Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Báo cáo khoa học: "Một số suy nghĩ về sự thiết lập mối liên hệ ng-ợc từ sinh viên tới giảng viên" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.83 KB, 3 trang )

Một số suy nghĩ
về sự thiết lập mối liên hệ ngợc
từ sinh viên tới giảng viên



Th.S. Phạm Văn ThơI
Bộ môn Mác Lênin - ĐH GTVT

Tóm tắt: Mối liên hệ ngợc l một đòn bẩy chủ
yếu. Với đòn bẩy đó giảng viên thực hiện công tác
quản lý quá trình học tập. Sự hiểu biết về trình độ nắm
tri thức v những nhu cầu về kiến thức của sinh viên l
những mục tiêu cho giảng viên xây dựng bi giảng của
mình với lợng kiến thức tối đa v với hình thức dễ tiếp
thu nhất.
Summary: Feedback is a primary leverage
based on which teachers undertake management o
f

learning process. The understanding of students
absorbability and their needs for knowledge makes up
targets for teachers to compose lectures that contain
maximum amount of knowledge and provide the mos
t

comprehensibleness.


ự tiến bộ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
đòi hỏi phải hoàn thiện hơn nữa việc


quản lý quá trình học tập.
"Việc quản lý quá trình học tập gồm nhiều
khâu khác nhau. Hiệu quả của việc giảng dạy và
học tập phụ thuộc vào mỗi khâu đó. Song, việc
giảng dạy trực tiếp, tức là các hình thức, phơng
pháp và biện pháp truyền đạt thông tin cho học
sinh là khâu đầu tiên và đồng thời cũng là khâu
chủ yếu. Xét dới dạng hoàn chỉnh, việc dạy học
đòi hỏi Mối liên hệ trực tiếp của giảng viên với
sinh viên và Mối liên hệ ngợc từ sinh viên tới
giảng viên" [1].
ở bài viết này không nói về vai trò, phơng
pháp và hình thức liên hệ trực tiếp, tức là, bằng
mối liên hệ ấy, thông tin của giảng viên đợc
truyền tới sinh viên. Trong hệ thống quá trình học
tập, liên hệ trực tiếp là nguyên tắc phơng pháp
luận quan trọng nhất của việc dạy học, là phơng
thức tích lũy kiến thức có lợi nhất, là phơng thức
truyền đạt thông tin quan trọng nhất. Nói một
cách khác, mối liên hệ trực tiếp, đó là con đờng
chính, mà qua đó giảng viên dẫn dắt sinh viên từ
chỗ không biết đến biết.
Còn vị trí của mối liên hệ ngợc thì nh thế
nào?
Nếu diễn đạt bằng ngôn ngữ của điều khiển
học thì mối liên hệ ngợc rất cần thiết để tìm
chuẩn số tối u cho việc truyền tin. Nếu nh
giảng viên không có những chuẩn số đó thì mọi
bài giảng, ngay cả những bài giảng có chất lợng
chuyên môn cao cũng không thể đạt đợc mục

đích do bị phá vỡ mối liên hệ lôgic với sinh viên.
Trong thực tế dạy học thờng có những hiện
tợng phá vỡ mối liên hệ đó trong khi giảng bài.
Ngời ta thấy rằng, giảng viên thờng không xác
định đợc sinh viên nắm đợc bài trớc đến đâu
và do đó đã tiến hành bài giảng theo một giáo
án quá phức tạp làm cho đa số sinh viên không
hiểu, hoặc ngợc lại theo một giáo án quá đơn
giản làm sinh viên mất hứng thú đối với bài giảng.
Cả hai trờng hợp đều phá vỡ mối liên hệ trực
tiếp, dòng thông tin bị gián đoạn.
Chúng tôi đã làm một số cuộc trắc nghiệm
khi giảng môn Kinh tế chính trị ở hai lớp KTXD 39
hệ chính quy và KTXD 34 hệ tại chức, tr
ờng Đại
học GTVT, đã chứng minh rằng, cùng một bài
giảng, do cùng một giảng viên giảng ở hai hệ có
số lợng giờ khác nhau, mức độ tiếp thu kiến thức
của sinh viên không giống nhau.
ở hệ đào tạo chính quy, nơi mà sinh viên
đợc nghe giảng đủ số giờ quy định, mối liên hệ
lôgic giữa giảng viên và sinh viên thể hiện trong 2
tiết giảng. Trong số 50 sinh viên chỉ có 4 sinh
viên tạm thời mất mối liên hệ đó (chiếm 8% tổng
số sinh viên).
S

ở hệ đào tạo tại chức các môn học đợc học
tối đa số giờ bằng 2/3 hệ đào tạo chính quy.
Trong suốt 2 tiết học có 26 sinh viên mất mối liên

hệ lôgic (chiếm gần 48%). Bản thân việc đó đã
nói lên kết luận cần thiết. Tại hệ đào tạo tại chức,
mối liên hệ lôgic với sinh viên bị phá vỡ do tính
chất quá phức tạp của bài giảng, do phải truyền
đạt một lợng kiến thức quá nhiều trong một số
giờ học quá ít.
Trong thực tiễn, ngời ta thờng thấy xuất
hiện hiện tợng: mở đầu bài giảng, mối liên hệ
lôgic giữa giảng viên và sinh viên đợc thiết lập
bình thờng. Nhng theo đà phát triển, dòng
thông tin tăng lên, sự chú ý của học viên đối với
bài giảng yếu đi và sau đó thì mất hẳn. Và rõ
ràng là, trớc hết những sinh viên khá nhất và
sau đó mới đến những sinh viên kém không tập
trung nghe giảng. Nghiên cứu các hiện tợng
tơng tự nh vậy đã cho thấy không một chút
nghi ngờ rằng nguyên nhân của hiện tợng đó là
do việc trình bày bài giảng quá giản đơn, thiếu sự
phân tích sâu sắc các hiện tợng và quá trình, có
sự phá vỡ mối liên hệ lôgic và sự phụ thuộc các
phạm trù và khái niệm. Nhìn bề ngoài, bài giảng
dờng nh rõ ràng và dễ hiểu, nhng thực ra nó
đã bị đơn giản hóa đến mức thô thiển.
Song, vấn đề lãnh đạo quá trình học tập có
mối liên hệ ngợc không chỉ là việc "lựa chọn
phơng án bài giảng không quá phức tạp hay quá
đơn giản". Một giảng viên có kinh nghiệm có thể
đạt đợc việc đó mà không cần có hiểu biết nhiều
về sinh viên, họ có thể sử dụng ngay luồng hiểu
biết gián tiếp, ví dụ nh điểm kiểm tra học kỳ.

Chính khả năng nhận thức không đồng đều
của sinh viên làm cho giảng viên khó định hớng
trong khi truyền đạt kiến thức. Trong một lớp học
có thể phân chia làm 3 loại: khá (chiếm số ít), loại
trung bình (chiếm đa số) và loại yếu kém (cá
biệt). Giảng viên cần phải định hớng vào loại
nào khi truyền đạt kiến thức? Chắc chắn là loại
trung bình vì loại này chiếm đa số trong sinh viên.
Nhng mối liên hệ ngợc đó còn có một
chức năng quan trọng khác: mở rộng phạm vi
công tác cá biệt với mỗi sinh viên. Đây là một
điều kiện không thể thiếu để đào tạo đội ngũ cán
bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao.
Mỗi giảng viên có kinh nghiệm đều đặt cho
mình mục tiêu cụ thể. Đại thể có thể diễn đạt nh
sau: nâng số học sinh kém lên trung bình, nâng
trình độ chung của toàn thể sinh viên, làm tăng
(về mặt số lợng) số sinh viên khá giỏi, tăng
cờng sự chú ý của họ đối với bộ môn mình dạy
và làm cho họ nắm sâu kiến thức. Nhng không
thể đạt đợc điều đó nếu không sử dụng hình
thức phân loại sinh viên để có biện pháp giúp đỡ
sinh viên yếu kém. Chính vì vậy, mối liên hệ
ngợc với t cách là một trong những hình thức
phân loại sinh viên là phơng tiện để đạt mục
đích đó.
Cuối cùng, mối liên hệ ngợc càng cần thiết
đối với chính sinh viên. Chúng ta, ai cũng biết
rằng mỗi một lớp học đều có một số sinh viên
cần cù, nhng họ lại có những nhầm lẫn trong

kiến thức. Có rất nhiều ví dụ trong thực tiễn để
chứng minh điều đó. Khi giảng môn Kinh tế chính
trị, trong đề thi có câu: Phân tích nguyên nhân
hình thành chủ nghĩa t bản độc quyền, thì sinh
viên lại trình bày về nguyên nhân hình thành về
chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc. Trong đề
thi phân tích các phơng pháp sản xuất giá trị
thặng d thì chỉ hạn chế ở sự đa ra khái niệm
v.v Đáng tiếc là tất cả những cái đó chỉ bộc lộ
trong kỳ thi, khi mà không thể "sửa sai" đợc nữa.
Trong khi đó thì chính những sinh viên cần cù
học tập là ngời nghe giảng tốt và phát biểu tại
các cuộc thảo luận có chất lợng, nhng lúc nào
đó, mối liên hệ trực tiếp bị trục trặc và dẫn tới kết
quả "xấu" mà cả giảng viên lẫn sinh viên đều
không nhận thấy trong thời gian học tập. Điều đó
có thể không xảy ra nếu thiết lập tốt mối liên hệ
ngợc.
"Nh vậy, mối liên hệ ngợc linh hoạt l bộ
phận cấu thnh của quá trình học tập, l một
khâu cần thiết của quá trình đó. Khâu ny dùng
lm tiêu chuẩn phơng pháp luận để kiểm
nghiệm việc nắm thông tin tối u qua mối liên hệ
trực tiếp, l một ph
ơng tiện quan trọng của việc
kiểm tra v tự kiểm tra hiệu quả" [2].
Trong các hình thức dạy học hiện nay, mối
liên hệ ngợc đã đạt đợc đến mức nào ?
Trong phần lớn các trờng đại học ở nớc
ta, khi các hình thức dạy học truyền thống đang

thống trị thì mối liên hệ ngợc còn bị hạn chế ở
mức tối thiểu.
Thực ra, hoạt động quản lý các quá trình học
tập của các trờng đại học hiện nay đợc thực
hiện theo cái gọi là "kết quả cuối cùng" (kết quả
kỳ thi hoặc kiểm tra) bởi vì hình thức dạy học cổ
điển không có những phơng tiện thông tin ngợc
đầy đủ và linh hoạt.
Thực ra có một số nguồn mà qua đó, giảng
viên trong suốt cả học kỳ, tìm hiểu đợc mức độ
nắm kiến thức của sinh viên (bài kiểm tra, bài tập

lớn, các buổi thảo luận v.v ). Nhng sự hiểu biết
nh vậy không thể coi là đầy đủ, toàn diện và liên
tục. Giảng viên mất khả năng can thiệp vào quá
trình học tập từng phần, hoặc theo liều lợng kiến
thức, nh chúng tôi đã nói, có ý nghĩa là không
thể quản lý một cách linh hoạt đợc toàn bộ quá
trình học tập.
Chẳng hạn, ở Bộ môn Lý luận Mác - Lênin
tại các buổi thảo luận một bài học trong hai giờ,
nhiều nhất là có từ 5 đến 7 sinh viên phát biểu.
Mối liên hệ ngợc đó đối với giảng viên thật là ít
ỏi. Đó là thiếu sót cơ bản.
ở mức độ lớn hơn, tình hình về các bài kiểm
tra lại càng nh thế. Lợng thông tin nhận thức
đợc theo tuyến này, do không đầy đủ và không
nhanh nhậy nên giảng viên không thể dùng làm
"cơ sở điều chỉnh" để lựa chọn phơng án tối u
của bài giảng. Vì rằng những bài tập kiểm tra

không đợc tiến hành theo những liều lợng kiến
thức nhỏ mà lại theo cả từng chơng, từng học
phần.
Hiện nay trờng Đại học GTVT đang đẩy
mạnh đổi mới phơng pháp giảng dạy phát huy
tính tích cực của sinh viên trong giờ học, giảm bớt
số giờ thực giảng mà vẫn đảm bảo cung cấp
thông tin, kiến thức đầy đủ cho sinh viên theo yêu
cầu của bài giảng. Bộ môn Mác - Lênin trờng
Đại học GTVT đang nghiên cứu áp dụng giảng
dạy môn Kinh tế chính trị theo sơ đồ, với phơng
pháp này số lợng tin truyền từ giảng viên tới sinh
viên và từ sinh viên tới giảng viên nói chung cần
theo tỷ lệ cân đối. Đó là điều kiện chủ yếu để
quản lý toàn diện và có hiệu quả các quá trình
học tập. Bởi vì, lợng thông tin mà giảng viên thu
nhận đợc càng đầy đủ thì giảng viên càng tích
cực can thiệp vào quá trình học tập, quản lý nó
một cách sáng tạo, tăng lợng tin này hay lợng
tin kia, điều chỉnh kịp thời v.v Và ngợc lại,
lợng thông tin mà giảng viên thu nhận đợc
càng ít thì giảng viên càng thụ động hơn trong
việc quản lý các quá trình, do thiếu những tín hiệu
về những điểm yếu trong kiến thức của sinh viên.
Tuy nhiên, trong các phơng pháp dạy học
hiện nay, số lợng thông tin truyền qua mối liên
hệ trực tiếp nhiều gấp hàng chục lần số l
ợng
thông tin truyền qua tuyến liên hệ ngợc. Mối liên
hệ ngợc trong các hình thức dạy học, truyền

thống không bảo đảm: đầy đủ, liên tục, nhạy bén.
Do vậy, việc quản lý quá trình học tập một cách
khoa học trong điều kiện các hình thức giảng dạy
và học tập đó bị hạn chế.
Thực tế hiện nay nhiều cán bộ giảng dạy có
kinh nghiệm và tài năng có thể quản lý quá trình
học tập ngay trong tiến trình của chính bài giảng,
khi nhận đợc luồng thông tin trở lại, chẳng hạn
bằng cách đặt vấn đề khéo léo, sử dụng yếu tố
tâm lý, nhanh chóng điều chỉnh khi mối liên hệ
lôgic với sinh viên bị đứt đoạn và v.v
Giảng viên cũng có thể nhận đợc tín hiệu
về "sự nhầm lẫn" không phải khi ngừng mối liên
hệ trực tiếp (bài giảng) mà do biết quan sát về
mặt tâm lý. Muốn thế, một câu hỏi cũng đợc nêu
ra, nhng không phải với mục đích nhận đợc
câu trả lời bằng miệng của sinh viên mà chỉ để
động viên sinh viên trả lời trong óc về câu hỏi đó.
Việc đó có thể đạt đợc kết quả, thứ nhất, sinh
viên huy động một cách tích cực những kiến thức
đã tiếp thu đợc từ trớc để lĩnh hội tốt hơn thực
chất của kiến thức mới và thứ hai, tạo cho giảng
viên có khả năng xác định xem sinh viên có thể
trả lời đợc câu hỏi đó hay không, bằng sự quan
sát sinh viên trong thời điểm nêu ra câu hỏi.
Bằng sự quan sát nét mặt của sinh viên,
giảng viên luôn luôn có thể biết đợc rằng sinh
viên hiểu biết các vấn đề ấy có đầy đủ không. Và
phải chăng, việc mất liên hệ lôgic với sinh viên lại
không phải là tín hiệu chứng tỏ cần sửa đổi

phơng pháp truyền đạt thông tin, lại không phải
là phơng hớng để quản lý quá trình học tập hay
sao ?
Song, việc phát hiện đúng đắn và chú ý đến
các phơng hớng đó đòi hỏi sự nỗ lực lớn của
các giảng viên, nó thờng đợc thực hiện một
cách trực giác với sự cố gắng lớn mà chỉ các
giảng viên có kinh nghiệm mới làm đợc. Vì vậy,
cần phải căn cứ vào các công trình nghiên cứu về
phơng pháp rộng rãi để tìm tòi những hình thức
liên hệ trở lại mới, những hình thức này giúp cho
việc quản lý linh hoạt và đầy đủ các quá trình học
tập.
Kết luận, theo chúng tôi, việc tổ chức tự
kiểm tra của sinh viên bằng các phơng tiện kỹ
thuật, việc tiến hành kiểm tra miệng và làm bài
kiểm tra là hình thức có triển vọng nhất để hoàn
thiện việc quản lý các quá trình học tập bằng
cách thu nhận thông tin đầy đủ từ phía sinh viên.

Tài liệu tham khảo
[1], [2]. "Về quản lý học tập", NXB SGK Mác-Lênin
1991, trang 178 - 183 Ă


×