Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nhóm mại dâm đồng giới và những nguy cơ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.79 KB, 9 trang )

Nhóm nam mại dâm đồng giới và những nguy
cơ xã hội


Trịnh Thị Thu Hà


Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
Luận văn ThS. ngành: Xã hội học; Mã số: 60 31 30
Người hướng dẫn: GS.TS. Lê Thị Quý
Năm bảo vệ: 2011


Abstract. Khái quát một số đặc điểm kinh tế - xã hội cơ bản của nhóm mại dâm
đồng giới nam tham gia nghiên cứu. Mô tả thực trạng thực hành các hành vi nguy cơ
cao trong nhóm mại dâm đồng giới nam. Cụ thể: cuộc sống tình dục đa dạng bạn
tình; đa dạng hình thức quan hệ tình dục; việc sử dụng các biện pháp tình dục an
toàn; sử dụng chất kích thích, chất gây nghiện có ảnh hưởng đến các hành vi tình
dục. Phân tích thực trạng mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS
của nhóm mại dâm đồng giới nam tham gia nghiên cứu; kiến thức của họ về các
bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đưa ra những biện pháp can thiệp, những
hướng giải quyết cho nhóm mại dâm nam đồng giới để hạn chế những hành vi nguy
cơ và phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục cho bản thân họ.

Keywords. Xã hội học; Đồng giới nam; Tệ nạn xã hội; Mại dâm

Content
1. Lí do chọn đề tài
Nam mại dâm đồng giới và những người đồng tính (người có khuynh hướng tình dục
đồng giới) là một hiện tượng mới nổi lên gần đây ở Việt Nam, và nó đang được dư luận, báo
chí hết sức quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên hiện tượng đồng tính hay những người có khuynh


hướng tình dục đồng giới không phải bây giờ mới xuất hiện; hiện tượng này cũng không phải
là một hệ quả xã hội như nhiều bài báo đã đề cập mà đồng tính là một hiện tượng tự nhiên
cũng giống như khuynh hướng tình dục dị giới trong xã hội loài người; mặc dù khuynh
hướng tình dục đồng giới luôn bị phê phán, bài trừ trong các trường phái đạo đức xã hội và
tôn giáo.
Ở Việt Nam hiện tượng đồng tính cũng không phải bây giờ mới xuất hiện nhưng thực
sự bây giờ vấn đề đồng tính mới được báo chí và dư luận quan tâm nhiều đến vậy. Hầu hết
các bài báo đều đề cập người đồng tính với sự khác người, dị biệt và có đời sống tình dục xấu
xa, đáng phê phán; đặc biệt sự xuất hiện của nhóm trai bán dâm cho những người đồng tính
càng làm dư luận có ác cảm nhiều hơn với nhóm này.
Nhóm nam bán dâm đồng giới thường là những chàng trai trẻ phục vụ cho nhu cầu
tình dục của những người nam giới khác để nhận lấy tiền hoặc quà tặng, hoặc một vật chất
nào đó khác. Và cho dù có khá nhiều bài báo, có nhiều phóng sự và cả những nghiên cứu về
nhóm mại dâm đồng giới nam thì cho đến nay hiện tượng này vẫn là một vấn đề hoàn toàn
mới, bởi vì người ta chưa có được một bức tranh đầy đủ, toàn cảnh và những hiểu biết toàn
diện về nhóm này; đặc biệt với cả hiện tượng mại dâm đồng giới nam cũng là một câu chuyện
mới trong giới nghiên cứu và dư luận xã hội.
Trước đây khi nói đến mại dâm, chúng ta thường nghĩ ngay đến hoạt động mại dâm dị
giới, đó là nữ bán dâm cho nam hoặc nam bán dâm cho nữ; vì vậy khi xuất hiện những người
nam giới bán dâm cho nam giới hoặc nữ giới bán dâm cho nữ giới thì có vẻ như là chuyện hết
sức kì lạ. Chính vì là như vậy nên hầu hết chúng ta đang nhìn nhóm mại dâm đồng giới nam
này với con mắt hết sức tò mò, lạ lẫm và kì thị ghê gớm. Chính quyền, luật pháp cũng chưa
có chế tài cụ thể cho nhóm người này. Mại dâm nói chung ở nước ta là đang bị cấm, nhưng
những quy định cụ thể đối với mại dâm nam đồng giới lại chưa có nên nhóm này vẫn hoạt
động khá nhộn nhịp mà không bị cấm đoán gì, có chăng họ chỉ bị bắt khi vướng vào các tội
danh khác như trộm cắp, buôn lậu, ma túy….
Theo kết quả của các nghiên cứu, điều tra đã hoàn thành về nam bán dâm đồng giới, ví
dụ như: “Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI” (IBBS) trên
790 đồng tính nam tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh năm 2005 – 2006 cho thấy nhiều
nam giới quan hệ tình dục đồng giới trả lời có bán dâm trong vòng 1 tháng trước thời điểm

điều tra (22% ở Hà nội và 41% ở thành phố Hồ Chí Minh). Điều đáng chú ý là những người
nam quan hệ tình dục đồng giới trả lời có bán dâm phần lớn cũng đều trả lời có tiêm chích ma
túy (mặc dù không có thông tin về loại hành vi nào xuất hiện trước, nghiện ma túy hay bán
dâm), nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy giữa hai loại hành vi này có mối quan hệ với
nhau. Nghiên cứu này cũng cho thấy trong số nam đồng tính có bán dâm thì nhiều người
cũng có mua dâm nữ: Ở thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ này là 28% trong nhóm nam có bán
dâm và 6% trong nhóm nam không bán dâm (tỉ lệ này chưa có con số cụ thể tại Hà nội). Thực
tế những người này vừa là nam bán dâm vừa là khách hàng mua dâm của nữ mại dâm; điều
đó cho thấy sự giao thoa phức tạp về hành vi nguy cơ trong nhóm nam bán dâm, và nó cũng
phù hợp với các báo cáo xuất hiện ở các nước trong khu vực như Thái Lan hoặc Philippines.
Một nghiên cứu khác ở nhóm nam bán dâm ở Hà Nội do nhóm nghiên cứu của Đơn vị nghiên
cứu Sức khỏe cộng đồng, Đại học Y Hà Nội thực hiện năm 2007 cũng cho thấy: hơn 80%
nam giới trong tổng số 110 mẫu là nam thanh niên từ các tỉnh khác về Hà nội; khoảng 75%
nói mình bán dâm là vì lí do kinh tế, tuy nhiên cũng có khoảng hơn 20% nói rằng việc bán
dâm là do muốn có quan hệ tình cảm và tình dục với một người đàn ông khác. Như vậy lí do
bán dâm của họ không phải là đơn giản chỉ vì tiền.
Xuất phát từ các hình thức quan hệ tình dục chứa đựng nhiều nguy cơ như các hành vi
quan hệ tình dục hậu môn và mạng lưới bạn tình đa dạng về giới tính, tuổi tác, quốc tịch;
cộng thêm cả sự thiếu chủ động trong việc thực hiện các biện pháp tình dục an toàn khiến cho
những người bán dâm đồng giới nam có nguy cơ cao đối với các bệnh lây truyền qua đường
tình dục và HIV/AIDS. Chính vì vậy nghiên cứu này của tôi nhằm tìm hiểu về những nguy cơ
xã hội mà những người trong nhóm mại dâm đồng giới nam này có thể vướng phải; cụ thể
hơn là nguy cơ đối mặt với các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS là hệ quả
của đời sống tình dục đa dạng và lối sống thiếu kiểm soát của họ.
Nghiên cứu của tôi là về vấn đề “Nhóm nam mại dâm đồng giới và những nguy cơ xã
hội”, trong đó tôi tập trung nghiên cứu về các hành vi nguy cơ liên quan đến các bệnh lây
truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS của nhóm nam mại dâm đồng giới trên địa bàn Hà
Nội.
Nghiên cứu về một quần thể ẩn như nhóm nam mại dâm đồng giới có rất nhiều khó
khăn và thách thức, nhưng may mắn tôi đã được tham gia và nghiên cứu “Các đặc điểm nhân

khẩu học, xã hội học và nguy cơ lây nhiễm một số bệnh lây truyền qua đường tình dục trong
nhóm mại dâm đồng tính nam tại một số thành phố lớn ở Việt nam” do Trung tâm nghiên cứu
đào tạo HIV, Trường đại học Y Hà nội thực hiện trong năm 2008 đến năm 2010. Tôi đã tham
gia nghiên cứu này từ giai đoạn đầu tiên, xây dựng bộ công cụ cho nghiên cứu, lựa chọn
phương pháp nghiên cứu và có một quá trình dài 2 năm đi điền dã ở các khu vực xuất hiện
của nhóm nam mại dâm đồng giới. Chính trong quá trình đi điền dã và tham gia vào hoạt
động của nghiên cứu nói trên tôi đã có quyết tâm để thực hiện đề tài của bản thân mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học:
Nghiên cứu này có sử dụng hai lý thuyết để phân tích đó là: lý thuyết về sai lệch chuẩn
mực xã hội và lý thuyết về tương tác biểu trưng – sự gán nhãn. Trong phạm vi của một
nghiên cứu nhỏ, tôi rất mong có thể kiểm chứng những lý thuyết mà mình đã học vào thực tế
xã hội, cụ thể hơn là ở nhóm nam mại dâm đồng giới ở Hà nội. Từ đó tôi có thể hiểu sâu sắc
hơn về lý thuyết mà mình đã học, đồng thời có thể vận dụng tốt lý thuyết trong tương lai ở
các nghiên cứu sắp tới.
Ngoài ra những kết quả tôi tìm được từ nghiên cứu này có thể giúp được phần nào
những bạn sinh viên mong muốn tìm hiểu về nhóm mại dâm đồng giới nam có được một góc
nhìn mới về nhóm này.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng nhóm mại dâm đồng giới nam và tính nguy
cơ cao của họ với căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục
khác. Qua đó sẽ cho chúng ta biết rõ hơn về nhóm mại dâm đồng giới nam, sẽ góp phần vẽ
được một bức tranh đầy đủ về nhóm này và nhận diện họ được trong các nhóm xã hội, đồng
thời qua việc đánh giá được nguy cơ cũng như tình trạng mắc các bệnh lây truyền qua đường
tình dục của họ để có những biện pháp can thiệp hiệu quả lên chính nhóm này và có các biện
pháp phòng trừ cho cộng đồng. Ngoài ra nghiên cứu này cũng giúp cho các nghiên cứu khác
hoặc những người quan tâm đến vấn đề này có những kiến thức nhất định về nhóm mại dâm
đồng giới nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng cuộc sống của những người bán dâm đồng
giới nam: những hành vi nguy cơ với các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là
HIV/AIDS. Sự liên hệ giữa những hành vi nguy cơ với các kết quả xét nghiệm bệnh của họ
có thể cho chúng ta biết yếu tố nào có ảnh hưởng mạnh, mang tính quyết định đến khả năng
phòng tránh bệnh tật cho bản thân những người bán dâm đồng giới nam và xa hơn là phòng
tránh cho cộng đồng. Qua đó cũng có thể đưa ra những kế hoạch can thiệp hiệu quả và phù
hợp hơn cho nhóm mại dâm đồng giới nam.
3.2. Nhiệm vụ cụ thể:
* Mô tả một số đặc điểm kinh tế - xã hội cơ bản của nhóm mại dâm đồng giới nam
tham gia nghiên cứu.
* Mô tả thực trạng thực hành các hành vi nguy cơ cao trong nhóm mại dâm đồng giới
nam. Cụ thể: Cuộc sống tình dục đa dạng bạn tình; đa dạng hình thức quan hệ tình dục; việc
sử dụng các biện pháp tình dục an toàn; sử dụng chất kích thích, chất gây nghiện có ảnh
hưởng đến các hành vi tình dục.
* Mô tả thực trạng mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS của
nhóm mại dâm đồng giới nam tham gia nghiên cứu. Kiến thức của họ về các bệnh lây truyền
qua đường tình dục.
* Đưa ra những biện pháp can thiệp, những hướng giải quyết cho nhóm mại dâm nam
đồng giới để hạn chế những hành vi nguy cơ và phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình
dục cho bản thân họ.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu này là: Nhóm nam mại dâm đồng giới và những nguy cơ xã
hội. (Nghiên cứu tại địa bàn Hà Nội).
4.2. Khách thể nghiên cứu:
- Những người nam giới có hoạt động bán dâm cho một người nam giới khác để nhận
tiền hoặc vật chất. Những người này phải đảm bảo các tiêu chí sau: là nam giới có quan hệ
tình dục với một người nam giới khác và nhận được vật chất trong vòng 90 ngày qua; nằm
trong độ tuổi từ 16 đến 35 tuổi tính ở thời điểm tham gia điều tra; cư trú tại Hà Nội trong
khoảng thời gian 1 tháng trở lên.

- Bác sĩ tư vấn cho nhóm nam bán dâm đồng
- Những người dân vẫn thường xuyên tiếp xúc và có nhiều trải nghiệm cùng những
người bán dâm đồng giới nam tại các địa bàn công cộng như hồ Hoàn kiếm, hồ Thiền Quang,
hay các khu vực kín như khu tẩm quất nam Quan Thánh.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Nghiên cứu này được tiến hành ở Hà nội
- Về mặt thời gian: Nghiên cứu diễn ra trong khoảng từ tháng 1/2009 đến tháng
10/2010, thời gian để điều tra bảng hỏi là từ tháng 3/2010 đến tháng 10/2010. Trước thời gian
đó là các hoạt động thực địa, xây dựng đề cương, xây dựng bảng hỏi phục vụ điều tra.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Công thức tính cỡ mẫu tham gia nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu Dự án “Các đặc điểm nhân khẩu học, xã hội học và nguy cơ lây
nhiễm một số bệnh lây truyền qua đường tình dục trong nhóm mại dâm đồng tính nam tại
một số thành phố lớn ở Việt nam” đã sử dụng công thức tính cỡ mẫu sau để tính toán mẫu
nghiên cứu cho địa bàn Hà Nội:
n =
N
qpz
ME
MEqpz



2
2
22

Trong đó:
n: có mẫu nghiên cứu cần có
N: quần thể nghiên cứu cứu (nhóm nam bán dâm đồng tính tại địa bàn nghiên cứu

p: tỷ lệ HIV (+) trong nhóm nam bán dâm
q = 1 – p
ME: khoảng sai lệch cho phép giữa tỷ lệ HIV (+) thu được từ mẫu nghiên cứu so với
quần thể
o = 0,05 => z (z
1-o/2
) = 1,96
Như vậy, cỡ mẫu nghiên cứu tại Hà Nội sẽ là:
- N = 400 (dựa trên con số ước tính của Donn Colby và cộng sự năm 2003)
- p = 0,08 (dựa trên nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự năm 2004)
- ME = 0,03
Vậy cỡ mẫu nghiên cứu tại Hà nội là 176 đối tượng. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn
bảng hỏi và làm các xét nghiệm bệnh trên số 176 người này.
5.2. Phương pháp thu thập mẫu nghiên cứu
Vì nhóm mại dâm đồng giới nam là một quần thể ẩn, họ rất khó để nhận biết và tiếp
cận cũng như có thể mời họ tham gia vào nghiên cứu, nên nghiên cứu viên đã phải xây dựng
một kế hoạch tìm kiếm và tiếp cận với nhóm này và tạo dựng mối quan hệ với họ trước khi
mời họ về tham gia nghiên cứu.
Phương pháp lựa chọn mẫu sẽ là Time – location sampling. Phương pháp này dựa trên
cơ sở: mỗi một nhóm xã hội thường có những tụ điểm nhất định mà ở đó họ thường gặp gỡ,
chia sẻ với nhau và để tiến hành các hoạt động mang đặc trưng của nhóm. Với nhóm mại dâm
đồng giới nam cũng vậy. Nghiên cứu viên đã tiến hành tham khảo ý kiến của những người có
nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực mại dâm đồng giới nam và có tham khảo các nghiên cứu trước
đó để nhận diện những địa điểm ban đầu nhóm này thường xuất hiện.
Kết quả ban đầu là một số địa điểm như hồ Hoàn Kiếm, hồ Thuyền Quang, khu vực
Quan Thánh và các tụ điểm Spa, các quán bar, club dành cho người đồng tính. Sau đó nghiên
cứu viên tiến hành đi thực địa tại các địa điểm này, các buổi thực địa được xây dựng làm sao
đảm bảo tiêu chuẩn: các khung giờ xuất hiện tại địa bàn đảm bảo được xuất hiện đầy đủ trong
vòng 1 tuần và đảm bảo để các nhóm xã hội trên địa bàn dần quen với sự có mặt của nghiên
cứu viên và dần chấp nhận nghiên cứu viên như một thành viên trong bối cảnh chung ở địa

bàn; dần dần có những tiếp xúc ban đầu với các đối tượng là trai bán dâm đồng giới, nghiên
cứu viên có những tiếp xúc ban đầu với họ, làm quen với họ, quan sát cuộc sống của họ,
những thói quen, cách làm việc, các mối quan hệ trong nhóm…. Sau đó, nghiên cứu viên sẽ
xây dựng một bảng biểu các ngày trong tuần và các khung giờ khác nhau tại các địa điểm,
các khung giờ đó phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn có ít nhất 8 người trong nhóm chủ đích (tức
những người bán dâm đồng giới nam) có xuất hiện trong vòng 2 tiếng. Các khung giờ đó sẽ
được ghi lại, trong quá trình điều tra, các điều tra viên sẽ đến địa bàn, tại các địa điểm đó và
“bắt” đối tượng về tham gia nghiên cứu.
Tuy nhiên, phương pháp chọn mẫu Time – location sampling chỉ mới áp dụng được
một nửa quá trình thu nhận người tham gia điều tra thì số lượng người tham gia nghiên cứu
trên các địa bàn dần cạn kiệt. Điều đó cũng do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác
nhau. Về khách quan: thời gian thu nhận người tham gia điều tra gần với thời điểm Hà nội tổ
chức lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long Hà nội nên các địa điểm công cộng những người bán

×