Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo khoa học: "Một vài suy nghĩ về câu hỏi nhiều lựa chọn trong thi trắc nghiệm khách quan" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.1 KB, 4 trang )

Một vi suy nghĩ về câu hỏi nhiều lựa chọn
trong thi trắc nghiệm khách quan

CN. Nguyễn diệu thuý
Bộ môn Nga Pháp
Khoa Khoa học cơ bản
Trờng Đại học GTVT

Tóm tắt: Thi trắc nghiệm khách quan l một hình thức thi khá phổ biến v đợc a chuộng đặc
biệt trong giảng dạy ngoại ngữ. Trong số các dạng đề thi trắc nghiệm khách quan, câu hỏi nhiều lựa
chọn (NLC) l dạng đề m chúng tôi thờng xuyên sử dụng. Vậy đây l dạng đề thi nh thế no, nó
có những u v nhợc điểm gì v cần phải lu ý những gì khi soạn thảo, đó l những vấn đề m báo
cáo khoa học ny muốn lm sáng tỏ nhằm góp phần nâng cao chất lợng các đề thi có sử dụng câu
hỏi NLC trong trờng ta nói chung v ở Bộ môn Nga - Pháp nói riêng.
Summary: Objective test is a popular and specially favoured form in language teaching.
In all forms of objective tests, multi-choice questions are commonly used by teachers and
educators. So, what is this form ? In this report, the advantages, disadvantages and some tips
when desigining this form of tests will be taken into consideration in order to improve the quality
of multi choice tests used in our university in general and in the Russian - French Section in
particular.

CB
A

i. đặt vấn đề
Trong bất kỳ thời đại nào, kiểm tra đánh
giá là một phần tất yếu của mọi loại hình đào
tạo, điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực
giảng dạy ngoại ngữ vì sự tiến bộ của ngời
học phụ thuộc một phần lớn vào việc nắm
vững cấu trúc và từ vựng. Để có thể giúp sinh


viên trờng ĐHGTVT học ngoại ngữ đặc biệt
là tiếng Pháp (vì đây là một ngôn ngữ biến
hình, có nhiều quy tắc ngữ pháp) tiến bộ một
cách nhanh nhất, chúng tôi luôn soạn các bài
tập hoặc bài kiểm tra phù hợp với nội dung
của bài học. Hình thức bài tập mà chúng tôi
thờng lựa chọn là hình thức trắc nghiệm
khách quan với nhiều câu hỏi nhiều lựa chọn
(NLC). Đây là hình thức kiểm tra phù hợp nhất
với thời lợng, mục đích giảng dạy cũng nh
trình độ của sinh viên. Sau nhiều năm áp
dụng hình thức thi này, chúng tôi thấy kết quả
mà sinh viên đạt đợc phản ánh khá chính
xác thực trạng và trình độ của sinh viên. Chính
vì vậy trong Hội nghị Khoa học và Công nghệ
lần này chúng tôi xin mạnh dạn nêu ra một số
suy nghĩ về hình thức thi này nhằm góp phần
nâng cao chất lợng đề thi có sử dụng kiểu
câu NLC trong trờng chúng ta.
ii. nội dung
1. Khái niệm thi trắc nghiệm khách
quan và kiểu câu nhiều lựa chọn
a. Thi trắc nghiệm khách quan
Theo khái niệm mà Cục Khảo thí và Kiểm

định chất lợng - Bộ GD và ĐT đề ra thì trắc
nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động
đợc thực hiện để đo lờng năng lực của các
đối tợng nào đó nhằm những mục đích xác
định. Trong giáo dục trắc nghiệm đuợc tiến

hành thờng xuyên ở các kỳ thi, kiểm tra để
đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với
một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối
với cả một cấp học, hoặc để tuyển chọn một
số ngời có năng lực nhất vào một khoá học.
Có thể phân chia các phơng pháp trắc
nghiệm làm 3 loại: loại quan sát, loại vấn đáp
và loại viết. Trong số này loại viết thờng
đợc sử dụng nhiều nhất vì nó có nhiều u
điểm hơn cả, ví dụ: cho phép kiểm tra nhiều
thí sinh một lúc, thí sinh có thể cân nhắc nhiều
hơn, dễ quản lý và khách quan hơn vì bản
thân ngời chấm không tham gia vào bối cảnh
kiểm tra,
Trắc nghiệm viết đợc chia thành hai
nhóm chính:
CB
A

Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả
lời theo dạng mở, thí sinh phải tự trình bày ý
kiến trong một bài viết dài để giải quyết vấn
đề mà câu hỏi nêu ra. Nguời ta gọi trắc
nghiệm kiểu này là kiểu trắc nghiệm tự luận
(essay)
Nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó
đề thi thờng gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu
nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin
cần thiết sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn
tắt cho từng câu. Nhóm phơng pháp này

đợc gọi là trắc nghiệm khách quan (objective
test) thờng đợc gọi tắt là trắc nghiệm.
Trong trắc nghiệm khách quan có thể
phân chia thành nhiều kiểu câu hỏi khác
nhau:
- Câu ghép đôi: Cho hai cột nhóm từ, đòi
hỏi thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ
ở hai cột với nhau sao cho phù hợp về nội
dung.
- Câu điền khuyết: Nêu một mệnh đề có
khuyết một phần, thí sinh phải nghĩ ra nội
dung thích hợp để điền vào ô trống.
- Câu trả lời ngắn: Là câu trắc nghiệm đòi
hỏi thí sinh chỉ trả lời bằng câu rất ngắn.
- Câu đúng sai: Đa ra một nhận định, thí
sinh phải lựa chọn một trong hai phơng án
trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay
sai.
- Câu nhiều lựa chọn (questions à choix
multiples): Đa ra một nhận định và 4 - 5
phơng án trả lời, thí sinh phải chọn để đánh
dấu vào một phơng án đúng nhất.
b. Câu nhiều lựa chọn (NLC)
Trong các kiểu câu trắc nghiệm vừa nêu
ở trên, kiểu câu NLC đợc sử dụng phổ biến
hơn cả trong nhiều môn học và các kỳ thi đặc
biệt trong các kỳ thi ngoại ngữ (ví dụ: thi kiểm
tra trình độ cho ngời đi du học nớc ngoài do
các Sứ quán tổ chức nh thi TCF tiếng Pháp,
thi TOEFFLE tiếng Anh,). Vậy thế nào là

câu NLC? Đây là loại câu có hai phần, phần
đầu đợc gọi là phần dẫn, nêu ra vấn đề,
cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu một câu
hỏi; phần sau là phơng án để chọn, th
ờng
đợc đánh dấu bằng các chữ cái A, B, C, D,
hoặc các con số 1, 2, 3, 4, Trong số các
phơng án để chọn chỉ có duy nhất một
phơng án đúng hoặc một phơng án đúng
nhất ; các phơng án khác đợc đa vào có tác
dụng gây nhiễu đối với thí sinh. Nếu câu
NLC đợc soạn tốt thì một ngời không có
kiến thức chắc chắn về vấn đề đã nêu không
thể nhận biết đợc trong tất cả các phơng án
để chọn đâu là phơng án đúng, đâu là

phơng án nhiễu.
2. Ưu và nhợc điểm của kiểu câu
nhiều lựa chọn
Trớc hết có thể nói kiểu câu NLC cho
phép đánh giá ngời học một cách tổng quát
nhất. Trong giảng dạy ngoại ngữ, đây là
phơng tiện hiệu quả giúp đánh giá kiến thức
của ngời học ở mọi mặt (ngữ âm, ngữ pháp,
từ vựng,) và mọi cấp độ (sơ cấp, trung cấp,
cao cấp,). ở các lớp không thuộc khối Cầu -
Đờng Pháp, cứ hết mỗi học kỳ chúng tôi lại
soạn các đề thi gồm ba phần: phần một dành
cho 20 câu hỏi trắc nghiệm với nhiều lựa
chọn, phần hai là một bài đọc hiểu và phần ba

dành cho dịch 20 câu NLC này nhằm kiểm tra
kiến thức ngữ pháp và từ vựng của sinh viên
từ bài số 0 đến bài 4 của giáo trình (đối với
HK1), từ bài 5 đến bài 8 (HK2) hay các bài
trong giáo trình tiếng Pháp chuyên ngành
(HK3). Nếu không sử dụng dạng câu hỏi này
chúng tôi sẽ phải soạn rất nhiều bài tập ngữ
pháp và từ vựng làm cho đề thi trở nên dài,
khó hơn và không đánh giá đợc toàn diện.
CB
A

Ưu điểm thứ hai của kiểu câu hỏi này là
giúp đánh giá một cách chính xác và khách
quan hiểu biết của sinh viên về một hiện tợng
ngữ pháp hay một cụm từ,mà các đề thi tự
luận khó làm đợc. Bởi vì câu NLC buộc thí
sinh phải chọn chỉ một đáp án duy nhất đúng
trong khi đó với dạng đề tự luận, thí sinh có
thể không cần trả lời trực tiếp vào câu hỏi, có
thể tìm một cách diễn đạt khác tuy không thật
chính xác nhng vẫn đợc chấp nhận. Từ u
điểm này dẫn tới việc cho điểm cũng chính xác,
khách quan và không cần tranh luận nhiều bởi
vì ngời chấm chỉ việc căn cứ vào đáp án và
barème chứ không có yếu tố cảm tính.
Một điểm mạnh nữa của kiểu câu này là
giáo viên có thể đánh giá nhiều đối tợng trong
cùng một khoảng thời gian. Khi mới tiếp nhận
một lớp học, để kiểm tra trình độ sinh viên

xem có đồng đều hay không, giáo viên có thể
cho làm một bài test gồm nhiều câu NLC ở
các cấp độ khó dễ khác nhau về tất cả những
kiến thức đã đợc học. Kết quả là giáo viên có
thể thu đợc những thông tin khá đầy đủ và
toàn diện về đối tợng ngời học, từ đó có thể
phân nhóm sinh viên và có phơng pháp
giảng dạy phù hợp.
Ưu điểm cuối cùng của kiểu câu NLC,
một u điểm đợc các nhà quản lý giáo dục
rất quan tâm là dễ quản lý, giúp tiết kiệm thời
gian và chi phí cho việc chấm bài. Quả thật,
ngời chấm chỉ cần đếm số câu trả lời chính
xác và cộng điểm. Thậm chí máy tính cũng có
thể tham gia công việc này, đây chính là một
tiện ích không thể coi nhẹ nhất là trong thời
đại tin học nh hiện nay. Có lẽ vì u điểm này
mà Bộ GD và ĐT đã có chủ trơng và sẽ sớm
đa hình thức kiểm tra này vào một số kỳ thi
quan trọng quốc gia nh thi tốt nghiệp PTTH
và cả kỳ thi Đại học.
Bên cạnh những u điểm nổi bật trên
đây, chúng tôi cũng nhận thấy kiểu câu NLC
còn có một số hạn chế: kiểu câu này có thể
dễ hơn các kiểu câu hỏi khác, thí sinh có thể
dùng phơng pháp loại trừ hoặc lựa chọn một
cách ngẫu nhiên một đáp án bất kỳ (phần
trăm xác suất), mất nhiều thời gian và công
sức khi soạn đề và làm cho các đáp án gây
nhiễu phải có lý và hấp dẫn.

Tuy nhiên các nhợc điểm nay dờng
nh là không đáng kể so với những u điểm
và chúng ta hoàn toàn có thể khắc phục đợc
các nhợc điểm này.
3. Một số lu ý khi soạn câu hỏi NLC
cho các đề thi tiếng Pháp
Dới đây là một số lu ý mà chúng tôi đã

đúc kết đợc sau nhiều năm sử dụng dạng
câu này trong các đề thi. Chúng tôi xin phép
đợc nêu ra ở đây nhằm góp phần nâng cao
chất lợng các đề thi tiếng Pháp của Bộ môn.
Để có thể khắc phục nhợc điểm thứ
nhất là các câu NLC dễ hơn so với các kiểu
câu khác, chúng ta có thể sử dụng cách sau:
tăng số lợng câu (nếu kiến thức cần kiểm tra
tơng đối đơn giản) và đặc biệt cần tăng số
lợng đáp án. Quả thật trong một khoảng thời
gian ngắn nếu có nhiều đáp án gây nhiễu, thí
sinh cũng không dễ dàng lựa chọn đuợc ngay
đáp án phù hợp nhất, nhất là còn tính đến yếu
tố tâm lý. Chúng tôi thờng xuyên soạn các
đề thi với 20 câu NLC, mỗi câu có ít nhất là 3
đáp án. Sau nhiều năm sử dụng chúng tôi
nhận thấy số lợng sinh viên đạt điểm tuyệt
đối cho phần thi này hầu nh không có, đa
phần chỉ đạt mức độ trung bình. Trong giảng
dạy ngoại ngữ, nếu một đề thi có số lợng thí
sinh đạt điểm tuyệt đối cao có nghĩa là đề thi
đó cha thật phù hợp với trình độ sinh viên.

Chính vì vậy sau mỗi năm học cần xem xét
điều chỉnh lại các câu hỏi sao cho phù hợp.
CB
A

Một điểm cần lu ý nữa là chúng ta nên
tránh dùng các từ phủ định hoặc cụm phủ
định (đặc biệt là hai lần phủ định) trong phần
dẫn (phần nêu vấn đề) để tránh làm phức tạp
hoá câu hỏi khiến thí sinh hiểu lầm (có thể vì
không đọc kỹ câu hỏi chứ không phải là không
biết câu trả lời) làm chúng ta không đánh giá
đợc cái cần đánh giá. VD: Laquelle des
propositions suivantes nest pas incorrectes ?
(Mệnh đề nào sau đây không phải là không
đúng ?).
Vị trí của đáp án đúng cũng là vấn đề
nên quan tâm. Những ngời soạn đề thi
thờng có xu hớng đặt câu trả lời đúng ở giữa
các đáp án gây nhiễu khác. Nắm đợc điều
này, nhiều thí sinh khi không tìm đuợc câu trả
lời chính xác thờng chọn hết các đáp án ở
giữa. Chính vì vậy nên sắp xếp đáp án đúng ở
cả đầu và cuối và đặc biệt không nên để cùng
một vị trí ở hai câu liên tiếp. Điều này cũng
giúp giảm phần trăm xác suất đúng của các
đáp án.
Điểm cuối cùng cần chú ý đó là việc lựa
chọn các đáp án gây nhiễu. Nên chọn các
đáp án mà khi viết hoặc đọc lên có thể gần

giống với đáp án đúng. Đây là điều hoàn toàn
có thể thực hiện đợc bởi tiếng Pháp là một
ngôn ngữ biến hình, có nhiều từ đồng âm khác
nghĩa. Ngoài ra không nên sử dụng những từ
khẳng định mang tính tuyệt đối (toujours,
jamais, tous,.: luôn luôn, không bao giờ,
tất cả,) vì những khẳng định nh vậy thờng
sai (thí sinh biết rất rõ điều này) mà nên dùng
các cụm từ có tính tơng đối (dans certains
cas, parfois, le plus souvent,).
Trên đây là một số suy nghĩ của chúng
tôi về một dạng đề thi đợc sử dụng khá phổ
biến trong giảng dạy ngoại ngữ nói chung và
tiếng Pháp nói riêng. Những hiểu biết của
chúng tôi về lĩnh vực này không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận
đợc những ý kiến đóng góp của quý vị và các
bạn.
Tài liệu tham khảo
[1]. Jean-Claude Mothe 1979. Lévaluation par les
tests dans la classe de francais,
Hachette/Larousse.
[2]. Các trang web: www.planete-qcm.com và
www.forum.edu.net.vn

×