Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo khoa học: "lựa chọn công cụ tài chính khi quyết định huy động vốn trong doanh nghiệp" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.35 KB, 4 trang )


lựa chọn công cụ ti chính khi quyết định
huy động vốn trong doanh nghiệp

ThS. Nguyễn quỳnh sang
Bộ môn Kinh tế xây dựng
Khoa Vận tải Kinh tế - Trờng Đại học GTVT

Tóm tắt: Bi viết đề cập đến một số nội dung, nhằm lm cơ sở cho việc huy động vốn đáp
ứng nhu cầu ti trợ của doanh nghiệp.
Summary: The article is concerned with issues, which is the basis for capital mobilization
to meet financial demand of an enterprise.
i. Mở đầu
Huy động vốn đợc hiểu là cách thức
khai thác các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp.
Hay có thể hiểu là biện pháp làm tăng vốn
kinh doanh của doanh nghiệp.
Chẳng hạn, một doanh nghiệp cần có
500 triệu VNĐ để thực hiện một dự án hay tài
trợ cho các hoạt động của mình, để có đợc
số vốn này doanh nghiệp có thể phát hành và
bán ra các chứng khoán nợ (chủ yếu là trái
phiếu) hay chứng khoán vốn (cổ phiếu) hay
nói cách khác doanh nghiệp có thể tăng nợ
hay tăng nguồn vốn chủ sở hữu?
ở đây, chúng ta thấy: thứ nhất, trái phiếu
và cổ phiếu chỉ là những công cụ tài chính
điển hình trong toàn bộ các loại hình của công
cụ tài chính. Thứ hai, quan trọng hơn, quyết
định vay vốn không phải là sự kiện xảy ra một


lần duy nhất trong đời. Trái lại, việc huy động
vốn ở bất cứ thời điểm nào chỉ đơn thuần là
một sự kiện có liên quan tới chiến lợc tài
chính. Đúng vậy, hôm nay doanh nghiệp cần
500 triệu, nhng sẽ cần một số lợng nào đó
cha xác định vào các năm kế tiếp. Kết quả
là, một nhân tố chủ yếu của quyết định huy
động vốn hôm nay để trong tơng lai vốn của
doanh nghiệp sẽ đợc tăng lên. Nh vậy,
chiến lợc tài chính của doanh nghiệp sẽ là
anh em sinh đôi với mục tiêu dài hạn của
doanh nghiệp và phơng cách mà doanh
nghiệp định hớng phát triển.
ii. lựa chọn công cụ ti chính phù
hợp
Cách thức lựa chọn một công cụ tài chính
phù hợp thờng đợc thực hiện theo một tiến
trình gồm hai bớc sau:
Bớc thứ nhất là quyết định cần huy
động bao nhiêu vốn ở bên ngoài. Thông
thờng, các doanh nghiệp căn cứ vào ớc tính
mức tăng trởng doanh thu, yêu cầu chi mua
các tài sản mới, thực hiện các dự án và số tiền
có thể huy động trong nội bộ doanh nghiệp.
Số tiền cần thiết còn lại sẽ đợc huy động từ
các nguồn bên ngoài doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đây mới chỉ là bớc khởi đầu của nhiệm
vụ. Sau đó cần phải xem xét cẩn thận thị
trờng tài chính và các điều kiện để doanh
nghiệp có thể huy động đợc vốn.

Khi số lợng tiền cần huy động từ bên

ngoài đã đợc xác định thì bớc thứ hai là lựa
chọn các công cụ tài chính sẽ đợc sử dụng. Đây
là nhiệm vụ trung tâm của quyết định tài chính.
Để có thể lựa chọn cho mình các công cụ
tài chính phù hợp, các doanh nghiệp cần thấy
rõ đợc u, nhợc điểm của một số phơng
thức huy động vốn, từ đó sẽ quyết định sử
dụng phơng thức nào và bằng cách nào, có
thể khái quát nh sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp có thể huy
động vốn bằng cách giảm tỷ lệ lợi nhuận
chia cho các cổ đông (giảm hoặc không chia
cổ tức): Việc cắt giảm tỷ lệ chia cổ tức một
mặt tạo điều kiện để doanh nghiệp có vốn đáp
ứng nhu cầu tài trợ, mặt khác, là để duy trì
tăng trởng bền vững, từ đó sẽ làm gia tăng tỷ
lệ lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp
Thứ hai: Gia tăng đòn bẩy tài
chính, tức là tăng nợ vay: Gia tăng nợ vay
sẽ góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận giữ lại.
Nhng việc sử dụng các khoản nợ vay cũng
cần phải ở một giới hạn nhất định, nếu không
doanh nghiệp sẽ luôn bị áp lực của các chủ
nợ cho vay về khối lợng nợ vay và tiền lãi
vay phải trả, do đó giá trị các đòn bẩy tài
chính mà doanh nghiệp sử dụng thờng bị
hạn chế.
Thứ ba: Phát hành cổ phiếu mới,

việc phát hành cổ phiếu mới để có vốn, có
một số hạn chế sau:
Một l: Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ
rất tốn kém về chi phí phát hành.
Hai l: ảnh hởng đến chỉ tiêu "thu nhập
trên mỗi cổ phiếu - EPF",
Ba l: Các nhà quản lý thờng có tâm lý
ngại ngần trong việc phát hành cổ phiếu mới
Thực tế cho thấy, nếu các nhà quản trị
doanh nghiệp biết trớc đợc suất sinh lời vốn
đầu t (Return on Invested Capital- ROIC) thì
quyết định huy động vốn sẽ trở nên quá dễ
dàng: tức là, hễ cứ suất sinh lời vốn đầu t r
lớn hơn lãi suất vay i' thì đi vay nợ, còn ngợc
lại thì thực hiện bằng vốn chủ sở hữu. Vấn đề
ở đây, là các giá trị trong tơng lai của r l
cha biết đợc v thờng l không có tính
chắc chắn. Do đó quyết định huy động vốn
trở thành việc so sánh giữa các lợi ích và chi
phí dự kiến khi sử dụng đòn bẩy tài chính
iii. một số yếu tố ảnh hởng đến
việc lựa chọn công cụ ti chính
Công cụ tài chính bao gồm nhiều loại nh
cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ vay nợ khác.
Khi thiết lập một công cụ tài chính các doanh
nghiệp cần phải làm việc trên ba biến số:
- Yêu cầu thanh toán của nhà đầu t đối
với dòng ngân lu trong tơng lai;
- Quyền hạn của nhà đầu t trong việc
tham gia vào các quyết định của doanh

nghiệp.
- Yêu cầu thanh toán nợ đối với giá trị tài
sản khi doanh nghiệp bị phá sản.
Mặt khác, khi lựa chọn công cụ tài chính
doanh nghiệp cần cân nhắc đến các yếu tố
chủ yếu sau:
3.1. Tính linh hoạt tài chính
Liệu doanh nghiệp có nên huy động 500
triệu VNĐ vào ngày hôm nay bằng cách bán
trái phiếu hay cổ phiếu? Thực ra, các quyết
định riêng lẻ này là một phần không thể tách
rời của chiến lợc tài chính dài hạn và là một
bộ phận quan trọng của doanh nghiệp để tiếp
cận thị trờng vốn theo thời gian.
Xét trờng hợp tăng trởng, nếu doanh
nghiệp có khả năng huy động nợ vay hoặc
vốn chủ sở hữu với những điều khoản chấp
nhận đợc thì việc ra quyết định là đơn giản.
Doanh nghiệp chỉ cần chọn ra cấu trúc vốn đã
định trớc trên cơ sở xem xét việc đánh đổi
giữa rủi ro và lợi nhuận trong dài hạn và rồi

dựa trên cấu trúc nợ - vốn chủ sở hữu đã xác
định để quyết định cấu trúc vốn hiện tại sao
cho phù hợp với mục tiêu đã định. Do đó, nếu
tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu thấp hơn chỉ số
cho trớc, thì phơng thức huy động bằng nợ
vay dĩ nhiên sẽ đợc chọn, trừ khi vốn chủ sở
hữu đang sẵn sàng với các điều kiện huy
động hấp dẫn bất ngờ.

Trờng hợp thực tế hơn, theo đó việc tiếp
cận đợc thị trờng tài chính là không có gì
đảm bảo, thì việc ra quyết định trở nên phức
tạp hơn. Khi đó, doanh nghiệp không chỉ lo về
các mục tiêu dài hạn mà còn phải xem quyết
định ngày hôm nay sẽ ảnh hởng ra sao tới
việc tiếp cận thị trờng tài chính trong tơng
lai của doanh nghiệp. Đây là một vấn đề của
cái gọi là tính linh hoạt tài chính: cần làm sao
để cho quyết định ngày hôm nay không huỷ
hoại các lựa chọn phơng thức huy động vốn
trong tơng lai.
3.2. Tín hiệu thị trờng
Theo kết quả nghiên cứu của một số tác
giả cho thấy, khi doanh nghiệp thông báo bán
ra cổ phiếu mới để huy động vốn thì có hiện
tợng giảm giá cổ phiếu so với trớc khi công
bố. Ngựơc lại, nếu doanh nghiệp công bố mua
lại một số cổ phiếu thì lại làm cho giá cổ phiếu
tăng lên đáng kể.
Tại sao giá cổ phiếu lại có phản ứng nh
vậy? Không ai có thể biết chắc đợc cả,
nhng có nhiều giả thuyết và nhiều giải thích
khác nhau đã đợc đa ra. Thứ nhất, theo
nhận định bởi các nhà quản trị và những ngời
hoạt động thực tế trên thị trờng, nguyên nhân
của phản ứng là do cổ phiếu bị suy vi (chia
nhỏ, làm loãng), giống nh một sự giảm về
chất. Theo lý luận này, khi phát hành cổ phiếu
làm cho các cổ đồng đang sở hữu các cổ

phiếu hiện hành của doanh nghiệp sẽ có giá
trị thấp hơn. Ngợc lại, khi doanh nghiệp mua
lại một số cổ phiếu sẽ làm tỷ lệ phần trăm về
quyền sở hữu của cổ đông đang sở hữu cổ
phiếu hiện hành tăng lên và do đó giá cổ
phiếu sẽ lên. Nh vậy, nếu doanh nghiệp phát
hành thêm cổ phiếu để huy động vốn có thể
có kết quả không nh mong muốn.
3.3. Quyết định tài chính và tăng
trởng bền vững
Khi một doanh nghiệp không có khả
năng hay không muốn bán ra các cổ phiếu
mới, thì tốc độ tăng trởng bền vững là:
g
*
=P.R.A.T
'
trong đó: P- hệ số lãi ròng
R- Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại;
A- Số vòng quay tài sản
T
'
- Đòn bẩy tài chính
Trong công thức trên, P và A đợc quyết
định bởi phần hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Thách thức tài chính là chính
sách cổ tức, là vấn đề huy động vốn và chiến
lợc tăng trởng sao cho doanh nghiệp phát
triển với tốc độ mong muốn mà không phải dùng
đến phơng cách phát hành cổ phiếu thờng.

3.4. Sự thận trọng
Các doanh nghiệp có tốc độ tăng trởng
cao hơn tốc độ tăng trởng bền vững sẽ phải
đơng đầu với thách thức kép là làm sao duy
trì tính linh hoạt về tài chính và ở mức có thể,
cần tránh các tín hiệu tiêu cực của việc thông
báo phát hành cổ phiếu mới. Muốn vậy doanh
nghiệp cần tiến hành một chiến lợc tài chính
sao cho tạo ra đợc tốc độ tăng trởng tối u.
Sau đây là các chính sách đề nghị:
- Doanh nghiệp cần duy trì hệ số đòn bẩy
tài chính thận trọng mặc dù khả năng vay
mợn còn thừa, nh vậy sẽ đảm bảo sự liên tục
trong quá trình tiếp cận các thị trờng tài chính.
- Thực hiện tỷ lệ chi trả cổ tức khiêm tốn
để doanh nghiệp có khả năng huy động phần
lớn lợi nhuận vào công cuộc phát triển nội bộ
của doanh nghiệp.
- Sử dụng các loại chứng khoán ngắn

hạn và khả năng vay mợn còn thừa cha sử
dụng tới nh là các công cụ có tính thanh
khoản tạm thời để cung cấp tài chính trong
một số năm đầu khi mà nhu cầu đầu t lớn
hơn các nguồn lực nội tại sẵn có.
- Nếu thấy huy động vốn bên ngoài là
cần thiết thì chỉ nên vay nợ khi không đe doạ
đến tính linh hoạt về tài chính. Bởi vì, đối với
một doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu
hay sử dụng các khoản vay họ có những cái

lợi sau:
+ Không bị chia sẻ quyền điều hành
doanh nghiệp;
+ Chi phí để có đợc vốn đợc giữ ở
một mức nhất định, do đó tính toán đợc và so
với cổ tức là một mức không tính đợc cho
nên huy động vốn bằng trái phiếu hoặc vay
đối với ngời có dự án rẻ hơn phát hành cổ
phiếu;
+ Tiền trả lãi đợc tính vào chi phí,
tức là giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp;
+ Dùng đợc "đòn bẩy tài chính" nên
có thể dùng tiền của ngời để thu lợi cho mình.
- Bán ra các cổ phiếu hoặc làm giảm tốc
độ tăng trởng chỉ áp dụng nh là những giải
pháp cuối cùng sau khi các biện pháp khác tỏ
ra vô hiệu. Khi bán ra các cổ phiếu, ngoài các
hạn chế đã nêu trên, doanh nghiệp có những
điều bất lợi là:
+ Quyền điều hành doanh nghiệp bị
chia sẻ và cổ đông có thể chuyển quyền đó
cho ngời khác; ngời sáng lập doanh nghiệp
sẽ mất quyền kiểm soát doanh nghiệp lúc nào
không hay, nếu nắm giữ ít cổ phần;
+ Lợi tức của doanh nghiệp bị chia
sẻ cho cổ đông.
+ Tăng thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp, bởi vì cổ tức trả cho các cổ đông
không đợc coi là một yếu tố chi phí.
Tuy nhiên, nó cũng đem lại cho doanh

nghiệp những mối lợi l:
+ Không bị buộc phải trả tiền gì cho
cổ đông;
+ Doanh nghiệp có uy tín vì có vốn
sẵn (nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng
cao) nên dễ vay nợ đợc;
+ Giá cổ phiếu sẽ tăng khi doanh
nghiệp làm ăn có lãi vì ngời đầu t thích mua
nó để tránh sự mất giá của đồng tiền.
Tóm lại: Khi doanh nghiệp có nhu cầu
huy động vốn để tài trợ cho các hoạt động
mình, có thể có nhiều cách chọn lựa công cụ
tài chính khác nhau nh phát hành cổ phiếu,
trái phiếu, hoặc sử dụng các công cụ vay nợ
khác. Tuỳ theo mục tiêu, doanh nghiệp cần
lựa chọn cho mình những công cụ tài chính
phù hợp, một mặt làm sao vừa đáp ứng đầy
đủ, kịp thời cho nhu cầu tài trợ, mặt khác, phải
đảm bảo nhịp độ tăng trởng ổn định, bền
vững và chi phí phải trả cho việc huy động vốn
là thấp nhất là một vấn đề hết sức phức tạp và
quan trọng. Với những nội dụng đã đề cập ở
trên chúng tôi hy vọng đáp ứng một phần nhỏ
bé nào đó làm cơ sở trong việc lựa chọn công
cụ tài chính khi huy động vốn của các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây
dựng giao thông nói riêng.
Tài liệu tham khảo
[1]. Luật s Nguyễn Ngọc Bích. Luật doanh nghịêp
vốn và quản lý trong công ty cổ phần. NXB Tuổi trẻ,

2000.
[2]. Nguyễn Tất Bình. Phân tích quản trị tài chính.
NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2002.
[3]. GS. TSKH. Nghiêm Văn Dĩnh, TS Phạm Văn
Vạng. Quản trị sản xuất kinh doanh của doanh
nghịêp xây dựng giao thông. Khoa Sau đại học -
Trờng đại học GTVT, 2000.
[4]. Nguyễn Hải Sản. Quản trị tài chính doanh
nghiệp. NXB Thống kê, 2001


×