định, các kênh huy động vốn đó là:
Thứ nhất, huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi có nhu cầu về
vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh nghiệp mình. Đây là nguồn
vốn đặc biệt , chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền được yêu cầu và đây
cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là việc góp tiền
hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp
có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác để huy động vốn.
Thứ ba, huy động vốn bằng cách đi vay: Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu vốn
của mình bằng cách đi vay những khoản tín dụng dài hạn, ngắn hạn, hoặc trung hạn từ
các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp khác, các cá
nhân (kể cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp), được phát hành trái phiếu
huy động vốn để đầu tư phát triển.

Thứ tư, huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường mới để bán cho
công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã hội.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ chính các
quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ này.
b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
• Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất kinh
doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả

hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng vốn và tài
sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc tổ chức sản xuất kinh
doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản là bảo toàn và
phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự
biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh
thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao
quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có
hiệu quả.
Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi chính xác toàn bộ tài
sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành; phản ánh
trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc có hiệu
qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy khác với mục
đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải theo nguyên tắc hoàn trả,
như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy phúc lợi để kinh doanh thì phải
hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp được quyền thay đổi cơ cấu tài
sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển
vốn
Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản
của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với các trường
hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản.
Định kỳ và khi kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê toàn bộ
tài sản và vốn hiện có. Xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ đọng, mất
phẩm chất, nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ lập báo cáo tài
chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu trong và
ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy) doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân
tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản
nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân,

trách nhiệm và biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được quyền cho thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử
dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu
hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, doanh nghiệp vẫn
phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được đem tài sản thuộc quyền
quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo l•nh tại các tổ chức
tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Doanh nghiệp không đợc
đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố,
nhận thế chấp của doanh nghiệp khác nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài
sản đó.
Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để
thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh lệch giữa số tiền
thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí
nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp.
Mọi tổn thất tài sản của doanh nghiệp phải lập biên bản xác định mức độ, nguyên
nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được đánh giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản chênh lệch
do đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại tài sản theo quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa hình
thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản để liên doanh, góp vốn cổ
phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản về).
• Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp:
Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo nguyên
tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo nhiệm vụ thu nộp
Ngân sách nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật
Các hình thức đầu tư ra ngoài doanh nghiệp gồm: mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh, góp
cổ phần và các hình thức đầu tư khác
Doanh nghiệp Nhà nước được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
theo quy định của pháp luật.
• Bảo toàn và phát triển vốn:


Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của
Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm
nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn thường được áp dụng là:
Thứ nhất, thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định của
Nhà nước;
Thứ hai, thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của
doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh;
Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt
động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho,
dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt
động tài chính
Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành.
Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau
thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh )
vào chi phí hoặc kết qủa kinh doanh theo qui định của Nhà nước.
1.2.2. Phân cấp trong quản lý
Để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, mỗi nước đều tổ chức cho mình
một bộ máy quản lý khác nhau với cách thức quản lý khác nhau. Bộ máy này bao gồm
bản thân doanh nghiệp nhà nước (với tư cách là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn nhà
nước giao) và các cơ quan quản lý cấp trên (giám sát việc thực hiện quản lý, sử dụng vốn
nhà nước của doanh nghiệp nhà nước và ra các quyết định quản lý). Mỗi cấp quản lý
được phân rõ chức năng nhiệm vụ trong việc thực hiện hoạt động quản lý vốn nhà nước
tại doanh nghiệp nhà nước.
ở Pháp và Malaysia, nhà nước trực tiếp cử nhân viên của mình làm công tác kiểm tra
tại doanh nghiệp, nhân viên đó thuộc biên chế Bộ tài chính; ngoài ra mỗi doanh nghiệp
còn chịu sự điều tra của một nhân viên do toá án chỉ định, có chức năng kiểm tra tài
chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, ở các doanh nghiệp còn có Hội đồng
quản trị, thành viên Hội đồng này là đại diện của nhà nước, đại diện cho doanh nghiệp

và đại diện của công nhân.
ở một số nước khác như Trung Quốc thì việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nhà nước lại do các Công ty đầu tư tài chính nhà nước đảm nhận. Hoạt động của Công ty
tài chính là hoạt động kinh doanh, khác với việc cử đại diện của Bộ tài chính làm công
việc kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Đây là một tổ chức tài chính do Chính phủ
thành lập giúp Chính phủ thành lập chức năng kinh doanh các nguồn vốn nhà nước đầu
tư vào doanh nghiệp. Công ty đầu tư tài chính nhà nước có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ sở hữu công ty là Chính phủ
Thứ hai, công ty đầu tư tài chính là một doanh nghiệp nhà nước, công ty được thành
lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, được Chính phủ giao
vốn ban đầu và đầu tư bổ sung vốn trong quá trình hoạt động.
Thứ tư, chức năng của công ty là kinh doanh vốn nhà nước. Điều này khẳng định mục
đích đầu tư vốn vào các doanh nghiệp nhà nước là để đảm bảo đồng vốn chẳng những
được bảo toàn mà còn được phát triển (gia tăng giá trị của chủ sở hữu).

Thứ năm, đối tượng hoạt động của công ty là các doanh nghiệp, bao gồm: doanh
nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có phần vốn
góp của nhà nước như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam, tháng 10/1999, Chính phủ quyết định giải thể Tổng cục quản lý vốn và
tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, thành lập Cục tài chính doanh nghiệp trực thuộc Bộ
tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà nước đã đầu tư vào
doanh nghiệp. Chức năng của Cục tài chính doanh nghiệp được cụ thể hoá như sau:
Một là, thống nhất quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc các thanh phần
kinh tế trong cả nước, có thể tóm tắt các công việc cơ bản như sau:
+ Tổ chức nghiên cứu chiến lược và đề xuất các vấn đề cóm liên quan đến tài chính
doanh nghiệp; dự báo khả năng động viên tài chính từ doanh nghiệp, qua đó xây dựng
các chính sách, chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ quản lý, bảo toàn và phát

triển vốn tại doanh nghiệp, chế độ hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp và các chế độ khác
có liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp theo quy định của Bộ trưởng Bộ tài
chính;
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính; chế độ
quản lý vốn nhà nước; chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp thống nhất trong cả nước;
+ Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong cả nước, đồng
thời tổ chức thông tin tài chính doanh nghiệp nhằm cung cấp cho các cơ quan quản lý
nhà nước, các doanh nghiệp và khách hàng những thông tin cập nhật, chính xác đầy đủ
về tình hình tài chính doanh nghiệp; hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính
doanh nghiệp;
Thứ hai, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp do Thủ tướng chính phủ,
các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập hoặc
góp vốn trong đó:
+ Hướng dẫn doanh nghiệp kiểm kê đánh giá tài sản, xác định số vốn nhà nước; tổ
chức giao vốn cho các doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính;
+ Tổ chức đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước trong các trường hợp giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi quyền sở hữu;
giám sát việc xử lý vốn, tài sản nhà nước trong các trường hợp chia tách, sáp nhập, hợp
nhất, giải thể, phá sản và chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước; giám sát việc
phân phối lợi nhuận sau thuế, việc sử dụng các quỹ tại doanh nghiệp;
+ Thẩm định nhu cầu hỗ trợ tài chính hàng năm và cấp phát các khoản chi hỗ trợ cho
doanh nghiệp. Tham gia ý kiến về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh doanh
của các doanh nghiệp trọng điểm, các tổng công ty nhà nước; tham gia xây dựng và
thông báo chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước hàng năm của doanh nghiệp theo uỷ quyền
của Bộ trưởng Bộ tài chính; tham gia các phương án giá sản phẩm và dịch vụ do nhà
nước quy định giá; tham gia việc xây dựng đơn giá, quỹ tiền lương và xếp hạng doanh
nghiệp theo quy định của nhà nước;
+ Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán của
doanh nghiệp; kiểm tra báo cáo tài chính, xác định khả năng hoàn trả nợ, mức độ bảo
toàn và phát triển vốn hàng năm của doanh nghiệp;

+ Tổng hợp, phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn, việc bảo toàn và phát triển vốn
thuộc sở hữu nhà nước tại các loại hình doanh nghiệp trong cả nước và theo ngành kinh
tế;
+ Quản lý các quỹ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ tài chính uỷ quyền;
+ Hướng dẫn các Sở tài chính-vật giá thống nhất quản lý nhà nước về tài chính đối
với doanh nghiệp do tỉnh thành phố thành lập hoặc góp vốn, tổng hợp phân tích tình hình
tài chính doanh nghiệp trên địa bàn;
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ tài chính giao.
Dưới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các
Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá. Cục tài chính doanh nghiệp
quản lý trực tiêp các doanh nghiệp nhà nước trung ương. Các doanh nghiệp nhà nước địa
phương chịu sự quản lý trực tiếp của các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài
chính-vật giá tỉnh, thành phố.
Hình thức phân công mới này có ưu điểm ở chỗ do doanh nghiệp nhà nước vẫn được
tổ chức theo hai hình thức, đó là doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương,
đồng thời việc tổ chức cán bộ ở địa phương do UBND tỉnh quyết định, ở trung ương do
Bộ ngành quyết định. Mặt khác các doanh nghiệp trung ương lớn thường có các chi
nhánh ở các địa phương khác nhau nên việc quản lý theo vùng sẽ hạn chế, đặc biệt là các
Tổng công ty thường tập trung ở các địa bàn thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng,
Thành phố Hồ Chí Minh sẽ khiến cho việc quản lý ở các địa phương rất phức tạp.
Sơ đồ quản lý như sau:


Có thể nói rằng, sự ra đời và đi vào hoạt động theo hệ thống dọc từ Trung ương tới
các tỉnh, thành phố đã giải quyết được những vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý
doanh nghiệp nhà nước, đó là thu gọn đầu mối, thực hiện nguyên tắc một đầu mối cho
từng chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, từng bước xoá bỏ cơ chế chủ
quản, sự phân biệt giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương.
1.2.3. Tổ chức thực hiện
Dựa trên các căn cứ về quản lý vốn nhà nước đã được thiết lập (các văn bản pháp luật

liên quan), các cơ quan quản lý (đã được phân cấp quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp) sẽ tổ chức thực hiện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo phạm
vi chức năng của mỗi cấp đã được quy định.
1.2.3.1. Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước
Một việc không dễ song không thể thiếu trong hoạt động quản lý là phải xác định
được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá và xét duyệt các trường hợp
để đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp một cách hợp lý.
Nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng giá
trị tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Trong
nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường xuyên biến động tuỳ thuộc
vào xu hướng biến động của thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp khác nhau với
những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nhu cầu về vốn cũng khác nhau. Do vậy,
xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là việc làm cần thiết của các nhà quản lý. Các
nhà quản lý thường dùng hai phương pháp sau:

Thứ nhất, phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, đây là phương pháp dự tính
ngắn hạn, đơn giản nhưng đòi hỏi phải hiểu rõ quy trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đồng thời phải hiểu rõ tính quy luật của mối quan hệ giữa doanh thu tiêu thụ sản
phẩm với tài sản, vốn và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây có thể là phương
pháp ước tính nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong thời gian ngắn, vì cơ bản nó dựa trên
giả thiết cho rằng tất cả các chi phí thành phẩm sẽ chiếm một tỷ lệ ổn định trong doanh
thu bán hàng tương lai, không thay đổi so với tỷ lệ của chúng trong quá khứ. Tỷ lệ phần
trăm trên doanh thu này là tỷ lệ chi phí trung bình trong hai năm gần đây và mỗi khoản
mục của báo cáo nhu cầu vốn dự kiến được tính theo tỷ lệ phần trăm trung bình của
doanh thu. Khi tìm được tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu thì việc xây dựng báo
cáo nhu cầu sử dụng vốn cho năm kế tiếp theo phương pháp phần trăm trên doanh thu
khá đơn giản.
Thứ hai, phương pháp hồi quy, đây là phương pháp dự tính dài hạn, bản chất của
phương pháp này dựa trên lý thuyết tương quan trong toán học. Khi sử dụng phương
pháp này, nhà quản lý vốn cũng cần xuất phát từ doanh thu tiêu thụ. Phương pháp hay

được sử dụng để xem xét khả năng nguồn đối với các khoản có liên quan trực tiếp tới
tăng giảm doanh thu.
Sau khi đã xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiến hành đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp, công việc này được thực hiện căn cứ vào
các quy định đã được nêu ra trong các văn bản pháp luật liên quan.
ở nước ta, cấp vốn đã trở thành hình thức đắc lực nhất đối với doanh nghiệp nhà nước
trong suốt thời kỳ bao cấp. Đến nay tuy đã giảm nhiều song các doanh nghiệp nhà nước
vẫn được bao cấp nhiều qua giá và qua cấp vốn từ ngân sách nhà nước. Trước đây và
hiện nay, Nhà nước cấp toàn bộ vốn cố định và một phần vốn lưu động cho các doanh
nghiệp nhà nước căn cứ vào nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp, thường là 30%.
Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được xác định theo công
thức sau:
Nhu cầu vốn lưu động = Tổng doanh thu
Vòng quay vốn lưu động
Nếu trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thiếu vốn, số vốn thiếu xin
được cấp bổ sung. Nhu cầu vốn cấp bổ sung tính theo công thức:
Số vốn thiếu xin được cấp bổ sung = Nhu cầu vốn lưu động - Số
vốn lưu động hiện có tài doanh nghiệp
Trong những năm qua, Chính phủ đã xét duyệt để cấp vốn bổ sung cho nhiều doanh
nghiệp theo nhiều dự án. Trong 3 năm 1997 >1999, Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho
các doanh nghiệp nhà nước gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6428 tỷ đồng là để cấp vốn bổ
sung cho các doanh nghiệp. Có thể thấy việc quản lý nhu cầu, cấp phát vốn đã từng bước
chặt chẽ hơn. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước một cách có
trọng điểm hơn chứ không dàn trải như trước. Vốn được cấp cho doanh nghiệp nhà nước
một cách hợp lý hơn. Các doanh nghiệp được nhà nước đầu tư vốn phải nằm trong chiến
lược phát triển của Nhà nước và phải thoả mãn một số yêu cầu nhất định. Đồng thời,
mức hỗ trợ tối đa cũng được quy định rõ. Ví dụ như trong đợt hỗ trợ vốn năm 1998 quy
định rõ các đối tượng được xét đầu tư vốn là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công
ích, các doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập đang hoạt động có sản xuất chế biến
hàng xuất khẩu, chế biến hàng nông hải thuỷ sản, xây dựng các công trình quan trọng

của nhà nước với những điều kiện cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp về doanh thu
lợi nhuận và mức nộp ngân sách. Nhờ có sự chọn lọc trong nhu cầu vốn bổ sung này mà
đồng vốn của nhà nước trong những năm gần đây đã được sử dụng có hiệu quả hơn và
đúng đối tượng hơn. Trong hai năm 1997 và 1998, Nhà nước đã đầu tư thêm vào một số
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thông qua việc cấp bổ sung một lượng vốn đáng kể
(khoảng 3000 tỷ đồng) cho các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao
và có thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp đã biết kết hợp vốn ngân sách với các
nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Số vốn tự bổ sung của một số ngành chiếm tỷ trọng
rất lớn trong nguồn vốn chủ sở hữu và cũng tăng về số tuyệt đối liên tục qua các năm, ví
dụ: ngành Hàng hải, Bưu điện, Hàng không. Kết quả thống kê của Cục tài chính doanh
nghiệp cho biết: Quy mô vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua
tăng. Tuy nhiên, việc cấp vốn của nhà nước vẫn còn những hạn chế. Hiện tượng thiếu
vốn trầm trọng tại số đông các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là một minh
chứng cho sự chưa hợp lý trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng
chung của các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay là tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh
doanh. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn nhà nước không
đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh nghiệp nhà nước không đủ
vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Trên 50% các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ vốn
lưu động tương ứng với quy mô hoạt động kinh doanh. Tổng công ty nhà nước được ưu
tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển song hiện vẫn có tới gần 80% số
Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân của các Tổng công ty,
trong đó 35% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Con số này chứng
tỏ có tình trạng chênh lệch về vốn khá lớn giữa các Tổng công ty và số Tổng công ty
thiếu vốn, ít vốn là chiếm đa số.

×