Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.32 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hơn hai mươi năm năm đã trôi qua kể từ ngày chiếc xe tăng số 834 của quân đội
nhân dân húc đổ cánh cửa dinh độc lập, lá cờ cách mạng phấp phới bay trên nóc
hang ổ Ngụy quyền, báo hiệu sự chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh tòn
thắng. Thời gian tuy lùi xa dần nhưng khổng thể làm phai mờ những hồi ức mãi
mãi tươirói về về một trong những trang sử hào hùng nhất của dân tộc Việt Nam.
Một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX; Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa
xuân 1975 là sản phẩm tất yếu của tòan bộ quá trình đấu tranh gian khổ của dân tộc
Việt Nam vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Nó bắt nguồn tự sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng, sự chỉ huy chiến lực và chiến lược tài tình của bộ chỉ huy quân sự
và bộ Chính trị . Có thể nói thành công của nhân dân ta bằng1 câu: “Biết mở đầu
đúng đắn biết đánh lâu dài và biết kết thúc đúng lúc”.
Cuộc kháng chiến chống pháp dành thằng lợi đã khảng đinh được vai trò
lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng Việt nam. Trước đó
Trong các phong trào cách mạng chống Pháp của dân tộc đã có rất nhiều Các nhân
Sỹ yêu nước đi tìm đường cứu nước giai phóng dân tộc khỏi ách áp bức của chủ
nghĩa thực dân, và cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi nhưng nơi tuy
có dành được những tháng lơi nhưng cuối cùng cũng bị that bại. Chỉ đến khi Đảng
cộng sản Việt nam ra đời vào 3/2/1930 sau Quá trình chuẩn bị lâu dài và công phu
của đồng chí Nguyển Ai Quốc thì cách mạng Việt Nam mới đạt được nhưng thắng
lợi quyết dịnh giải phóng dân tộc ta. Nhưng trong kháng chiên chống Mỹ mới cho
thây sự trưởng thành lớn mạnh của Đảng ta trong vai trò lãnh đạo cách mạng Việt
Nam điền thằng lợi cuối cùng .
I. Hoàn cảnh lịch sử khi đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới
Sau khi kí hiệp đ ịnh Giơ-Ne-Vơ 1954 Mặc dù pháp rất ngoan cố, g ây cho
ta nhi ều khó khăn nhưng do nhân d ân ta kiên quyết đấu tranh nên đến 16/5/1955,
toàn bộ quân viễn chinh pháp đã rút khỏi miền bắc . sau khi thực dân pháp rút đi ta
tiếp quản một nền kinh tế kiệt quệ lac hậu . Lực lựơng vũ trang nhỏ bé,trong điều
kiện thù trong giăc ngoài đang uy hiếp ngiêm trọng những thành quả của cuộc cách
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


mạng. Tuy vậy t ình hình chính trị xã h ội trên toàn miền bắc đã nhanh chóng ổn
định . Tuy nhiên ở miền nam đế Qu ốc M ỹ lại thực hiện âm mưu biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Thời hạn hai năm đã qua nhân dân ta
lại tiếp tục đấu tranh một thời gian nữa Nhưng nhà cầm quyền miến Nam vẫ từ chối
hiệp thương với miến Bắc gìm phong trào yêu nước của nhân dân ta trong biển
máu.
Trong khi đó tình hình thế giới, tuy các nứơc Liên Xô, Trung Quốc và các
Nước XHCN khác Vẫn còn viên trợ cho ta nhưng tình hình thế giới đã có nhiều
thay đổi. Từ giữa thập kỷ 50 trở đi trong cá nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa
và trong phong trảo cộng sản quốc tế xuất hiện sự bất động ngày càng ngiêm trọng
trên nhiều vấn đề về chiến lược, sách lược và phương thứa đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và thế lực phản đông trên phạm vi toàn thế giới, về phương thức tiến
hành cách mạng để giả phóng phần cò lại của nhân loại dưới sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản và đế quốc. Đó là nguyên nhân chủ yếu của những sử bất hoà và chia
rẽ, là trở ngại lớn cho việc đoàn kết tập hợp các lực long cách mạng và tiến bộ trên
thế giới đấu tranh vì hoà bình tiến bộ và độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội .
II.Định hướng chiến lược của trung ương và của chủ tịch Hồ Chí Minh
trong giai đọan đầu chống Mỹ.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, chống Mỹ, cứu nước đã trỡ thành
nhiệm vụ hàng đầu của cả nước đó là vì:
1.Am mưu của đế quốc Mỹ không chỉ thôn tính miền Nam mà còn chiếm các nước
Việt Nam Campuchia và Lào.
2.Muốn giải phong miền Nam, muốn thắng được tên đế quốc đầu sỏ giàu mạnh thì
phải sử dụng mọi lực lượng, mọi hình thức, mọi biện pháp; phải đưa lực lượng cả
nước ra đánh Mĩ.
3.Miền Bắc không thể củng cố và xây dựng CNXH khi miền Nam chưa được giải
phóng.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách mạng trong thời kì đầu được biểu hiện ở mối

quan hệ giữa củng cố Miền Bắc và giữ gìn lực lượng cách mạng, tạo điều kiện tiến
lên giành mục tiêu cuối cùng là giải phóng miền Nam.
Thực tiễn cách mạnglúc này cho thấy, muốn giải phóng miền Nam, trước mắt phải
giữ gìn lực lượng cách mạng, không thể để kẻ thù tiêu diệt; đồng thơì miên Bắc
phải đượp củng cố, hậu quả của chiến tranh phải được khắc phục, mới có thể làm
tròn nhiệm vụ hậu phương cho miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế.
Trong báo cáo chin trị tạilần thứ 6 BCHTƯ Đảng (7-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu ra một phương hướng chiến lược được thực tiễn lịch sử chưng minh là vô
cùng sáng suốt: “ Hiện nay đế quốc Mĩ là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương
cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mĩ”.
Người còn phân tích dự đoán tình hình chính xác cà nêu ra đinh hướng chiến lược
cho cách mạng nước ta:
“Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, âm mưu và kế hoạch của Mĩ cũng thay đổi để kéo
dài chiến tranh Đông Dương, phá hoại hiệp định Giơ nevơ, tìm cách hất cẳng Pháp
để tìm cách chiếmba nước Việt Miên Lào thành nô lệ của Mĩ và gây thêm tình hình
căng thẳngtrên thế giới. Cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mĩ.Bất
kìngười nào nước nào không thân với Mĩ đều có thể làm Mặt trận thống nhất ( dù là
tạm thời với ta). Đế quốc Mĩ cố tình phá hoại hoà bình, khả năng tiếp tục chiến
tranh chưa hết, nhưng khả năng kí hiệp định Giơnevơ đang trở thành hiện thực. Tại
Hội nghị nay, pháp đã chịu cam kếtđịnh kì rút quân khỏiba nước Đông Dương”.
“Hiện nay tình hình đã đổi mới nhiệm vụ của ta do đó cũng thay đổi cho phù hợp
với tình hình mới’.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý cán bộ chiến sĩ cả nước; “tranh thủ lấy hoà bình
không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh truờng kỳ gian khổ phức
tạp…”.Người đưa ra ba nhiệm vụ, 1o công tác trước mắt.:
1 – tranh thủ và củng cố hoà bình, hoàn thành thống nhất, độc lập dân chủ
trong toàn quốc.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2 – tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây doing một quân đội nhân

dân mạnh mẽ và thích hợp với yêu cầu tình thế mới.
3 – tiếp tục thực hiện người cày có ruộng;ra sức phục hồi sản xuất, chuan bị
điều kiện thống nhất nước nhà”.
Tại hội nghị trung ương ấy đồng chí Trường Chinh đọc báo cáo Để hoàn
thành nhiệm vụ đẩy mạnh công tác trước mắt. Báo cáo phân tích rõ hơn việc xây
dựng lực lượng vũ trang: “… một ngày nào mà quân đội ngoại quốc chứ rút hết
khỏi đông dương thì hoà bình chưa được củng cố. Hơn nữa dù quân đội ngoại quốc
rút hết khỏi Đông Dương mà trên thế giới vẫ còn bọn đế quốc thì hoà bình của
nhân dân vẫn chưa được bảo đảm. Vì vậy phải luôn luôn tăng cường lực lượng,
củng cố quốc phòng, ngăn ngừa bọn can thiệp Mỹ và hiếu chiến pháp dùng bọn tay
sai của chúng mà phá hoại hiệp định đình chiến hoặc trực tiếp khiêu khích xâm
lược”.
Báo cáo đặc biệt chú vấn đề chuyển hướng công tác ở miền Nam, làm cho
cas1n bnộ, đồng bào chiến sĩ ta hiểu rõ điều chỉnh khu vực đòng quân là cần thiết,
từ đó mà tự giác thgi hành mệnh lean điều chỉnh, không bi quan, tiêu cực. Sau khi
đã rùt quân địch sẽ tìm cách tiền công phá hoại tổ chức của ta, phá hoại, đảm phán.
Khinh ngiệm ở triều tiên đã chỉ rõ điếu đó. Do vậy cuộc đấu tranh đòi pháp và nguỵ
thừa nhận quyền tự do, dân chủ của nhân dân ta sẽ vô cùng khó khăn, và dù chúng
có thừa nhận quyền tự do dân chủ đó, ta cũng phgải đối phó với tình hình chúng
đàn áp, khủng bố.
Hội nghị 6 BCHTƯ Đảng lao động Việt Nam đã nhất ttrí với chủ trương trên
“Ngày nay do tình hình và sách lược đầu tranh cốt để thực hiện mục đích trước
mắt, Đây là một sự thay đổi quan trọng về phương trâm và sách lược cách mạng,
nhưng mục đích của cách mạng vẫ là một” . Nhuững định hướng của cách mạng do
chủ tịch Hồ Chí Minh và trung ương Đảng đề ra tại hội nghị trung ương lần sáu có
ý ngỹa rất quan trong đối với cách mạng nước ta trong thời đại mới.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngày 5-9-1954 BCH ra nghi quyết cụ thể hoá và và bổ xung ngỵ quyết hội
ngỵ lần 6. Nghị quyết vạch ra 5 đặc điểm của giai đoạn mới trong đáo quan trong

nhất là “nam bắc tạm thời chia làm hai vùng”. Nghị quyết nhận định đế quốc Mỹ và
tay sai đang âm mưu phá hoại hiệp định giơnevơ, nhằm “biến Việt Na m thành
Triều tiên thứ hai”. Cách mạng miền Nam chuyen hướng từ đấu tranh vũ trraqng
sang đấu tranh chính trị. Do đó phương trâm hoạt động ở vùng địch tạm chiếm là
kết hợp chặt chẽ công tác hợp pháp và công tác không hợp pháp; Trong đó lấy
công tac không hợp pháp lá chính; đồng thời lợi dụng kha năng không hợp pháp để
tuyên truyền giáo dục quần chúng đông đổng đảo, tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu
tranh. Tuyệt đối không bộc lộ lực lượng, xong cũng không dựa vào công tác bí`
mật mà thủ tiêu công tác, cần mởp rông công tác ở thành thị, giữ vững và phát triển
công tác ở nông thôn. Phải làm cho0 cán bộp hiểu đubg1 mức những khó khăn của
vùng địch tạm chiếm đóng, đồng thời chấp nhẫn khả năng thuận lợi mới. Nghị
quyết ban chấp hành đã được truyền đạt đến Xứ uỷ nam bộ và Khu uỷ quân khu V.
Thực hiện nghị quyết, các đảng bộ đã chỉ đạo việc chuyển hướng, ổn định tổ chức,
chôn giấu vũ khí, rút vào bí mật để giữ gìm lực lượng.
Dựa trên tinh thần nghị quyết này BCH ra chỉ thị nêu rõ những điều khiện
thuận lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, đồng thời dự kliến khả năng
không thuận lợi cho cách mạng miề n Nam là Mỹ và tay sai sẽ phá hoại cuộc tổng
tuyển cử thống nhất nước nhà. Chỉ thị vạch rõ ba nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng miền nam: Một là đấu tranh đòi đối phương thi hành hiệp định đình chiến.
Hai là, chuyển hướng công tác cho phù hợp với tình hình mới, name vữnh phương
châm chính sách mới, sắp xếp cán bộ bố trí lực lượng, vừa che dấu lực long vừa lợi
dụng khả năng công khai hợp pháp đấu tranh với địch. Ba là tập trung mọi lực
lượng dân tộc, dân chủ, hoà bình, đấu tranh đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm
thân Mỹ, lập tra một chính quyền hoà bình, thống nhất tự do dân chủ, cải thiện dân
sinh.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đến cuối năm 1954, ở Miền Nam về cơ bản đã sắp xếp song tổ chức cán bộ
từ Xứ uỷ đến cơ sở. Chi bộ được phân nhỏ để bám sát quần chúng và tránh địch
khủng bố. Các tổ chức đảng gồm 60000 đảng viên ruát vào hoạt động bí mật.

Tháng 3-1955 và tháng 8-1955, BCHTU ban chấp hành trung ương đảng họp
hôi nghị lần thứ bảy và lần thứ tám(khoá II) ở miền nam thực dân pháp thực dân
pháp đã bị Mỹ hất cảng. Mỹ và tay sai công khai chống lại hiệp định Giơnevơ,
Chính sách của chíng phủ páhp là chính sách đầu hàng Mỹ. Muốn chống đế quốc
Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độpc lập và dân
chủ thì “điều coat yếu là phải ra sức củng cố miền bắc, đồng thời giữ vững và đẩy
mạnh công cuộc đấu tranh nân dân, dưỡng lực lượng cơ bản của ta, xây dựng chô
dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh củng cố hoa bình, thực hiện thống nhất, “bất kể
trong tình huống nào miề bắc cũng phải được củng cố”.
Chủ trương của các hội nghị 6, 7, 8 của BCHTƯ của BCT trong những năm
1954-1955 đã soi đường cho cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng
XHCN ở miền bắc trong giai đoạn mới. Thực tiển cách Mang5 ở hai miền đã phàt
triển và nảy sinh nhiều vấn đề mới đòi hỏi đảng r\ta phải đi sâu phân tích, giải
quyết cụ thể và đồng bộ đường lối cách mạng ở cả hai miền. Tháng 1-1956, BCT
thông qua văn kiện mấy vấn đề về đường lối cách mạng Việt Nam văn kiện đã đạt
cơ sở cho cho việc hoạch định đường lối cải tạo và xây dựng chủ nghĩa XH trong
những năm sau.
Hội Nghị BCT tháng 6-1956 nhận định khả năng giằng co, kéo dài tìmh
trạng chgia cắt đang tồn tại ở miền nam; Hình thức đấu tranh trong toàn quốc hiện
nay là đấu tranh chính trị chứ không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như vậy không
có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ rang tự vệ trong mọi hoàn cảnh nhất định hoặc
không tận dụng những lực lượng vũ trang của giáo phái chống Diệm, cần củng cố
những lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có, xây dựng căn cứ làm chổ dựa.
Nghị quyết hội Ngị đã khảng định Một hướng mới: đấu tranh chính trị khết hợp
với đấu tranh vũ trang tự vệ. Nghị quyế xác định trên thực tế ngay từ khi Diệm tấn
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công các giáo phái, ta vận dụng danh nghĩa giáo phái để tổ chức lực lượng vũ trang
cách mạng, bảo vệ cơ sở và căn cứ cách mạng, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo. Đây là
mộpt bổp sung quan trọng về đường lối. Nhưng thực tiễn không dừng lại ở đó, khi

Mỹ diệm đã đưa lưỡi lê vào chương trìngh Nghị sự, thực tiễn cách mạng lại đặt ra
những vấn đề mới, bức thiết hơn, vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài đòi hỏi
Đảng ta phải giải đáp nhằm tìm con đường đánh dổ Mỹ- diệm, dành quyền làm
chủ cho nhân dân ở miền nam.
Đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó, đồng chí lê Duẩn đã dự thảo bản Đề cương
cách mạnh miền Nam, trong đó phân tích tình hình chính trị, xã hội miền Nam,
vạch rõ xu thế phát triển đó và nêu ra phương hướng của cách mạnh miền Nam là
dùng bạo lực cách mạng đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm. Đề cương khảng định:
“Để chống lại Mỹ-Diệm, Nhân dân Miền Nam cchỉ rõ con đường cứu nước và tự
cứu mình, đó là con đường cách mạng… ngoài con đường cách mạng, nhân dân
miền Nam không có con đường nào khác”; Vận dụng kinh nghiệm cách mạng
tháng tám, đề cương nêu ra phương hướng “dựa vào lực lượng cách mạng chíng trị
của quần chúng làm căn bản” để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm.
Đề cương nêu ra 6 bài học chủ yếu của cách mạng thàng tám về vũ trang lý
luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trên bước đường sắp tới: có thực lực bean
trong; nắm thời cơ bên ngoài; có Đảng do chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh đạo; có liên
minh công nông ; có mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi; lợi dụng những mâu
thuẫn trong nội bộ kẻ thù. Ý nghĩa loch sử quan trọng của đề cương là ở chỗ, nó
góp phần choẩ bị cơ sở lý luận và cơ sở chính trị cho nghị quyết hội nghị lần thứ 15
của trung ương (5-1959) và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng(9-
1960). Nghị quyết 15 khảng định: “ Con đường phát triển của cách mạng Việt Nam
ở miền Nam là khởi nghĩa dành chính quyền về tay nhân dân…Con đường đó là lấy
sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quấn chúng là chủ yếu,
kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng lean chíng quyền cách mạng của nhân dân”. Nghị quyết quyết 15 đã mở
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đường cho cách mạng miền Nam tiến lean, dẫn đến cuộc tổng khởi nghĩa oanh liệt
năm 1960, làm xoay chuyển tình thế ở miền Nam.
Trong cách mạng việc dự kiến khả năng phát triển của tình hình để chủ động

đối phó là cực kỳ quan trọng, nhưng cần phải theo dõi sát thực tiễn để kịp điều
chỉnh đường lối và hành động cho phù hợp. Thực tiễn những năm 1954-1960 và
những năm sau đó của cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra cơ bản đúng như dự
kiến của trung Ương Đảng và Chủ Tịch Hố Chí Minh. Tuy nhiên trong thời kỳ
1954-1960 ta có sai lầm trong chỉ đạo chiến lược, chậm chỉ đạo chuyển hướng đấu
tranh, chỉ nhấn mạnh đấu tranh chính trị trong khi địch đã dùng bạo lực phản cách
mạng thẳng tay giết hại cán bộ, nhân dân.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng tỏ nguồng gốc thắng lợi là
do nhân dân cả nước đã đồng tâm nhất trí, dốc sức vào mục tiêu chủ yếu: Giải
phóng miền Nam theo đúng chiến lược của trung ương Đảng và chủ Tịch Hồ Chí
Minh. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống không thể nào có được, nếu
Đảng không hoạch định đúng đường lối kháng chiến sáng suốt ngay từ đầu và tổ
chức thực hiện thắng lợi chiến lược ấy trong quá trình cách mạng.
III. Lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù trong cuộc kháng chiến chống My, cứu
nước.
Nước ta đất không rộng người không đông phải chống lại đế quốc đầu sỏ là
Mỹ, có tiềm lực về kinh tế và quân sự khồng lồ và còn lôi kéo đực một số nước chư
hầu tham gia vào cuộc chiến tranh ở Việt nam. Trong điều kiện ấy đảng ta coi việc
triệt để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù và triệt để lợi dụng mâu thuẫn đó. Nghị
quyết của bộ chính trị tháng 2 năm 1962 chỉ rõ : “… Mâu thuẫn nội bộ địch Mỹ-
Pháp, tay sai thân Mỹ và bọn thân pháp, giữa bọn Mỹ với nhau bọn thân Mỹ với
gia đỉnh họ Ngô …đều có thể lợi dụng được… mâu thuẫn đó củng có lúc,có mặt
dịu đi, cũng có lúc gay gắt thêm.. ta sử ụng đúng đắn các mâu thuẫn ấy có lợi cho
cách mạng”.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đồng chí lê duẩn tổng kết . chung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng,
quyết ntâm giải phóng dân tộp giai phóng nhân dân, biết giựa chắc vào sức mạnh
quần chúng, nhửng đức tính ấy kết hợp với sự sáng tạo và nhạy cảm về chính trị, đó
là những cái cần thiết để có thể lợi dụng một cách sáng tạo và có hiệu quả nguyên

tắc chiến lực lợi dung mâu thuẫn nội bộ địch nhằm không ngừng đưa cách mạng
tiền lên những vị trí mới . đảng ta đã xác dịnh rõ yêu cầu của nguyên tắc chiến lược
này là phân hoá làm suy yếu kẻ thù, làm cho mâu thuẫn nội bộ kẻ thù sâu sắc, biến
một bộ phận kẻ thù thành đồng minh của cách mạng làm cho lực lượng cách mạng
thêm đông đảo, mặc khác lực lượng cách mạng càng mạnh, cách mạng càng thắng
lợi thì càng có điều kiện khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù.
Mâu thuẫn nội bộ kẻ thù là mặt trận đấu tranh cách mạng quan trọng nhưng
cũng rất phức tạp. Nay trong thời kỳ 1954-1959, thời kỳ tạm ổn định của Mỹ Ngụy,
Mâu thuẫn trong nội bộ chúng vẫn bộc lộ và cách mạng đã lợi dụng được để chống
chính sách khủng bố của chúng bảo vệ giữ gìm lực lượng, Mỹ hất cẳng pháp, đưa
Ngô đình Diệm về thay bảo Đại. Chính quyền gia đình trị của Diệm không những
làm cho các tầng lớp nhân dân phẫn mà còn làm cho các giáo phái, một bộ phận
trong gia cấp chủ tư sản mại bản – nhất là số thân pháp cũ chống lại diệm . Lợi
dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp, giữa lực lượng giáo phái do Pháp xây dưng với
chính quyền Diệm, Đảng đưa người vào hoạt động trong các lực lượng vũ trang
Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên, hướng đánh lại quân đội Diệm chỉa mũi nhọn đấu
trính chị quần chúng, đồng thời hạn chế sự cứp bóch nhân dân của các lực lượng vũ
trang giáo phái, khi vũ trang giáo phái bị tan rã cán bộ ta đã vận động từng lực
lượng này về với cách mạng.
Phong trào đồng khởi 1959-1960 đáng dấu bức nhảy vọt quan trọng có ý
nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam đưa cách mạng từ thế giữ gìm lực lượng
sang thế tiến công, kết thúc thời kỳ tạm thời ổn định của Mỹ-ngụy, đẩy chúng vào
khủng hoảng triền miên nội bội mâu thuẫn, lục đục, xâu xé, bắn giết lẫn nhau. Tình
hình chính trị ở miền Nam càng diễn biến thuận lợi cho việc tập hợp thêm lực
9

×