Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo khoa học: "Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của khổng tử" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.32 KB, 5 trang )


Tìm hiểu t tởng giáo dục của khổng tử

ThS. Nguyễn tuyết mai
Bộ môn Triết học
Khoa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh
Trờng Đại học GTVT

Tóm tắt: Bi báo ny nêu lên một số nguyên tắc v nội dung giáo dục của Khổng Tử, từ
đó thấy đợc ảnh hởng của t tởng giáo dục v đo tạo con ngời của Nho Giáo đối với lịch
sử v xã hội hiện tại.
Summary: This article presents some principles and contents of Confucianism ideas of
education, through which their influences on history and the current society can be recognized.

i. đặt vấn đề
Khổng Tử là ngời sáng lập đạo Nho.
Quan điểm về đào tạo, giáo dục con ngời
của ông đã đặt cơ sở cho sự nghiệp giáo dục
của xã hội phong kiến phơng Đông sau này.
Nghiên cứu quan điểm của Khổng Tử về giáo
dục không những giúp chúng ta hiểu biết
những t tởng làm nên sự nghiệp giáo dục
dới thời kỳ phong kiến mà còn hiểu đợc ý
nghĩa của chúng đối với sự nghiệp giáo dục
trong giai đoạn hiện tại.
KT-ML
ii. nội dung
1. Về nguyên tắc giáo dục
T tởng giáo dục của Khổng Tử có hai
nguyên tắc lớn:
Một là, hữu giáo vô loại. Chế độ giáo dục


mà Khổng Tử mở ra khiến cho ai ai cũng có
cơ hội học tập. Luận Ngữ, thiên Vệ Linh
Công viết: Khổng Tử nói: Về việc dạy dỗ
không phân biệt loại ngời (Tử viết: Hữu giáo
vô loại) [3.588], tức là nói con ngời, không
phân biệt giàu nghèo, sang hèn, khôn ngu,
miễn là đến học, thì đều có cơ hội tiếp thu sự
giáo dục. Điều này đã phá vỡ quan niệm giáo
dục chỉ đợc dành riêng cho giai cấp quý tộc.
Chủ trơng giáo dục mang tính cách mạng
này ra đời ở thời đó hẳn không đơn giản. Dới
khẩu hiệu đó, ai ai cũng có quyền lợi đợc tiếp
thu giáo dục, đều có t cách đến học với
Khổng Tử. Khổng Tử nói: Đối với những
ngời đem lễ xin học từ một bó nem trở lên, ta
cha hề chối ngời nào, không dạy bảo (Tự
hành thúc tu dĩ thợng, ngô vị thờng vô hối
dã- Luận Ngữ. Thuật nhi) [3.347]. Miễn là có
tâm cầu học, thì dù chỉ có một lễ đơn bạc nh
mời chiếc nem, ngời đó cũng trở thành học
trò của Khổng Tử. Nh Nhan Hồi, Nguyên
Hiến, là những ngời vô cùng nghèo khổ,
nhng qua sự dạy dỗ của Khổng Tử, đều trở
thành những bậc danh hiền. Quý tộc nh
Mạnh ý Tử, T Mã Ngu cũng trở thành học
trò nổi tiếng của Khổng Tử. Hơn nữa, bất kể là
thiên t ngời xin học nh thế nào, Khổng Tử
cũng hết lòng dạy dỗ, nh Tăng Sâm, Trọng
Do, thờng bị Khổng Tử chê trách vì thiên t
có hạn, song qua sự dạy dỗ của Khổng Tử


vẫn phát huy đợc khả năng của mình, và có
những thành tựu đáng kể. Quan niệm và tinh
thần hữu giáo vô loại của Khổng Tử bên
cạnh việc phá tan chế độ giáo dục quý tộc
thời cổ đại, đã làm cho học thuật phát triển,
khiến cho những ngời bình dân ai ai cũng có
cơ hội tiếp thu giáo dục, ảnh hởng đến cả cơ
cấu chính trị, cơ cấu quyền lực đơng thời.
Tuy nhiên, nguyên tắc hữu giáo vô loại
của Khổng Tử cũng còn có những hạn chế.
Khổng Tử chủ trơng hữu giáo vô loại nhng
laịi phân chia con ngời thành quân tử và tiểu
nhân. Đặc biệt ông căn cứ vào khí chất của
từng hạng ngời mà chia xã hội ra làm bốn
loại: Một là hạng ngời sinh ra đã biết đạo lý.
Hai là hạng ngời học rồi mới biết đạo lý. Ba
là hạng ngời gặp khốn khó mới chịu học đạo
lý. Bốn là hạng ngời không chịu học đạo lý
nên không biết đạo lý. Nh vậy là, vẫn có hai
hạng ngời không phải là đối tợng giáo dục
của Nho học. Đó là hạng ngời thứ nhất và
hạng ngời thứ t.
Hai là, giáo dục đạo đức và nhân cách.
Nguyên tắc lớn thứ hai trong giáo dục của
Khổng Tử là thực thi giáo dục đạo đức và
nhân cách. Ông cho rằng chỉ có đề xớng
giáo dục đạo đức và nhân cách thì mới có thể
cứu xã hội qua khỏi cơn phong ba loạn lạc, vì
vậy Khổng Tử lấy giáo dục đạo đức làm chủ

yếu. Khổng Tử dạy các môn: văn chơng, đức
hạnh, trung và tín thì trong đó, ngoài văn
chơng ra, còn lại đều thuộc lĩnh vực đạo đức.
Nhng từ đó ta cũng thấy đợc văn chơng và
đức hạnh có liên quan mật thiết với nhau, vì
văn chơng cũng là văn chơng của các
thánh hiền xa để lại. Các thánh hiền xa là
Nghiêu, Thuấn, Văn Vơng, Vũ vơng, Chu
Công. Khổng Tử thấy rằng, tu dỡng phẩm
chất đạo đức là vô cùng quan trọng, nên ông
bắt các đệ tử của mình trớc tiên phải tu
d
ỡng đạo đức bản thân, sau đó mới đợc
học văn chơng. Luận Ngữ còn ghi lại: Các
đệ tử khi vào phải hiếu với cha mẹ, khi ra phải
kính nhờng ngời lớn tuổi, làm việc phải cẩn
thận và giữ chữ tín, thơng yêu mọi ngời mà
thân với ngời dân. Làm những việc đó có d
sức mới dành cho việc học văn chơng (Đệ
tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cần nhi tín,
phiếm ái chúng nhi thân nhân. Hành hữu d
lực tắc dĩ học văn Luận ngữ. Học nhi)
[3.201] Hiếu, đễ, cẩn, tín, phiếm ái, thân nhân
đều thuộc phạm vi đạo đức, những ngời vào
học, tất trớc hết phải học cho đợc những cái
đó, rồi sau mới học đến văn chơng. Có thể
thấy đạo đức là tiêu chuẩn cơ bản của giáo
dục Khổng Tử. Khổng Tử nói: Nên để tâm chí
vào đạo, nắm vững đức hạnh, noi theo điều
nhân, vui thích với lục nghệ (Chí đạo, cứ

đức, y nhân, du nghệ - Luận Ngữ. Thuật
nhi) [3.346]. Các đệ tử của Khổng Tử đều hết
sức chú trọng đến tu dỡng đạo đức bản thân,
trong số đó, những ngời nổi tiếng về đức
hạnh có Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Trọng
Cung, Nhan Uyên nói: Phu tử cứ tuần tự
mà chỉ bảo cho ngời, rất khéo, ngời mở
rộng (kiến thức) cho ta nhờ văn chơng, ớc
thúc ta nhờ lễ (Phu tử tuần tuần nhiên thiện
dụ nhân, bác ngã dĩ văn, ớc ngã dĩ lễ - Luận
Ngữ. Tử hãn) [3.404]. Dạy học trò rất quảng
bác, song vẫn dùng lễ để ớc thúc, đó chính
là cuối cùng thì Khổng Tử vẫn lấy đạo đức làm
trọng yếu.
KT-ML
Theo Khổng Tử, thì một nhân cách cần
có của kẻ sĩ quân tử là phải giữ cái danh của
mình cho trong sáng. Cái danh mà Khổng Tử
thờng nói đến chính là mang nghĩa nhân
cách. Ông nói: Ngời quân tử chỉ hận rằng
chết rồi mà chẳng để tiếng tăm (Quân tử tật
một thế nhi danh bất xng yên - Luận Ngữ. Vệ
Linh Công) [3.577]. Ngời có nhân cách cao
thợng và có sự nghiệp vĩ đại, cần phải để lại
danh tiếng cho đời sau, còn nh lẳng lặng mà
qua đời là cái mà ngời quân tử lo sợ nhất.
Ông cũng nói: Quân tử bỏ đạo nhân, ôi sao
mà nên danh (Quân tử khử nhân, nhân ô hồ
thành danh - Luận Ngữ. Lý nhân) [3.269]. Tức
là ngời quân tử mà xa rời nhân nghĩa, thì

không thể nào hoàn thành nhân cách quân tử
đợc. Khổng Tử cho rằng, ý nghĩa của cuộc
đời nằm ở chỗ truy cầu nhân cách toàn thiện
toàn mỹ, và giáo dục chính là để bồi dỡng
nhân cách hoàn thiện đó, vì vậy Khổng Tử
đặc biệt chú trọng đến giáo dục nhân cách.

Giáo dục bằng sự gơng mẫu chứ không phải
bằng lý thuyết. Ông nói: Bản thân (nhà cầm
quyền) ngay thẳng, tuy không ra lệnh, mọi
việc vẫn trôi chảy; bản thân không ngay
thẳng, dẫu có ra lệnh dân cũng chẳng theo
(Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành. Kỳ thân bất
chính, tuy lệnh bất tùng- Luận Ngữ. Tử
Lộ.[3.502] Có lấy bản thân làm phép tắc, làm
gơng, cảm hoá nhân cách, thì việc dạy dỗ rất
dễ dàng. Điều này cũng tơng tự với nguyên
tắc chính sự. Khổng Tử nói với Quý Khang Tử:
Chính trị là ngay thẳng. Nếu ngài lấy điều
ngay thẳng dẫn dắt mọi ngời, thì ai lại dám
không ngay thẳng? (Chính giả chính dã.
Quân suất dĩ chính, thục cảm bất chính? -
Luận Ngữ. Nhan Uyên) [3.487]. Làm chính sự
cũng nh dạy học, nếu tự bản thân mình
không chính đính, ngay thẳng, thì không thể
làm ngời khác ngay thẳng đợc. Khổng Tử
cho rằng, phải dùng nhân cách của chính
mình để cảm hoá học trò. Điều đó cũng thể
hiện tinh thần học không biết chán, daỵ không
biết mỏi.

2. Về nội dung giáo dục
Khổng Tử căn cứ vào nhu cầu xã hội
đơng thời mà xác định nội dung giáo dục,
hay trọng tâm của giáo dục. Luận Ngữ chép:
Phu Tử lấy bốn điều để dạy ngời: văn
chơng, đức hạnh, lòng trung thực và lòng
thành tín (Tử dĩ tứ giáo: văn, hạnh, trung, tín
Luận ngữ. Thuật nhi) [3.361], có thể thấy
Khổng Tử lấy văn, hạnh, trung, tín làm mục
tiêu giáo dục. Song, Khổng Tử lấy đức hạnh
làm nội dung cơ bản, làm trung tâm. Trong khi
dạy học, Khổng Tử thờng tùy vào năng khiếu
của mỗi ngời mà chia ra bốn loại phạm vi
học thuật để đạt đợc mục tiêu giảng dạy.
Bốn loại đó là đức hạnh, ngôn ngữ, chính sự,
văn chơng. Đức hạnh nhằm phát triển cho
những ngời thực hành phẩm chất đạo đức.
Ngôn ngữ chủ yếu dành cho những ngời cần
biện luận lý thuyết. Chính sự dành cho những
ngời hoạt động chính trị, cai quản quốc gia.
Văn học dành cho những ngời muốn đi sâu
nghiên cứu văn chơng. Dựa vào bốn loại đó,
Khổng Tử đã đào tạo thành công các học trò
của mình. Luận Ngữ còn ghi: Về đức hạnh
có: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá
Ngu, Trọng Cung. Về khoa ngôn ngữ có: Tể
Ngã, Tử Cống. Về chính sự có: Nhiễm Hữu,
Quý Lộ. Về văn học có: Tử Du, Tử Hạ (Đức
hạnh: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá
Ngu, Trọng Cung. Ngôn ngữ: Tể Ngã, Tử

Cống. Chính sự: Nhiễm Hữu, Quý Lộ. Văn
học: Tử Du, Tử Hạ - Luận Ngữ. Tiên Tiến)
[3.442]. Đây chính là Khổng Tử dựa vào sở
trờng của từng ngời mà bồi dỡng thành
nhân tài. Từ đó chúng ta cũng có thể thấy sự
phân loại trong giáo dục của ông.
Tài liệu giáo dục của Khổng Tử là lục
kinh: Thi, Th, Dịch, Lễ, Nhạc, Xuân Thu.
Kinh điển đợc ông coi trọng hơn cả là Kinh
Thi, vì vậy nó đứng đầu lục kinh, sau đó là
Kinh Th, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh
Xuân Thu. Kinh Lễ và Kinh Nhạc là để bồi đắp
thêm cho Kinh Thi. Khổng Tử đã từng nói:
H
ng khởi (tâm hồn) nhờ kinh Thi, gây dựng
nhờ kinh Lễ, thành tựu nhờ kinh Nhạc (Hứng
Thi, lập Lễ, thành Nhạc - Luận Ngữ.
Thái Bá) [3.383], ba cái đó cùng kết hợp, bồi
đắp với nhau. Thi tức là thơ, thơ có khả năng
làm rung động lòng ngời một cách sâu sắc
nhất, có thể cổ vũ ý chí con ngời, vì vậy mà
nói là hứng Thi. Lễ tức là lễ giáo và
khuôn phép ứng xử. Nhà nho cho rằng thị
(nhìn), thính (nghe), ngôn (lời nói), động
(hành động) của con ngời đều nằm trong
phạm vi của lễ. Một ngời mà mọi cảm giác,
lời nói, hành động không thất lễ mới có thể có
chỗ đứng trong xã hội. Vì vậy mà nói lập
lễ. Nhạc tức là âm nhạc, âm nhạc là để hàm
dỡng tính tình con ngời, khiến con ngời trở

về sự chính đáng, có hành vi cao thợng, trở
thành một con ngời hoàn mỹ. Vì vậy mà nói
thành nhạc. Khổng Tử lấy Thi, Lễ, Nhạc để
dạy những điều đó. Nguyên lý giáo dục Thi,
Lễ, Nhạc của Khổng Tử chính là nhằm làm
cho con ngời thấu suốt về điều nghĩa, thuần
thục về điều nhân (nghĩa tinh nhân thục). Thi
là để kích thích ý thức hớng thợng của con
ngời, Lễ có thể chỉ ra quy tắc hoạt động cho
con ngời, Nhạc có thể đào luyện tính tình của
con ngời. Ba môn học đó là không thể thiếu
KT-ML

đợc trong bất cứ một nền giáo dục nào.
Khổng Tử rất coi trọng ba môn Thi, Lễ,
Nhạc. Ông nói với đệ tử của mình nh sau:
Sao các con chẳng chịu học kinh Thi? Kinh
Thi khiến cho ta hng khởi tâm hồn, dạy cho
ta xem xét, dạy ta biết hợp quần, dạy cho ta
biết oán giận chính đáng. Gần thì biết thờ cha,
xa thì biết thờ vua. Lại ghi nhớ tên gọi của
nhiều loại chim, loài thú và cây cỏ (Tiểu tử hà
mạc học phù Thi? Thi khả dĩ hng, khả dĩ
quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ,
viễn chi sự quân. Đa chí điều, thú, thảo mộc
chi danh - Luận Ngữ. Dơng Hoá) [3.623].
Khổng Tử cũng dặn dò con trai của mình là
Bá Ng: Con đã học Chu Nam, Thiệu Nam
cha? Ngời nào chẳng học Chu Nam, Thiệu
Nam thì cũng giống nh đứng quay mặt vào

bức tờng chứ gì? (Nhữ vi Chu Nam, Thiệu
Nam hĩ hồ? Nhân bất vi Chu Nam, Thiệu Nam
kỳ do chính tờng diện nhi lập dã d? - Luận
Ngữ. Dơng Hoá) [3.624]. Những công dụng
của Kinh Thi nhiều nh vậy, nên có thể coi
đây là một môn học tu thân tề gia, muốn làm
ngời không thể không học. Đối với Khổng Tử,
học Thi, học Lễ, học Nhạc là nhất quán,
không thể bỏ đi, không thể coi nhẹ cái nào.
Luận Ngữ còn chép lại một đoạn trò chuyện
giữa đệ tử của Khổng Tử và con trai của
Khổng Tử nh sau: Trần Cang hỏi Bá Ng:
Anh có thờng đợc nghe Thày dạy bảo điều
gì khác lạ cha?. Đáp rằng: Cha hề. Cha
thờng đứng chơi một mình, Lý này vội rảo
bớc qua sân. Có lần cha hỏi: Con đã học
Kinh Thi cha?. Tha rằng cha hề, cha nói:
Chẳng học kinh Thi, không lấy gì để nói năng
cho gãy gọn. Lý này bèn lui ra tìm học Kinh
Thi. Hôm khác, cha lại đứng một mình, Lý này
rao bớc qua sân, cha hỏi: Con đã học Kinh
Lễ cha?. Tha rằng cha hề, cha nói:
Chẳng học Kinh Lễ, không lấy gì để lập
thân. Lý này bèn lui ra, tìm học Kinh Lễ
(Trần Cang vấn Bá Ng viết: Tử diệc hữu dị
văn hồ?. Đối viết: Vị dã. Thơng độc lập, Lý
xu nhi quá đình. Viết: Học Thi hồ?. Đối viết:
Vị dã. Bất học Thi, vô dĩ ngôn. Lý thoái chi
nhi học Thi. Tha nhật, hựu độc lập, Lý xu quá
đình. Viết: Học Lễ hồ?. Đối viết: Vị dã. Bất

học Lễ, vô dĩ lập. Lý thoái nhi học lễ - Luận
Ngữ. Quý Thị) [3.239]. Nh vậy có thể biết Thi
và Lễ quan trọng nh thế nào. Khổng Tử nói:
Nh vậy có thể biết Thi và Lễ quan trọng nh
thế nào. Khổng Tử nói: Nhắc đi nhắc lại về lễ,
có phải nói tới ngọc quý, lụa tốt chăng? nhắc
đi nhắc lại về nhạc, có phải nói tới chuông,
trống chăng? (Lễ vân, lễ vân, ngọc, bạch vân
hồ tai? Nhạc vân, nhạc vân, chung cổ vân hồ
tai? - Luận Ngữ. Dơng Hoá) [3.625]. Ông
cũng từng nói: Ngời mà không có lòng nhân,
dùng lễ sao đợc? Ngời mà không có lòng
nhân, dùng nhạc sao đợc? (Nhân nhi bất
nhân, nh lễ hà? Nhân nhi bất nhân, nh
nhạc hà? - Luận Ngữ. Bát dật) [3.239]. Từ đó
có thể thấy, cái lễ và nhạc và Khổng Tử coi
trọng không phải là hình thức, cái khí cụ bề
ngoài, mà là nội dung của nhân ái. Khổng Tử
dạy lễ, dạy nhạc, chính là dạy điều nhân.
Khổng Tử nói với quan phụ trách nhạc của
nớc Lỗ: Hiểu về nhạc cũng dễ thôi! Lúc mới
tấu lên, tiếng nhạc phải dồn dập. Lúc vào bài,
tiếng nhạc phải êm dịu, phải rõ ràng, phải ăn
ý nhau. Nh vậy mới thành bản nhạc hay
(Nhạc kỳ khả tri dã. Thủy tác, hấp nh dã.
Túng chi, thuần nh dã, cảo nh dã, dịch nh
dã, dĩ thành - Luận Ngữ. Bát dật) [3.261]. Âm
nhạc lúc mới bắt đầu, các loại nhạc cụ hoà
hợp với nhau, rồi âm thanh từ đấy mà nổi lên,
vô cùng hoà hợp với nhau, các âm tiết phân

minh rõ ràng, âm nọ nối tiếp âm kia mà nổi
lên. Câu nói đó không chỉ thể hiện khả năng
thẩm âm của Khổng Tử, mà còn thể hiện nên
sự nhất quán của Khổng Tử trong t tởng,
tiến trình âm nhạc cũng chính là tiến trình giáo
dục, tiến trình đạt đến nhân.
KT-ML
Ngoài ba môn Thi, Lễ, Nhạc ra thì Th,
Dịch, Xuân Thu cũng là nội dung giáo dục của
Khổng Tử. Kinh Th là cuốn lịch sử Trung
Quốc cổ đại, Kinh Dịch là cuốn sách triết lý về
sự vận hành của vũ trụ vạn vật, Kinh Xuân
Thu có thể gọi là một cuốn sách lý luận chính
trị. Khổng Tử thờng lấy những kinh điển đó
để dạy đệ tử của mình. Có thể thấy rằng
Khổng Tử lúc bình sinh rất chú trọng giáo dục
các kinh điển cho đệ tử, đồng thời sáu kinh
điển đó cũng là tài liệu giáo dục về mọi mặt

trong cuộc sống đơng thời.
Tóm lại, Khổng Tử coi Lục kinh là tài liệu
giảng dạy chủ yếu cho học trò. Khi giảng Lục
kinh, ông tập trung vào bốn mặt: văn, hạnh,
trung, tín và lấy những diễn biến xã hội trớc
mắt để chứng minh cho đạo lý. Ông chú trọng
dạy đạo làm ngời trớc dạy văn. Ông còn kết
hợp dạy lục nghệ cho học trò. Nhng trọng
tâm giáo dục học trò của ông vẫn là hành vi
đạo đức và ý thức trách nhiệm đối với xã hội,
đối với vua, đối với cha mẹ và anh em bè bạn.

Ông đã nêu ra cả một hệ thống các chuẩn
mực đạo đức cần có của một ngời học đạo
giúp đời. Điểm hạn chế trong nội dung giáo
dục của Khổng Tử là ở chỗ, ông không đa
những tri thức về tự nhiên, về sản xuất và kinh
doanh vào chơng trình giảng dạy. Ông cũng
không quan tâm đến việc ứng dụng những tri
thức học đợc vào lĩnh vực sản xuất và các
hoạt động kinh tế.
III. kết luận
Quan điểm về giáo dục và đào tạo con
ngời chính là sản phẩm lịch sử của xã hội
loài ngời. Nó đã không ngừng tác động trở lại
xã hội và làm cho xã hội đợc củng cố và phát
triển. Quan điểm về giáo dục và đào tạo con
ngời của Nho giáo là sản phẩm của chế độ
phong kiến tông pháp. Nó đã đạt tới một trình
độ lý luận rõ ràng, một đờng lối chính trị
nhân nghĩa, một giá trị nhân sinh rõ rệt. Xã hội
phong kiến Trung Quốc có một lịch sử lâu dài,
nó tạo ra nhiều học thuyết về giáo dục và đào
tạo con ngời. Song, không có học thuyết nào
để lại dấu ấn rõ rệt và sâu sắc nh Nho giáo.
Quan điểm về giáo dục và đào tạo con ngời
của Nho giáo đã có ảnh hởng rất lớn tới văn
hoá, t tởng và nếp sống của các nớc Đông
á. Việt Nam tiếp thu Nho giáo và đặc biệt là
tiếp thu quan điểm về con ngời và đào tạo
con ngời của Nho giáo. Điều đó có ảnh
hởng nhiều mặt đối với đời sống xã hội, nhất

là đối với sự nghiệp giáo dục và hệ thống
chuẩn mực đánh giá con ngời của các nhà t
tởng Việt Nam. Xã hội Việt Nam ngày nay là
xã hội có nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa, với mục tiêu phấn đấu là làm
cho dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Xã hội này đã khác xa với
xã hội thời phong kiến, song quan điểm về
giáo dục và đào tạo con ngời của Nho giáo
vẫn còn có ý nghĩa. Vì vậy, phải có một
phơng pháp kế thừa thích hợp để khai thác
đợc tối đa những yếu tố tích cực của Nho
giáo, cũng nh nhanh chóng gạt bỏ đợc
những yếu tố tiêu cực mà Nho giáo để lại.
Tài liệu tham khảo
[1]. Phan Văn Các (1995). Nho học trong sự nghiệp
đổi mới đất nớc, Tạp chí Cộng sản (9).
[2]. Doãn Chính (chủ biên - 2002). Đại cơng triết
học Trung Quốc. NXB Thanh niên.
[3]. Chu Hi (1998). Tứ th tập chú. Nguyễn Đức
Lân dịch v chú giải. NXB Văn hóa- Thông tin.
[4]. Phan Đại Doãn (chủ biên - 1998). Một số vấn đề
Nho giáo Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[5]. Quang Đạm (1994). Nho giáo xa và nay. NXB
Văn hoá, Hà Nội.
[6]. Phạm Minh Hạc (1996). Phát triển giáo dục,
phát triển con ngời phục vụ phát triển xã hội
kinh tế. NXB Văn hoá xã hội, Hà Nội.
KT-ML
[7]. Phạm Minh Hạc (1999). Giáo dục Việt nam

trớc ngỡng cửa thế kỷ XXI. NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[8]. Vũ Khiêu (1997). Nho giáo và phát triển ở Việt
Nam. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[9]. Nguyễn Hiến Lê (1996). Khổng Tử. NXB Văn
hoá, Hà Nội.
[10]. Nguyễn Thế Long (1995). Nho học ở Việt
Nam Giáo dục và thi cử. NXB Giáo dục, Hà Nội.
[11]. H Thúc Minh (1996). Phải chăng Nho giáo là
động lực phát triển kinh tế, Tạp chí Triết học (6).
[12]. Quan Phong, Lâm Duật Thời (1963). Bàn về
Khổng Tử. NXB Sự thật, Hà Nội.
[13]. Lê Văn Quán (1997). Đại cơng lịch sử t
tởng Trung Quốc. NXB Giáo dục, Hà Nội.
[14]. Nguyễn Ti Th (1994). Xã hội là cơ sở của
những đòi hỏi về giáo dục con ngời, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận (6).
[15]. Nguyễn Khắc Viện (1993). Bàn về đạo Nho,
NXB Thế giới, Hà Nội


×