Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn: Đảm bảo tín dụng của chính phủ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng hiện đại pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.52 KB, 86 trang )






Luận văn: Đảm bảo tín dụng của chính
phủ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
ngân hàng hiện đại
Lời nói đầu
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội
nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều
khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là
"đòn bảy kinh tế" thông qua hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự
phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước.
Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương
mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro
tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng Công
thương Đống Đa, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Một số giải pháp hạn chế rủi ro an
toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống
Đa".
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là:
- Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất của rủi ro
tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như tác động của nó tới bản
thân Ngân hàng Thương mại và với nền kinh tế.
- Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng công
thương Đống Đa để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi


nhánh.
- Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong
hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Để giải quyết từng vấn đề trên, chuyên đề được thiết kế làm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng và rủi ro an toàn kinh tế ngoài quốc doanh trong hoạt động tín
dụng của Ngân hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng an toàn kinh tế ngoài quốc
doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Chương 3: Một số giải phá hạn chế rủi ro tín dụng an toàn kinh tế ngoài quốc doanh
đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Chương 1: Tín dụng và rủi ro an toàn tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại
I. Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng
1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại.
Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại, các nhà kinh tế học đưa ra rất nhiều
những quan niệm khác nhau về NHTM. Người thì cho rằng "NHTM là tổ chức tài
chính nhận tiền gửi và cho vay tiền". Người khác lại nhận định: NHTM là trung
gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở tài
khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc…". Sở dĩ có tình trạng này
là do hoạt động NHTM rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ Ngân hàng
lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế.
Mặt khác, do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến
những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên thế giới.
Theo pháp lệnh: "Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính" ban hành
ngày 24/5/1990:" NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán".
Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông qua

các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp
vụ tài chính khác.
1.2. Các chức năng nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
- Chức năng huy động vốn: Đây là chức năng cơ bản đầu tiên của NHTM. Nó quyết
định quy mô cũng như hiệu quả các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy
động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức
kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm
và các hình thức khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, NHTM có thể huy động vốn qua
các biện pháp chủ động như phát hành kì phiếu ngân hàng, phát hành các chứng chỉ
tiền gửi hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Tuy nhiên, NHTM phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có như một rằng buộc về
trách nhiệm nhằm hạn chế rủi ro trong các hoạt động của Ngân hàng. Theo quy định
của Việt Nam, các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có.
- Chức năng cung cấp tín dụng và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh mang lại lợi
nhuận chủ yếu cho NHTM. Thực hiện nghiệp vụ quan trọng là tạo tiền, trở thành
nguồn tích luỹ vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện làm tăng tổng sản phẩm xã hội, mở
rộng vốn đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Có thể thấy hoạt động tín dụng làhoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó liên
quan đến tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động lại
chứa đựng rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành các lĩnh vực đó. Chính vì vậy việc
nghiên cứu rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm.
- Cung cấp các hoạt động dịch vụ:
Ngoài các chức năng cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch vụ để
đáp ứng mọi nhu cầu của khác hàng nhằm thu hút khách hàng đồng thời đem lại
nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các hoạt động dịch vụ của NHTM gồm có:
+ Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền
+ Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán.
+ Dịch vụ tư vấn đầu tư
+ Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.
Thông qua các hoạt động này, NHTM nhận được các khoản thu nhập dưới hình

thức lệ phí hoặc hoa hồng.
Có thể nói, các chức năng của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt chẽ với
nhau. Chức năng huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho các hoạt động
nghiệp vụ. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu nhập cho NHTM. Còn
các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt
động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM.
2. Tín dụng Ngân hàng
2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao
tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên
nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thụân.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế và
cá nhân thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách hàng vay,
tài trợ thuê mua, bảo hành hay chiết khấu…
Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động
phức tạp nhất. Trong bài viết này tôi chỉ xin được đề cập đến khía cạnh cho vay của
hoạt động tín dụng Ngân hàng.
2.2. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động của NHTM
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh
nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần ktnn mà còn tác động
đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tín dụng thúc đẩy sự ra
đời của các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển của đất nước.
Tín dụng Ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá,
ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể tách ly sự hỗ trợ của tín dụng
ngân hàng.
Với các ngành sản xuất, chế biến, khai thác…để đảm bảo sản xuất ổn định cần thết
phải có vốn để dự trữ nguyên vật liệu, thành phẩm bù đắp các chi phí sản
xuất…Đồng thời để không ngừng nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản
phẩm, tìm kiếm lợi thế trông cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải thường xuyên
cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ

thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Tất cả những công việc đó sẽ không thể thực
hiện được nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng.
Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất đến
người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá cần
thiết trang trải các chi phí lưu thông, thuế…Hơn nữa, để mở rộng sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng loại
phong phú, nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lưu
động. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp này cần đến sự hỗ trợ của
tín dụng ngân hàng.
Với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch…sẽ hoạt động ra sao
khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng tang thiết bị vật
chất, phương tiện vận tải…Khi bước vào kinh doanh trong lĩnh vực này đòi hỏi vốn
đầu tư rất lớn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần đến tín dụng ngân hàng và xem
nó như là một trong những nguồn vốn có thể huy động cho mục đích kinh doanh
của doanh nghiệp.
Nói chung, một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn lưu động và vốn
cố định cho các chủ doanh nghiệp là vốn tín dụng ngân hàng vì nếu chỉ dựa vào vốn
tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị
trường. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ quan trọng cho các dự án kinh
doanh của doanh nghiệp mới.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng,
tín dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu quả kinh
tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Ngân hàng với
chức năng huy động vốn, tập trung mọi nguồn vốn trong và ngoài nước đã phần nào
đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh
tế quan trọng nhất giúp các nhà sản xuất kinh doanh thực hiện tái sản xuất mở rộng
và ứng dụng công nghệ để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu
nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chương trình, dự án mang tính
xã hội khác.

Muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu người, giải quyết việc làm không thể chỉ
dựa vào quỹ ngân sách Nhà nước hoặc trông chờ vào các khoản vay nước ngoài.
Tín dụng ngân hàng thực sự giữ vai trò quan trọng trong viecẹd dầu tư cho các dự
án có ý nghĩa kinh tế và xã hội để giải quyết những việc như vậy.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất mở
rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế.
Các doanh nghiệp, các Công ty làm ăn có hiệu quả và uy tín được ngân hàng tập
trung đầu tư vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ. Tín dụng
ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn, tạo cho các
doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nước ngoài
đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp chính sách
quản lý kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về
tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho
các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của
Nhà nước.
Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một nhiệm vụ
đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là phải đảm bảo an toàn tín dụng và
đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và của Chi
nhánh NHCT Đống Đa nói riêng.
II. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1. Khái niệm rủi ro
Rất có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và hoạt
động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường. Tuy
nhiên, các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc không
mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được.
Như vậy, trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân hàng nói riêng
thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế, các nhà quản trị không thể loại bỏ
được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ động xử lý.

Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các nhà quản trị
phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm đưa ra các giải pháp phòng
ngừa chống đỡ tác hại của nó.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức khác nhau. Do đặc
điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi ro lớn. Có
các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của NHTM.
2.1. Rủi ro tín dụng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn
chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại phần lớn lợi
nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại làhoạt động có nhiều rủi ro
nhất và phức tạp nhất. Hoạt động tín dụng liên quan chặt chẽ đến mọi lĩnh vực của
nền kinh tế. Mỗi rui ro trong các lĩnh vực này đều tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động tín
dụng của NHTM. Trong hoạt động tín dụng, NHTM luôn đặt ra mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận, đồng thời tối thiểu hoá rủi ro. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi NHTM
phải có những giải pháp thích hợp để quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng.
2.2. Rủi ro lãi suất
Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hưởng đến hầu hết các tổ chức kinh tế,
các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân. Người ta quan niệm lãi suất là chi phí để
vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó. Trong cơ chế thị
trường, lãi suất luôn biến động và điều này có thể gây ra rủi ro cho hoạt động của
NHTM. Chẳng hạn, ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn với lãi suất cố
định, sự thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trường tăng lên.
Ngược lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định, ngân hàng sẽ bị thiệt
hại khi lãi suất thị trường giảm xuống.
Rủi ro lãi suất là loại rui ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãi suất nảy
sinh trong những trường hợp sau:
+ Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng làm chi phí của
ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi
lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người cho vay.

+ Do cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng không hợp lý. Ngân hàng dùng
tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản có dài hạn. Nếu lãi suất ngắn hạn tăng, chi
phí ngân hàng phải bỏ ra cũng sẽ tăng lên, trong khi thu nhập ở tài sản có dài hạn
vẫn giữ nguyên, như vậy thu nhập của ngân hàng không đủ bù đắp chi phí kinh
doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn.
+ Ngoài ra, rủi ro lãi suất có thể xayra do trình độ thấp kém bị thua thiệt trong việc
cạnh tranh lãi suất trên thị trường. Hoặc do yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi
suất như cung, cầu, yếu tố thị trường…Khi Nhà nước có quyết định điều chỉnh lãi
suất theo hướn giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn trả. Như vậy,
lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhưng phần trả lãi cho những khoản tiền gửi có kỳ
hạn lại không giảm tương ứng dẫn đến rủi ro lãi suất.
2.3. Rủi ro nguồn vốn
a) Rủi ro do thừa vốn
Như ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy động. Để
huy động được vốn Ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu số này bị ứ
đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài sản có thể sinh lời trong khi
ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động thì có nghĩa là các thiệt hại của
ngân hàng đang diễn ra. Nếu quá trình này kéo dài ở mức độ lớn có thể dẫn đến
thua lỗ trong kinh doanh. Giải quyết vấn đề này, NHTM cần phải tăng cường công
tác kế hoạch hoá, đảm bảo cân đối giữa vốn huy động và vốn cho vay.
b) Rủi do do thiếu vốn.
Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu cho vay và
đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi đến hạn. Rủi ro
này xuất phát từ chưc năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của
ngân hàng, thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn các nguồn vốn,
hoặc do mất lòng tin mà các hàng loạt khách hàng đến rút tiền, khiến cho ngân hàng
không có đủ tiền để chi trả cùng một lúc. Trong bối cảnh đó, ngân hàng khó lòng
huy động được nguồn vốn dồi dào, từ đó kinh doanh có thể bị thu hẹp và vỡ nợ rất
có thể xảy ra. Rủi ro này còn có thể do ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác huy
động vốn thể hiện ở việc không thu hút đủ vốn để cho vay hoặc do sự mất cân đối

trong cơ cấu vốn huy động, thiếu các nguồn vốn trung dài hạn trong khi nhu cầu vay
vốn trung dài hạn lại ở mức cao. Điều này đã làm cho Ngân hàng mất cơ hội đầu tư
vào những dự án an toàn và có thể đem lại lợi nhuận cao.
2.4. Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá hối đoái
bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ. Sự thay
đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối, cụ thể:
+ Nếu ngân hàng có dư dật về ngoại tệ (vị thế thường - net long position): Nếu
ngoại tệ đó lên giá thì ngân hàng sẽ có lãi khi đánh giá lại và ngược lại ngân hàng sẽ
lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá.
+ Nếu ngân hàng ở vị thế đoản (net short position) về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại
tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi khi ngoại tệ đó xuống
giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây ra tổn
thất cho ngân hàng. Dư dật về ngoại tệ(vị thế trường) càng lớn thì rủi ro càng cao
khi tỷ giá giảm, ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi ro cũng không
ít khi tỷ lệ tăng.
Khi phân biệt tình hình lãi lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so sánh lỗ, lãi
thực tế xảy ra so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro
so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái
của một ngân hàng.
2.5. Rủi ro trong thanh toán
Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán.
Khả năng thanh toán tưc là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện đại, đột xuất
khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai. Khi
ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết một cách kịp thời
có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa khả năng thanh toán sẽ
dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng giảm.
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau:
+ Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn,

trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy động
ngắn hạn để cho tập trung dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng thanh toán
cuối cùng.
+ Đến hạn các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm sút,
người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của ngân
hàng bằng cách rút hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về
sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả những khía cạnh
trên đều dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng.
+ Loại rủi ro này còn có thể phát sinh trong quá trình thanh toán của ngân hàng, có
thể do ngân hàng bị lợi dụng trong thanh toán điện tử,thanh toán séc chấp nhận
thanh toán các chứng từ giả mạo hoặc do nhầm lẫn, sai sót trong hoạt động nghiệp
vụ…dẫn đến sự thiệt hại của ngân hàng.
2.6. Rủi ro thuần tuý
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tại gây ra như: lụt lội, động đất, hoả hoạn
hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng…làm thiệt hại hay phá huỷ các tài sản
của ngân hàng. Các rủi ro này xảy ra cũng gây mất mát, thiệt hại không nhỏ cho
ngân hàng.
2.7. Rủi ro mất khả năng thanh toán
Đây là loại rủi ro đặc trưng của NHTM liên quan đến sự sống còn của ngân hàng,
nó là hậu quả của một hoặc nhiều loại rủi ro kể trên dẫn đến việc NHTM bị thua lỗ,
không có đủ khả năng trả nợ cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc không có đủ tiền
nhất thời để chi trả cho nhu cầu rút tiền ồ ạt của khách hàng tại một thời điểm. Đây
là loại rủi ro nghiêm trọng nhất, nó không những làm sụp đổ chính NHTM đó mà
còn là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của hàng loạt các chưc năng, các tổ chức tín
dụng khác có liên quan.
Bài học thực tiễn của loại rủi ro này có thể kể đến như sự sụp đổ của hàng trăm tổ
chức tín dụng ở Mỹ từ năm 1985 đến năm 1992 hay sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng
nhân dân ở nước ta trong những năm cuối của thập kỷ 80.
3. Rủi ro tín dụng
3.1. Các hình thức của rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng hạn, đầy
đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi ro tín dụng
thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro.
3.1.1. Không thu được lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó Ngân hàng sẽ
chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp
vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ, chiếm dụng
vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ
của khách hàng.
3.1.2. Không thu được vốn đúng hạn.
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn, một
phần do một lượng vốn vay lớn bị mất. Khi đó, Ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang
mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo hạn của hợp
đồng tín dụng. Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất mát thực hiện của Ngân hàng
vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh của khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã
đề ra trình Ngân hàng.
3.1.3. Không thu được đủ lãi.
Khi Ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn.
Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức không thể
trả đủ lãi cho Ngân hàng. Khi đó, Ngân hàng phải chuyển khoản lãi này vào khoản
mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách
hàng.
3.1.4. Không thu đủ vốn cho vay:
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thuđủ vốn cho vay và lúc này
Ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này, Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào
mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại một hợp đồng
tín dụng không có hiệu quả.
Trên đây chủ yếu là bốn hình thức giúp cho NHTM phân biệt rủi ro tín dụng và có
biện pháp xử lý. Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp rủi ro tín dụng thì Ngân hàng
đều phải trải qua bốn trường hợp trên. Có trường hợp khách hàng đã trả lãi rất đầy

đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không thể trả được nợ gốc cho Ngân hàng. Vì
vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường
hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá
hạn phát sinh. Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có
khả năng thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết
hậu quả và ruít ra những bài học kinh nghiệm.
3.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
3.2.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh.
a) Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường pháp lý trong nước:
- Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh
doanh của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế
đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả
năng trả nợ cho Ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng bị suy
thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt
động kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút,hàng hoá bị ứ đọng.
Điều này đã làm cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đã ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ cho ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của Ngân hàng. Chính phủ có thể gây khó khăn cho một
số khách hàng của Ngân hàng khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao đã làm
tăng tỷ lệ lạm phát dẫn đến giá cả các loại nguyên vật liệu đầu vào tăng, giá thành
sản phẩm tăng, hàng hoá khó tiêu thụ được. Hơn nữa, việc chính phủ cho phép nhập
khẩu tràn lan những mặt hàng mà ở trong nước có thể sản xuất được, từ đó làm cho
hàng hoá trong nước bị cạnh tranh, chậm tiêu thụ, sản xuất bị đình trệ…
- Môi trường chính trị, xã hội: Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp luôn phải đặt ra trong
tình trạng chiến tranh cấm vận kinh tế, chính trị bất ổn, tệ nạn xã hội tràn lan…đều
là những nguyên nhân dẫn đến việc kìm hãm sản xuất, từ đó gây ra rủi ro đối với
các doanh nghiệp nói chung và đối với rủi ro tín dụng của ngân hàng nói riêng.
- Môi trường pháp lý: Nếu nhà nước xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ và có

hiệu lực sẽ làm mạnh hoá các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với nhau
cũng như giữa các tổ chức kinh tế đó với Ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp lý
lỏng lẻo sẽ tạo ra nhiều kẽ hở, gây nên tình trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt
hại lẫn nhau; từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán đối với Ngân hàng, thậm chí
trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của Ngân hàng, điển hình như vụ án Tamexco,
Epco - Minh Phung…đã gây xôn xao dư luận.
b) Môi trường quốc tế.
Xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay ảnh hưởng rất lớn đến
kinh doanh kinh tế. Một mặt nó tạo điều kiện giao lưu kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế
xã hội đất nước, nhưng mặt khác nó lại tao ra sức cạnh tranh khốc liệt. Nếu doanh
nghiệp nào làm ăn kém hiệu quả thì lập tức sẽ bị phá sản gây ảnh hưởng đến hoạt
động tín dụng Ngân hàng. Quan hệ kinh tế mở rộng ra các nước đã tạo sự ràng buộc
về kinh tế, tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống. Cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ trong khu vực vừa qua là một bằng chứng điển hình. Nó đã dẫn đến sự phá
sản của hàng trăm ngân hàng của các nước mà hậu quả của nó vẫn còn dư âm đến
tận hôm nay.
3.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Trong trường hợp này, rủi ro tín dụng xảy ra do các doanh nghiệp thực sự làm ăn
thua lỗ không có khả năng trả được nợ cho ngân hàng. Đây là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến rủi ro tín dụng của NHTM. Ta có thể chia nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín
dụng từ phía khách hàng làm hai trường hợp. Đó là trường hợp khách hàng gian lận
và trường hợp khách hàng không gian lận.
a) Khách hàng gian lận:
Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng không thể tránh khỏi trường hợp khách hàng
cố tình lừa gạt ngân hàng. Điều này được thể hiện qua một số hình thức sau:
Nhiều doanh nghiệp do thiếu năng lực về khả năng quản lý tài chính lại không có tài
sản thế chấp hợp lệ do đó không đủ điều kiện để đảm bảo an toàn cho việc vay vốn
ngân hàng. Họ đã lập các số liệu, giấy tờ giả mạo hòng qua mắt ngân hàng và được
ngân hàng cho vay vốn. Nếu ngân hàng không phát hiện ra thì khả năng rủi ro của
khoản tín dụng này là rất lớn.

Có trường hợp người vay lợi dụng ngân hàng không thể kiểm soát hết được hoạt
động kinh doanh của mình nên các doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay của ngân hàng
vào mục đích khách với hợp đồng đã cam kết. Như vậy, coi như toàn bộ giá trị thẩm
định trước khi tiến hành cho vay của ngân hàng đa trở thành vô nghĩa và rủi ro tín
dụng được đặt ở mức độ báo động.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp do kinh doanh kém hiệu quả hoặc do đạo đức kém đã
cố tình chây ỳ, không trả nợ cho ngân hàng, thậm chí còn bỏ trốn để quỵt nợ. Trong
trường hợp này ngân hàng hoàn tàon bị thua thiệt và chỉ còn trông chờ vào việc xử
lý tài sản thế chấp.
b) Khách hàng không gian lận.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt để
tồn tại thì csc doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong nhữgn quan hệ phức tạp của
xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn là điều không thể tránh khỏi. Như ở phần trước đã nói,
nguồn thu chủ yếu của ngân hàng là từ các doanh nghiệp thông qua các hoạt động
tín dụng. Chính vì vậy, hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động của ngân hàng và rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. Rủi ro của doanh nghiệp xuất
phát từ một số trường hợp sau:
+ Doanh nghiệp bị rủi ro khách quan như: Thiên tai, hoả hoạn, động đất, mất
trộm…Đây là trường hợp ít khi xảy ra và khó có thể dự đoán trước.
+ Bản thân doanh nghiệp bị lừa đảo hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro.
Trong nền kinh tế doanh nghiệp có rất nhiều mối quan hệ với các tổ chức kinh tế
khác và cũng giống như ngân hàng doanh nghiệp cũng có thể bị rủi ro từ phía các
đối tác của mình làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho
ngân hàng.
Trường hợp khác là rủi ro xuất phát từ chính sự yếu kém của bản thân doanh
nghiệp. Sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường luôn đặt doanh nghiệp trong tình
trạng phải có sự nỗ lực cao độ vì bất kì một sự sai sót nào trong phương thức quản
lý kinh tế cũng như quản lý tài chính đều dẫn đến thua lỗ, phát sản doanh nghiệp
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng.

3.2.3. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng.
Ngoài những nguyên nhân trên, rủi ro tín dụng còn xuất phát từ chính bản thân
Ngân hàng. Đó là do Ngân hàng yếu kém về trình độ chuyên môn, trình độ nắm bắt
các thông tin trên thị trường, trình độ dự đoán và hiểu biết các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh hay vấn đề đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ tín dụng đã
dẫn đến rủi ri tín dụng Ngân hàng.
3.3. Dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng, các nhà ngân hàng
đã rút ra một số dấu liệu cơ bản để giúp cho các cán bộ tín dụng nhận biết, phán
đoán và sớm có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn những rủi ro thực sự có thể
xảy ra. Có các dấu hiệu cơ bản sau:
3.3.1. Nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi hạn do một
số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.
Là một trung gian tài chính giữa bên thừa vốn với bên thiếu vốn trong nền kinh tế,
tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, nên tính ổn định và hiệu quả
hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp
nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của
Ngân hàng thì nợ quá hạn nhân tố rễ gây ra rủi ro cho Ngân hàng. Do vậy, để hạn
chế rủi ro trong hoạt động tín dụng thhì Ngân hàng phải giữ cho tỉ lệ nợ quá hạn ở
mức hợp lý, và có thể, không để phát sinh nợ quá hạn.
Nợ quá hạn có nhiều loại, tuy nhiên, nếu dựa vào khả năng thu hồi thì ta có thể chia
nợ quá hạn ra thành hai loại là nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không
có khả năng thu hồi.
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là những khoản nợ đến hạn thanh toán, vì nhiều lý
do khác nhau khách hàng chưa có khả năng thanh toán, nhưng các phân tích chủ
quan của Ngân hàng cho thấy có thể thu hồi được nợ.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là nợ quá hạn không thể thu hồi sau khi phân
tích các khả năng thu hồi. Trong trường hợp này, các Ngân hàng được phép trích

quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp.
3.3.2. Lãi treo.
Lãi treo là số tiền mà khác không trả được khi đến hạn thanh toán lãi. Lãi treo cũng
là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro tín dụng, bởi vì việc thanh toán lãi
không gắn với việc trả lại gốc và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào cuối
tháng, khi doanh nghiệp không thanh toán được phần lãi của món vay cho thấy dấu
hiệu doanh nghiệp gặp khó khăn đặc biệt về tài chính.
Do vậy, khi xuất hiện lãi treo Ngân hàng phải tiến hành điều tra, phân tích kỹ tình
hình tài chính doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tìm
ra nguyên nhân tại sao doanh nghiệp không có khả năng thanh toán lãi theo đúng
hạn. Dựa vào kết quả phân tích, Ngân hàng sẽ đưa ra các biện pháp phù hợp nhất để
hạn chế những tổn thất cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp.
3.3.3. Một số dấu hiệu khác.
Rủi ro tín dụng thường ẩn chứa trong "khoản vay có vấn đề" được thể hiện bằng
nhiều dấu hiệu, nhưng không có một mô hình nhất định nào có thể mô tả chính xác,
đầy đủ những dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng sẽ xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên,
kiểm nghiệm trên thực tế hoạt động tín dụng, một số dấu hiệu sau thường có tác
dụng cảnh báo với cán bộ tín dụng về khả năng trả nợ của người vay.
- Việc trì hoãn nộ các báo cáo tài chính của người vay.
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp Ngân hàng hiểu được tình hình tài
chính của người vay, thông qua đó dự báo về khả năng trả nợ của họ. Việc trì hoãn
có nhiều nguyên nhân nhưng chúng ta phải xem xét đến nguyên nhân chính đó là do
tình hình hoạt động kinh doanh của người vay đã có những dấu hiệu không bình
thường nên họ không muốn Ngân hàng biết sớm tình hình tài chính đang kém của
họ.
- Mối quan hệ giữa Ngân hàng và người vay thay đổi.
Đó là sự chậm trễ trong việc sắp xếp các cuộc viếng thăm của Ngân hàng đối với
doanh nghiệp, nhằm giúp cho Ngân hàng kiểm tra, giám sát những nghĩa vụ của
người vay đối với khoản vay. Vấn đề này biểu hiện bởi sự giảm sút bầu không khí
không tin cậy và hợp tác giữa cán bộ Ngân hàng và người vay vốn đã có từ lâu.

- Hàng tồn kho tăng lên quá mức bình thường, các khoản công nợ cũng gia tăng.
- Chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút, khách hàng của họ
không còn tín nhiệm như trước nữa dẫn đến phải bán hàng với thời hạn trả tiền lâu
hơn, hoặc bán cả cho những khách hàng có khả năng yếu kém về tài chính, có khả
năng thanh toán thấp.
- Hoàn trả nợ vay không đúng hoặc lãi vay không thanh toán đúng kỳ hạn.
- Thay đổi về cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh.
Vấn đề này được biểu hiện qua một số hình thức như: thu hẹp qui mô sản xuất,
chủng loại sản phẩm, công nhân nghỉ việc, bán bớt tài sản hoặc một số vụ việc như
sa thải công nhân, cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp.
- Các thảm hoạ về thiên như như bão lụt, hoả hoạn, cháy rừng…
Khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có vấn đề được nhận ra, biện pháp đâu
tiên mà các cán bộ tín dụng Ngân hàng phải làm là xác định tính nghiêm trọng của
vấn đề. Dĩ nhiên để hoàn tất công việc này đòi hỏi phải có thêm lòng tin và sự cộng
tác của người vay, thông tin thường lấy từ các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động
kinh doanh của người vay. Các biện pháp sau đó sẽ tuỳ thuộc vào sự nghiêm trọng
của tình hình mà xử lý.
3.4. Tác động của rủi ro tín dụng.
3.4.1. Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận Ngân hàng.
Những khoản tín dụng gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt tài
chính khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm lợi nhuận Ngân hàng.
Trong trường hợp Ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng làm Ngân
hàng mất cơ hội đầu tư vào những dự án khả thi, có khả năng mang lại lợi nhuận.
3.4.2. Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng:
Rủi ro tín dụng đã khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của Ngân hàng gặp nhiều khó
khăn. Các khoản đầu tư, cho vay bị thoất thoát hoặc chậm thu hồi trong khi Ngân
hàng vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động theo đúng kỳ hạn. Chính điều này đã
làm hạn chế khả năng thanh toán của Ngân hàng.
3.4.3. Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng đã làm giảm uy tín của Ngân hàng và ảnh hưởng đến hoạt động

kinh doanh của của Ngân hàng. NHTM gặp nhiều rủi ro là Ngân hàng hoạt động
kém hiệu quả. Điều này đã làm cho uy tín của ngân hàng bị giảm sút. Đây là một
vấn đề rất tệ hại, khách hàng mất lòng tin ở Ngân hàng, họ sẽ không gửi tiền vào
Ngân hàng, thậm chí họ có thể còn rút lại những khoản tiền đã gửi. Điều đó đã gây
khó khăn cho việc huy động vốn của Ngân hàng làm giảm quy mô hoạt động của
Ngân hàng. NHTM gặp rủi ro cũng sẽ làm mất lòng tin đối với các Ngân hàng bạn,
Ngân hàng nước ngoài nên rất khó có thể nhận được những khoản tín dụng từ phía
họ khi cần thiết. Ngoài ra, Ngân hàng khó có thể có các quan hệ đại lý làm cầu nối
trong thanh toán quốc tế, phát triển các dịch vụ của Ngân hàng.
3.4.4. Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản Ngân hàng.
Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân
chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ hội đầu
tư có lợi hơn ở một Ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá
nhiều người đến rút tiền về dẫn đến sự phá sản thực sự của Ngân hàng.
Hậu quả của sự phá sản Ngân hàng không chỉ bản thân Ngân hàng phải gánh chịu
mà nó còn liên quan đến các Ngân hàng bạn có quan hệ với ngân hàng. Điều này sẽ
tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng khác
ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực vừa qua bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống các NHTM đã làm cho nền kinh tế
của các nước trong khu Vực bị điêu đúng. Chính điều này đã gây ta những rối loạn
về an ninh, chính trị, xã hội kéo theo hàng loạt những hậu quả khác như: Thất
nghiệp, lạm phát, tệ nạn xã hội nảy sinh. Đây là những bài học thấm thía có nguồn
gốc từ những rủi ro tín dụng của NHTM.
3.5. Các chỉ tiêu đánh giá, đo lường rủi ro của ngân hàng thương mại.
Rủi ro gây ra làm thiệt hại rất lớn cho bất cứ ai phải đương đầu với nó. Muốn tồn tại
và phát triển trong cạnh tranh, các doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng cần
phải để đoán được rủi ro để có những giải pháp quản lý và phòng chống rủi ro và
chấp nhận rủi ro mức độ hợp lý. Không có công việc kinh doanh nào lại không có
rủi ro, nhưng rủi o quá giới hạn cho phép thì kinh doanh sẽ lỗ, thậm chí phá sản.
Cán bộ ngân hàng cần ý thức được rằng: các chiến lược kinh doanh vạch ra cho dù

cẩn thận, tỷ mỷ đến đâu vẫn có thể gặp thất bại. Chiến lược kinh doanh càng táo
bạo, cạnh tranh càng khốc liệt thì các nhà kinh doanh càng dễ thu lợi nhuận lớn
song cũng dễ vướng phải tổn thất nặng nề.
Rủi ro trong kinh doanh là một tất yếu, nó có thể xuất hiện ở khâu này hay khâu
khác dưới nhiều dáng thức khác nhau. Chỉ cần một sơ suất nhỏ hoặc một quyết định
thiếu kịp thời: nên đầu tư hay rút vốn ra cũng có thể đưa đến cho ngân hàng
những bất trắc khó lường. Vì vậy trong kinh doanh ngân hàng cần thiết phải đo
lường rủi ro.
+ Kết cấu dư nợ tín dụng.

×