một số suy nghĩ về đạo đức kinh doanh
trong hoạt động kinh doanh dịch vụ
bu chính viễn thông
PGS. TS. Nguyễn Đăng Quang
Bộ môn Kinh tế BCVT Trờng ĐH GTVT
Tóm tắt: Bi viết ny đề cập tới vấn đề đạo đức kinh doanh trong hoạt động kinh doanh
dịch vụ bu chính viễn thông v các biện pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh trong doanh
nghiệp bu chính viễn thông.
Summary: This article implies business morality in post and telecommunications services
and mesures to enhance it in post and telecoms enterprises.
I. Đặt vấn đề
Trong thực tế hoạt động kinh doanh bu
chính viễn thông (BCVT) hiện nay, lợi nhuận
là một trong những yếu tố cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp BCVT. Tuy
nhiên nếu các nhà quản lý doanh nghiệp hiểu
sai bản chất của lợi nhuận, coi đó là mục tiêu
chính của doanh nghiệp và bằng mọi giá để
đạt đợc lợi nhuận thì sự tồn tại của doanh
nghiệp có thể sẽ bị đe doạ. Mặt khác, doanh
nghiệp BCVT là một nhân tố không thể tách
rời của hệ thống kinh tế xã hội, do đó luôn
phải tìm cách hài hoà về lợi ích của các đối
tợng hữu quan nh khách hàng, ngời lao
động, nhà đầu t, cộng đồng dân c, Vì
vậy, trong hoạt động kinh doanh BCVT, khi
đa ra các quyết định quản lý cần phải xác
định các giá trị, lợi ích cần tôn trọng, đồng thời
phải cân đối hài hoà và chấp nhận hy sinh
một phần lợi ích riêng, lợi nhuận. Tức là phải
vận dụng triết lý đạo đức trong kinh doanh,
hay nói một cách khác là đạo đức kinh doanh.
II. Vấn đề đạo đức kinh doanh trong
hoạt động kinh doanh BCVT
Đạo đức là một phạm trù rất rộng đề cập
tới mối quan hệ con ngời và các quy tắc ứng
xử trong mối quan hệ giữa con ngời với con
ngời trong các hoạt động sống. Còn đạo
đức kinh doanh đợc hiểu l những
nguyên tắc v chuẩn mực có tác dụng
hớng dẫn hnh vi trong mối quan hệ kinh
doanh. Chúng đợc những ngời hữu quan
nh nh đầu t, khách hng, đối tác, đối thủ
cạnh tranh, sử dụng để phán xét một hnh
động cụ thể l đúng hay sai, hợp đạo đức
hay phi đạo đức. Cho dù các đối tợng hữu
quan không phải lúc nào cũng đúng, những
phán xét của họ luôn tác động đến sự chấp
thuận của xã hội đối với doanh nghiệp và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp BCVT.
Đạo đức kinh doanh hiện nay càng có ý
nghĩa trong quản lý và đối với kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh không phải chỉ là sự mở
rộng của đạo đức cá nhân. Nhiều ngời cho
rằng chỉ cần tuyển dụng đợc những ngời có
t cách đạo đức tốt thì sẽ có một tổ chức lành
mạnh và có hiệu quả. Đạo đức cá nhân và
nhân cách con ngời chỉ là một nhân tố quan
trọng tham gia vào quá trình ra quyết định về
đạo đức. Những vấn đề phải đơng đầu trong
kinh doanh không hoàn toàn giống nh những
vấn đề đạo đức trong đời sống xã hội. Một
ngời quản lý có quan điểm đạo đức đúng đắn
có t cách đạo đức cá nhân tốt cha phải là
đủ để tạo ra đợc một tổ chức có đạo đức kinh
doanh đúng đắn và mang lại những kết quả
hoạt động kinh doanh xuất sắc. Phẩm chất
đạo đức tốt của ngời quản lý có thể giúp giải
quyết một số vấn đề đạo đức kinh doanh nảy
sinh trong tổ chức. Nhng để tạo ra một tổ
chức có đạo đức kinh doanh tốt - đạo đức tổ
chức còn cần nhiều hơn nữa, trong đó điều
kiện quan trọng là nhận thức đợc bản chất
của những mối quan hệ trong kinh doanh,
những vấn đề và mâu thuẫn tiềm ẩn, và tìm ra
đợc biện pháp quản lý khắc phục trở ngại về
sự khác biệt có thể dẫn tới bất đồng, tạo dựng
một bầu không khí thuận lợi cho mọi ngời
hoà đồng, phát huy nhân cách và đóng góp
cho sự phát triển của tổ chức.
Những vấn đề khía cạnh đạo đức thờng
nảy sinh từ sự mẫu thuẫn trong quan niệm về
giá trị đạo đức giữa các cá nhân, giữa cá nhân
với một tổ chức, xã hội nơi họ đang sống và
làm việc. Trong khi đang cố gắng hoàn thành
những mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp
BCVT đôi khi đã coi nhẹ thậm chí gây khó
khăn cho ngời lao động trong việc thực hiện
những mục tiêu cá nhân chính đáng và hợp
thức của mình. Chẳng hạn, để có thể hoàn
thành kế hoạch phát triển thuê bao điện thoại
di động CityPhone tại TP. Hồ Chí Minh, cuối
năm 2004 Công ty dịch vụ Viễn thông Sài gòn
đã giao nhiệm vụ cho mỗi nhân viên trong
công ty phải phát triển một số lợng thuê bao
nhất định. Điều này đã gây khó khăn cho
những ngời lao động có ít mối quan hệ xã hội
trong việc hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Trong nhiều trờng hợp, mâu thuẫn nảy sinh
ngay trong mối quan hệ hợp tác, phối hợp
giữa các cá nhân trực tiếp hoặc thông qua
phơng tiện kỹ thuật. Mâu thuẫn thuộc nhóm
này thờng liên quan đến quyền lực và công
nghệ. Đặc biệt phổ biến, mâu thuẫn thờng xuất
hiện trong những vấn đề liên quan đến lợi ích.
Những mâu thuẫn trong hoạt động kinh
doanh BCVT có thể xuất hiện trên các khía
cạnh khác nhau, nh triết lý hành động, mối
quan hệ quyền lực trong cơ cấu tổ chức, sự
phối hợp trong các hoạt động tác nghiệp hay
phân phối lợi ích; ở các lĩnh vực nh
marketing, điều kiện lao động, nhân lực tài
chính hay quản lý. Mâu thuẫn có thể xuất hiện
trong mỗi con ngời, giữa những ngời hữu
quan bên trong doanh nghiệp nh chủ sở hữu,
ngời quản lý, ngời lao động hay với những
ngời hữu quan bên ngoài nh với khách
hàng, đối tác - đối thủ cạnh tranh hay cộng
đồng xã hội.
Thực tiễn hoạt động kinh doanh BCVT
hiện nay, phải thừa nhận một thực tế rằng các
doanh nghiệp BCVT luôn hành động vì lợi ích
kinh tế riêng của mình. Tuy nhiên, các mối
quan hệ kinh doanh liên quan tới đạo đức cần
phải đợc xây dựng và phát triển trên cơ sở
tính trung thực, công bằng và tin cậy lẫn nhau.
Thiếu đi những cơ sở quan trọng này, mối
quan hệ sẽ rất khó thiết lập và duy trì, công
việc kinh doanh ngày càng bấp bênh, chi phí
càng tăng, hiệu quả kinh doanh thấp, giá
thành tăng lên, cạnh tranh khó khăn, điều kiện
kinh doanh càng không thuận lợi, lợi ích riêng
càng khó thoả mãn. Tối thiểu các doanh
nghiệp cần phải tuân thủ các quy định của
pháp luật hiện hành. Ngoài ra họ không đ
ợc
tiến hành bất kỳ một hành động nào có thể
gây hại cho ngời tiêu dùng, khách hàng,
ngời lao động, cũng nh gây hại cho đối thủ
cạnh tranh.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh
BCVT trong thời gian qua, giữa các nhà cung
cấp dịch vụ BCVT đã xảy ra một số sự cố gây
ảnh hởng đến hoạt động của nhau. Điển
hình là việc kết nối mạng viễn thông giữa các
doanh nghiệp mới nh Tổng công ty Viễn
thông quân đội (Viettel), Công ty cổ phần dịch
vụ BCVT Sài gòn (SPT), Công ty Thông tin
viễn thông Điện lực (EVN Telecom) và mạng
viễn thông của Tập đoàn BCVT Việt Nam
(VNPT) đã gặp rất nhiều khó khăn. Và những
sự cố này đã gây ra sự cố nghẽn mạch hoặc
không liên lạc đợc giữa các thuê bao của các
mạng khác nhau (chẳng hạn sự cố mạng di
động 098 tháng 6 năm 2005). Khi xảy ra sự cố
cả hai bên đều đổ lỗi cho nhau, nhất là các
doanh nghiệp mới cho rằng nguyên nhân
chính trong các sự cố này là từ vị thế độc
quyền của VNPT. Trên thực tế, tại một số tỉnh,
thành phố các Bu điện tỉnh, thành phố này
đã cố tình gây khó khăn trong việc kết nối
mạng viễn thông của họ với mạng viễn thông
của các doanh nghiệp mới. Tuy nhiên, cũng
phải thừa nhận một thực tế rằng, do nóng vội
trong việc phát triển thị trờng, các doanh
nghiệp mới cũng thực hiện những hành vi
cạnh tranh không trung thực. Bất luận một vấn
đề gì xảy ra liên quan đến sự cố mạng họ đều
nhanh chóng đổ lỗi cho VNPT, mặc dù sau đó
khi điều tra nguyên nhân sự cố có sự tham gia
của các cơ quan nhà nớc về BCVT (Bộ
BCVT) thì việc xảy ra các sự cố đều có lỗi của
cả hai bên. Chẳng hạn, trong sự cố kết nối
mạng giữa VNPT và EVN Telecom năm 2006,
Công ty Thông tin viễn thông Điện lực cho
rằng họ bị VNPT gây khó dễ trong việc kết nối
mạng. Nhng trên thực tế, các dịch vụ
E- Com, E- Phone do EVN Telecom cung cấp
có vùng hoạt động đã vi phạm Giấp phép do
Bộ BCVT cấp. Do E- Phone đợc đăng ký là
dịch vụ di động nội tỉnh và đợc Bộ BCVT cấp
mã số vùng cho thuê bao theo từng địa
phơng. Nhng thuê bao E Phone của EVN
Telecom khi di chuyển ra ngoài vùng đang ký
vẫn có thể gọi đợc. Nh vậy là EVN Telecom
đã phạm luật và không tuân thủ luật cạnh
tranh lành mạnh.
Đối với những đối tợng hữu quan bên
ngoài nh khách hàng sử dụng dịch vụ BCVT,
đối thủ cạnh tranh, cộng đồng và Chính phủ,
vấn đề đạo đức liên quan đến những thông tin
thờng thể hiện ở những thông điệp quảng
cáo và thông tin về khả năng của mạng lới,
dịch vụ, Ngời quản lý, tổ chức hay một
công ty có thể sử dụng quyền lực trong việc ra
quyết định về nội dung để cung cấp những
thông tin không chính xác hoặc sai lệch có
chủ ý có lợi cho họ.
Mặt khác, khi thực hiện hoạt động quảng
cáo các doanh nghiệp này đều cho rằng họ có
giá cớc rẻ hơn của VNPT, nhng lại không
trung thực trong việc họ có giá cớc rẻ là nhờ
có sự trợ giúp của cơ chế, chính sách của Nhà
nớc, do các doanh nghiệp này đợc chủ
động xây dựng phơng án tính cớc. Còn
VNPT là doanh nghiệp chiếm thị phần khống
chế nên chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nớc về giá cớc dịch vụ BCVT, cho nên
VNPT không thể chủ động giảm cớc nếu
không có sự cho phép của Bộ BCVT.
Hiện nay, để phát triển thị trờng, các
doanh nghiệp BCVT chủ yếu sử dụng công cụ
cạnh tranh là giảm giá hoặc miễn phí cớc lắp
đặt, tặng tiền vào tài khoản, giảm cớc Tuy
nhiên, việc giảm cớc liên tục có thể làm tăng
thị phần, phát triển thị trờng tại một thời điểm
hoặc trong một khoảng thời gian nào đó,
nhng nó cũng chứa đựng một nguy cơ tiềm
ẩn là có thể làm cho chính doanh nghiệp bị
khánh kiệt về nguồn lực, không còn khả năng
và tiềm lực để đổi mới công nghệ kịp thời và
sẽ dẫn tới khả năng giảm năng lực cạnh tranh.
Sự phát triển thuê bao quá nhanh khi dung
lợng mạng lới cha đợc đầu t tơng xứng
dẫn đến chất lợng dịch vụ giảm thì lại ảnh
h
ởng đến quyền lợi của khách hàng.
Quảng cáo lừa gạt và quảng cáo không
trung thực là những biểu hiện cụ thể của các
vấn đề đạo đức trong quảng cáo. Sự lừa gạt
không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra
đợc mà thờng đợc che giấu rất kỹ lỡng
dới các hình thức, hình ảnh, lời văn rất hấp
dẫn. Sự lừa gạt tiềm ẩn cả trong những lời lẽ,
câu chữ mập mờ, không rõ ràng dễ dẫn đến
hiểu sai, ngay cả khi điều đó không phải là
chủ ý của ngời cung cấp thông tin. Có thể
minh hoạ qua việc quảng cáo dịch vụ Internet
ADSL của các doanh nghiệp. Trong thông
điệp quảng cáo với tốc độ tải xuống tối đa
2Mbps, tải lên là 512 Kbps, hầu hết khách
hàng đều tin rằng với tốc độ này họ sẽ dễ
dàng truy nhập mạng Internet hơn. Tuy nhiên
trên thực tế hiện nay tốc độ truy nhập Internet
ADSL rất chậm, trong nhiều trờng hợp tốc độ
truy nhập chỉ tơng đơng với tốc độ truy
nhập qua mạng điện thoại công cộng (dial-
up). Một điều dễ nhận ra rằng, trong thông
điệp quảng cáo của các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ Internet ADSL, không hề có thông
tin về tốc độ tối thiểu. Do đó, khi tốc độ truy
nhập có chậm chăng nữa thì các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ vẫn có lý do để bào
chữa cho chất lợng dịch vụ không đảm bảo
của mình và khách hàng lại là ngời chịu thiệt.
Hoặc là khi quảng cáo về các dịch vụ của
mình, các nhà cung cấp dịch vụ thờng không
nói rõ khả năng có thể cung cấp dịch vụ. Do
vậy, khi khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch
vụ thì lại phải chờ đợi và nhận đợc những
câu trả lời nh là hết cổng, hết dây nối,
Thông tin không chính xác có thể làm
mất đi sự tin cậy của khách hàng sử dụng dịch
vụ BCVT. Nó dẫn đến những tình trạng khó xử
về mặt đạo đức trong các hoạt động thông tin
đối với bên trong và bên ngoài vì đã làm mất
đi niềm tin. Mất niềm tin dẫn đến mất khách
hàng sử dụng dịch vụ BCVT và có thể là
nguyên nhân ảnh hởng đến sự tồn vong và
phát triển của doanh nghiệp.
III. Xây dựng v củng cố đạo đức
kinh doanh trong kinh doanh BCVT
Đối với các doanh nghiệp BCVT, để có
thể xây dựng đợc cho mình một nền tảng
đạo đức kinh doanh đúng đắn nhằm tạo điều
kiện cho việc phát triển bền vững cần phải
thực hiện một số biện pháp sau đây:
- Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của
pháp luật trong hoạt động kinh doanh BCVT
nh Pháp lệnh BCVT, Luật Cạnh tranh, Pháp
lệnh về Giá,
- Tôn trọng những cam kết của mình với
các doanh nghiệp khác và đối với khách hàng
sử dụng dịch vụ BCVT. Thực hiện cạnh tranh
lành mạnh trong khuôn khổ cho phép.
- Cung cấp thông tin chính xác cho khách
hàng, các đối tợng hữu quan về dịch vụ, khả
năng cung cấp dịch vụ, khả năng của mạng
lới, chất lợng dịch vụ, giá cớc,
- Xây dựng các tiêu chuẩn và quy trình
cho phép phát hiện và ngăn chặn hành vi sai
trái.
- Phân công ngời trong ban lãnh đạo
chịu trách nhiệm về các chơng trình thoả ớc
về đạo đức.
- Thờng xuyên giám sát việc giao quyền
ra quyết định cho những ngời có thiên hớng
hành động bất quy tắc.
- Thông tin đầy đủ về các tiêu chuẩn và
quy trình thông qua các chơng trình bồi dỡng
và phát hành tài liệu về đạo đức kinh doanh.
- Thiết lập hệ thống giám sát, thanh tra
và trình báo về hành vi sai trái nh thiết lập
đờng dây nóng, các trang WEB, nối với
các bộ phận chịu trách nhệm về đạo đức.
- Nhất quán thực hành các tiêu chuẩn và
thi hành các biện pháp trừng phạt đối với hành
vi vi phạm trong doanh nghiệp.
iv. Kết luận
Để phát triển thị trờng, tăng thị phần và
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ BCVT trong
bối cảnh hiện nay, theo suy nghĩ của tác giả,
ngoài việc phải không ngừng nâng cao chất
lợng dịch vụ, tăng cờng công tác chăm sóc
khách hàng, thì một trong những nhiệm vụ
quan trọng hiện nay là phải hết sức chú ý đến
việc xây dựng đạo đức kinh doanh nhằm tạo
sự tin tởng của khách hàng, của cộng đồng,
đối tác - đối thủ cạnh tranh, cũng nh của
Chính phủ.
Tài liệu tham khảo
[1]. TS Nguyễn Mạnh Quân. Giáo trình đạo đức
kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp.
[2]. TS Nguyễn Đăng Quang. Cạnh tranh và hợp
tác nhằm phát triển thị trờng viễn thông Việt nam.
Tạp chí Kinh tế phát triển. Số 101, trang 10-12.
[3]. Cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy thị trờng phát
triển. Báo nhân dân điện tử ngày 13/7/2005.
[4]. Dịch vụ cha tốt là do thiếu nhân lực. Báo
điện tử VietNamNet ngày 22/11/2005
[5]. Tổng kiểm tra chất lợng dịch vụ điện thoại di
động. vnexpress.net ngày 3/8/2005Ă