Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo khoa học: "Một vài suy nghĩ về khái niệm Hài hoà trong mỹ học và sự hài hoà trong cuộc sống" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.39 KB, 8 trang )

Một vi suy nghĩ về khái niệm Hi ho
trong mỹ học v sự hi ho trong cuộc sống

CN. Nguyễn thị thanh hải
Bộ môn Triết học
Khoa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh
Trờng Đại học GTVT

Tóm tắt: Bi báo ny trên cơ sở phân tích khái niệm hi ho trong mỹ học đặc biệt l mỹ
học Mác - Lênin đã chỉ ra một số biểu hiện cụ thể của nó trong hiện thực, từ đó gợi mở những
hớng suy nghĩ mới về những giải pháp tạo lập sự hi ho trong đời sống nhằm khắc phục sự
mất cân đối trong cuộc sống con ngời Việt nam hiện nay.
Summary: This article is based on analysis of harmony concept in aesthetics, especially
Marxist - Leninist aesthetics have shown some of its specific exxpressions in reality. From that,
new opinions on solutions which can create the harmony in life so as to overcome the
imbalance in existing Vietnamese human life are raised.

i. đặt vấn đề
KT-ML
Trong những năm gần đây, bên cạnh
những chuyển biến tích cực làm tiên tiến hoá,
hiện đại hoá đời sống tinh thần của con ngời
do sự nghiệp Đổi mới đem lại thì những ảnh
hởng tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị
trờng, từ những phản giá trị do xu thế quốc tế
hóa đem lại đã dẫn đến sự xáo trộn, phá vỡ sự
hài hoà trong mối quan hệ giữa con ngời với
tự nhiên và con ngời với con ngời. Vì vậy việc
nghiên cứu khái niệm hài hoà trong mỹ học và
vận dụng quan niệm đó để gợi mở những
hớng suy nghĩ mới về những giải pháp tạo lập


sự hài hoà trong cuộc sống là việc làm có ý
nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.
ii. nội dung
1. Hài hoà - một khái niệm trong mỹ
học
a. Quan niệm về sự hi ho trong mỹ học
trớc Mác
Ngay từ thời cổ đại, các nhà t tởng, văn
hoá, triết học nh Hêraclit, Đemôcrit, Platôn,
Aritxtôt đã đề cập nhiều tới quan niệm về sự
hài hoà trong các khái niệm nh "tính trật tự",
"tính hợp lý", "tính đối xứng", " tính tỷ lệ", "tính
mực thớc", "thiết diện vàng", "sự hài hoà vũ
trụ"
Platôn là ngời đầu tiên xây dựng phạm
trù cái đẹp. Theo ông cái đẹp bao gồm cả cái
đáng khen lẫn cái hợp lý, cả cái có lợi lẫn kỹ
năng làm chúng hài hoà với tự nhiên, tuân
theo quy luật của tự nhiên. Với ông, hài hoà là
cái hợp lý, nghệ thuật là mẫu mực về cái hợp
lý, phải đạt tới sự " hài hoà với giới tự nhiên".
Với Aritxtot, cái đẹp kể cả động vật hay
bất kể đồ vật gì đều phải gồm những phần
hợp thành, không những cần có một trật tự
sắp xếp mà còn phải có kích thớc nhất định.
Ông nói: Một vật bé quá không thể trở thành

đẹp vì thoắt nhìn đã qua không kịp thu nhận,
một vật lớn quá không thể trở thành đẹp vì
một lúc không thể nhìn chung vật đó ngay

đợc. Nh vậy, cái đẹp phải hài hoà, phải
mang tính trật tự và kích thớc.
Hêraclit thì cho rằng màu đen, màu trắng,
màu đỏ đứng riêng một mình thì không đẹp
nhng nếu sắp xếp các màu theo 1 trật tự
nhất định thì sẽ có một mảng màu đẹp. Còn
theo quan niệm của ngời Babilone và Ai Cập
cổ đại thì cái đẹp là sự hoà hợp giữa sức
mạnh vật chất, tài năng, trí tuệ của con ngời
với sự hoàn thiện, ý chí cao cả của thế lực
siêu nhiên, thiêng liêng tuyệt đối.
Ngời Trung Hoa cổ đại thì lại coi "mỹ" là
sự hoà hợp chặt chẽ của "hành", "ý", "lý",
"tình", "tâm", "vật", "hình", "thần".
Nh vậy, đối với các nhà mỹ học cổ đại
thì cái đẹp luôn gắn với sự hoà hợp, hài hoà,
tỷ lệ, mực thớc. Đó cũng là quan niệm về sự
hài hoà thẩm mỹ của họ khi mà nhận thức loài
ngời còn ở trình độ sơ khai. Vợt xa hơn
nhận thức của các nhà t tởng mỹ học cổ
đại, hài hoà thẩm mỹ cần đợc hiểu không chỉ
là sự hoà hợp một chiều, không chỉ dừng lại ở
sự đo lờng cân xứng, không bó hẹp trong
phạm vi, kích thớc, thậm chí không dừng lại ở
giới hạn thời gian không gian nào cả. Có
những sự đối xứng, cân bằng nếu không đem
lại cho con ngời những rung cảm thẩm mỹ thì
nó không hài hoà.
Trong bớc đờng phát triển t tởng mỹ
học, các nhà duy vật mỹ học thế kỷ

XVII - XVIII nh Etmun Bơccơ, Đidrô vv
Cũng đã đề cập đến những khía cạnh của sự
hài hoà thẩm mỹ tuy nhiên do hạn chế bởi t
duy siêu hình nên họ chỉ nêu lên đợc những
dấu hiệu bề ngoài hoặc sự hài hoà giữa các
yếu tố, thuộc tính riêng lẻ của sự vật. Ví dụ
nh tính nhỏ nhắn và tơng đối của đối tợng,
sự mịn màng của bề mặt đối tợng.
Các nhà triết học cổ điển Đức nh Kant,
Heghen vv đã có công rất lớn khi xây dựng
một cách hệ thống những tiêu chí để thẩm
định cái đẹp trong mỹ học. Tuy vậy, do mắc
phải sai lầm duy tâm nên những quan niệm về
sự hài hoà của Kant, Heghen cha trở thành
một tiêu chí đúng đắn để đánh giá cái đẹp
trong nghệ thuật cũng nh trong đời sống.
Phải chờ đến sự ra đời của mỹ học Mác -
Lênin thì khái niệm hài hoà mới đợc hiểu đầy
đủ, trọn vẹn và khoa học.
b. Quan niệm của mỹ học Mác - Lênin về
sự hi ho thẩm mỹ
Theo quan niệm mỹ học của
Mác - Lênin: Hài hoà thẩm mỹ là khái niệm
phản ánh tính toàn vẹn, hợp lý, thống nhất
của các mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc
nội dung, kết cấu của một chỉnh thể, khách
thể thẩm mỹ hoặc sự tơng hợp giữa sự vật
hiện tợng thẩm mỹ này với sự vật hiện tợng
thẩm mỹ khác trong tính muôn màu, muôn vẻ
của chúng. Hài hoà thẩm mỹ đợc biểu hiện

trong sự nẩy sinh và giải quyết mâu thuẫn của
tất cả các hiện tợng, quá trình trong tự nhiên,
xã hội, tinh thần. Hài hoà chính là thuộc tính
cơ bản của cái đẹp và hài hoà phát triển tới
đỉnh cao là sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập. Sự hài hoà giữa đối tợng
khách thể thẩm mỹ không phải là sự cân
bằng, hoà hợp một chiều mà là sự thống nhất
trên cơ sở khác biệt về lợng và về chất, của
sự nảy sinh và giải quyết các mâu thuẫn tự
thân. Sự vật đợc gọi là đẹp phải có sự thống
nhất và đấu tranh giữa cái đẹp và cái cha
đẹp, cái hợp lí và cha hợp lí, sự cân bằng và
cha cân bằng, cái tỉ lệ và không tỉ lệ vv
Song nó luôn có khuynh hớng giải quyết các
mâu thuẫn ấy để đạt tới sự hài hoà. Nh vậy,
KT-ML

hài hoà theo quan niệm mỹ học Mác - Lênin
không chỉ là dấu hiệu thuần tuý hình thức mà
bao giờ nó cũng mang tính nội dung. Một
gơng mặt, một cơ thể đẹp phải tơng xứng
với sự phát triển của trí tuệ, sự phong phú
nhuần nhuỵ trong tâm hồn, năng lực hoạt
động thực tiễn tốt, lối sống đẹp vv Đó mới
thực sự là sự hài hoà thẩm mỹ. Nội dung đầy
đủ của sự hài hoà thẩm mỹ nh vậy mới là
tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp của con ngời.
Không chỉ thế mỹ học Mác - Lênin còn
khẳng định sự hài hoà luôn có nguồn gốc

khách quan. Chính sự phong phú của các
hiện tợng thẩm mỹ trong tự nhiên hài hoà với
các khía cạnh đa dạng của cuộc sống con
ngời nói lên sự tồn tại phong phú, muôn vẻ
của sự hài hoà và nó cũng là nguyên nhân
dẫn tới sự đa dạng trong thế giới của cái đẹp.
Điều này chống lại quan điểm duy tâm trong
mỹ học mang tính duy tâm của Kant và
Heghen.
Bên cạnh đó, mỹ học Mác - Lênin cũng
khẳng định hài hoà mang bản chất xã hội.
Thực tiễn và các quan hệ giá trị là chuẩn mực
quy định cái đẹp. Hài hoà trong lĩnh vực xã hội
đợc xác định từ thớc đo văn hoá - xã hội.
Thớc đo ấy đợc hình thành lâu đời trong các
chuẩn mực xã hội thông qua thực tiễn lao
động sản xuất và đấu tranh. Sự cân xứng, hài
hoà thẩm mỹ là sự phù hợp giữa các thuộc
tính, các yếu tố trong bản thân sự vật, trong
quan hệ giữa các sự vật với nhau và với hoàn
cảnh xung quanh nó. Đó còn là sự phù hợp
giữa sự vật với các nhu cầu tinh thần và thực
tiễn của con ngời, xã hội trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể. Hình tợng hài hoà
thẩm mỹ là sự tổng hợp tác động qua lại giữa
các giá trị và phản giá trị tạo thành một xu
hớng phát triển, gắn bó với quá trình hoàn
thiện, với lý tởng xã hội tích cực, với sức sống
và sự phát triển toàn diện của cuộc sống. Với
nghĩa nh thế sự hài hoà không chỉ đợc quy

định bởi quá trình hình thành (lao động) mà
còn đợc khẳng định do bản chất xã hội của
con ngời, bởi con ngời sống không chỉ quan
hệ với tự nhiên mà còn quan hệ lẫn nhau, quy
định lẫn nhau.
Khi đánh giá khách thể thẩm mỹ, tiêu chí
hài hoà thẩm mỹ còn gắn liền với hoàn thiện
thẩm mỹ. Bởi hoàn thiện thẩm mỹ là sự hài
hoà của khách thể đạt tới mức độ cao, trọn
vẹn và đầy đủ nhất trong một bối cảnh xác
định nào đó. Khi đó các thuộc tính thẩm mỹ
của đối tợng coi nh đạt tới sự hài hoà tối u.
Hoàn thiện thẩm mỹ đợc xem là sự hài hoà ở
mức độ lý tởng, tiếp cận với lý tởng thẩm
mỹ của con ngời và xã hội. Vì lẽ đó hoàn
thiện thẩm mỹ luôn tồn tại với t cách là
chuẩn mực để đánh giá cái đẹp Trong hệ
thống các tiêu chí đánh giá cái đẹp, hài hoà
thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ có quan hệ
biện chứng với nhau. Hài hoà là tiền đề, điều
kiện của hoàn thiện thẩm mỹ và hoàn thiện
thẩm mỹ là biểu hiện của sự hài hoà đạt đến
mức cao nhất, mang ý nghĩa tích cực nhất. Hài
hoà thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ cũng có
quan hệ mật thiết với các tiêu chí khác trong
đánh giá cái đẹp (tính nhân văn, tính biểu cảm
tính, hình tợng, tính sáng tạo ). Chúng tạo
nên một hệ tiêu chí tồn tại đồng hành trong
thẩm định, nhận diện cái đẹp của sự vật hiện
tợng theo hệ chuẩn Chân - Thiện - Mỹ.

KT-ML
Tóm lại, quan niệm về cái đẹp vận động
và biến đổi trong lịch sử và cùng với nó là sự
vận động và biến đổi của tiêu chí hài hoà
trong thẩm định cái đẹp. Cái đẹp của ngày
hôm qua khác cái đẹp của hôm nay và ngày
mai. Sự đa dạng trong quan niệm về cái đẹp
luôn tiến triển theo thời gian, xu thế phát triển
của xã hội đồng thời phụ thuộc nhiều vào tính

phong phú, độc đáo, những đặc trng riêng
của bản sắc văn hoá, đặc điểm tâm sinh lý,
hoàn cảnh thởng thức của cá nhân, của các
cộng đồng ngời trong lịch sử nhng sẽ không
có cái đẹp nếu không có sự hài hoà thẩm mỹ,
không đem đến cho con ngời những rung
cảm thẩm mỹ. Và, hài hoà thẩm mỹ theo quan
điểm Mác - Lênin trở thành cơ sở, định hớng
cho con ngời hớng tới cái đẹp chân chính
nhất.
2. Một vài khía cạnh biểu hiện của sự
hài hoà trong cuộc sống
Trong cuộc sống hiện thực, sự hài hoà
thẩm mỹ biểu hiện ở nhiều lĩnh vực và cùng
với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội
mà nội dung của sự hài hoà đợc biểu hiện
ngày một sinh động, đa dạng, nhiều chiều
hơn. Hài hoà trong đời sống mang ý nghĩa xã
hội cao nhất là sự hài hoà trong mẫu hình
nhân cách con ngời, hài hoà giữa con ngời

với tự nhiên, hài hoà giữa các giá trị văn hoá
tinh thần có ý nghĩa chuẩn mực.
KT-ML
a. Hi ho giữa con ngời v tự nhiên
Hài hoà giữa con ngời và tự nhiên là một
biểu hiện của sự hài hoà trong cuộc sống. Đạt
đến sự hài hoà, sự hoà hợp giữa con ngời và
tự nhiên không chỉ có ý nghĩa to lớn về mặt
thẩm mỹ mà còn là một trong những nhân tố
quan trọng của phát triển xã hội, là một trong
những nội dung cơ bản nhất của triết lý phát
triển và phát triển bền vững trong thời đại
ngày nay.
Xuất phát từ những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác về mối quan hệ giữa con ngời và
tự nhiên dựa trên cơ sở tính thống nhất vật
chất của thế giới, có thể thấy rằng thế giới cực
kỳ phức tạp và đa dạng đợc cấu thành từ
nhiều yếu tố song suy cho cùng có ba yếu tố
cơ bản là: Giới tự nhiên, con ngời và xã hội
loài ngời thống nhất với nhau trong một hệ
thống tự nhiên - con ngời - xã hội. Vì rằng
chúng đều là những dạng thức khác nhau,
những trạng thái, những đặc tính và những
quan hệ khác nhau của vật chất đang vận
động. Chúng là một chỉnh thể toàn vẹn.
Trong Bản thảo kinh tế triết học viết
năm 1844. C.Mác khẳng định Giới tự nhiên là
thân thể vô cơ của con ngời Con ngời sống
dựa vào tự nhiên Sinh hoạt vật chất và sinh

hoạt tinh thần của con ngời quan hệ khăng
khít với tự nhiên Con ngời là một bộ phận
của tự nhiên. Nh vậy, con ngời và xã hội
loài ngời không thể là gì khác mà chính là
con đẻ của giới tự nhiên, một bộ phận đặc biệt
của giới tự nhiên, sản phẩm hoàn thiện và
phức tạp nhất của giới tự nhiên, có quan hệ
khăng khít với giới tự nhiên. Tạo nên sự hài
hoà giữa con ngời và tự nhiên là tuân theo
quy luật vận động của thế giới vật chất nh
một quá trình lịch sử tự nhiên và đó là sự hài
hoà có ý nghĩa lớn nhất về mặt thẩm mỹ. Con
ngời là sản phẩm của sự phát triển của giới
tự nhiên vì vậy mối quan hệ giữa con ngời và
tự nhiên đợc thiết lập, biến đổi cùng với sự
phát triển của xã hội loài ngời. Xã hội càng
phát triển, khoa học kỹ thuật càng phát triển
thì loài ngời càng có cơ hội khám phá, tìm
hiểu, chinh phục thiên nhiên. Song cũng chính
mục đích kiếm tìm lợi nhuận của con ngời mà
con ngời với nền văn minh công nghiệp của
mình đã làm phá vỡ mối quan hệ hài hoà giữa
con ngời và tự nhiên. Ăng ghen từng cảnh
báo rằng: văn hoá nếu khai thác một cách
bừa bãi sẽ để lại đằng sau nó những hoang
mạc khi bàn về quan hệ giữa nền văn minh
công nghiệp với quá trình chinh phục tự nhiên.
Việt Nam là một thành viên của ngôi nhà
chung thế giới vì vậy tạo đợc sự hài hoà
trong quan hệ giữa con ngời và tự nhiên

trong ý thức của mỗi ngời là một điều cần
làm và nên làm. Hàng ngàn năm dựng nớc
và giữ nớc, con ngời Việt Nam luôn có ý

thức gắn bó với môi trờng tự nhiên, dựa vào
tự nhiên để sinh tồn. Truyền thống hoà hợp
với tự nhiên của dân tộc ta là một lối sống, lối
nghĩ có từ xa xa và đợc củng cố trong quá
trình phát triển. Ngời Việt Nam xa đã từng
có quan niệm về sự hài hoà giữa con ngời và
tự nhiên nh thiên - địa - nhân, trong quá
trình hoạt động thực tiễn mà hình thành quan
niệm thiên thời - địa lợi - nhân hoà. Tuy vậy
mối quan hệ giữa con ngời và tự nhiên, sự
hài hoà giữa con ngời và tự nhiên ở Việt Nam
nói riêng, thế giới nói chung hiện nay đang bị
phá vỡ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
là do ảnh hởng những mặt trái của cơ chế thị
trờng của quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá. Tốc độ phát triển chóng mặt của nền
kinh tế trong các xã hội công nghiệp đòi hỏi
nguồn nguyên liệu, nhiên liệu nhất là trong
điều kiện: xu thế quốc tế hoá đang nghiêng về
các nớc t bản u trội về khoa học - kỹ thuật
càng đẩy tới nguy cơ phá vỡ sự cân bằng, hoà
hợp của môi trờng tự nhiên.
Chúng ta có thể thấy kinh tế thị trờng
với quy luật giá trị, quy luật cung- cầu và quy
luật cạnh tranh đang tấn công dữ dội vào cả 2
mối quan hệ cơ bản: quan hệ giữa con ngời

với con ngời và quan hệ giữa con ngời với
tự nhiên. Để giải quyết những nhu cầu cấp
thiết về kinh tế - xã hội và thoả mãn những lợi
ích trớc mắt, con ngời sẵn sàng khai thác,
sử dụng tài nguyên bừa bãi. Sự hối thúc khai
thác tài nguyên thên nhiên càng ráo riết hơn
trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá -
hiện đại hoá. Hơn thế, bài toán hoà nhập mà
không hoà tan để không là bóng mờ của các
nớc u trội về kinh tế - kỹ thuật đang đặt ra
cho môi trờng sinh thái Việt Nam những
thách đố lớn. Đó là cha kể đến ảnh hởng
của sự phát triển công nghiệp để lại rác thải, ô
nhiễm nguồn nớc, nguồn không khí. Nếu con
ngời thực hiện việc chinh phục làm chủ
thiên nhiên một cách cực đoan, trái quy luật
thì tất yếu đến lợt mình thiên nhiên sẽ trừng
phạt trở lại con ngời. Về phơng diện mỹ
học thì đó là kết quả của sự phản hài hoà
trong mối quan hệ của con ngời và tự nhiên.
Sự suy thoái của môi trờng sinh thái
hiện nay đang kêu gọi cả nhân loại (không
chỉ riêng Việt Nam) phải cùng nhau tìm ra giải
pháp thiết thực để khắc phục tình trạng đó.
Truyền thống hoà hợp giữa con ngời và tự
nhiên là bài học quý báu, vốn liếng không
thể thiếu, trong quá trình thực hiện tiến trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định
hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cần hình
thành cho con ngời cách sống hài hoà với tự

nhiên. Để làm đợc điều đó trớc hết phải xây
dựng ý thức sinh thái trong nhân dân ở tất cả
mọi phơng diện: t duy kinh tế, ý thức chính
trị, đạo đức, đặc biệt là quan niệm đúng đắn
về văn hoá thẩm mỹ. Đây là nhóm giải pháp
có tính khả thi. Có nh vậy mới tạo cho con
ngời có thói quen sống hài hoà, sống đẹp
trong quan hệ với tự nhiên - thân thể vô cơ
của chính con ngời. Đồng thời, cần nâng cao
chất lợng và hiệu quả của giáo dục đào tạo
trong xây dựng ý thức sinh thái. Đổi mới nhận
thức, cơ chế tổ chức kĩ thuật quản lý, hình
thành và xây dựng ý thức sinh thái. Tất cả các
dự án, chơng trình kinh tế - xã hội, các nhà
máy, khu công nghiệp phải đợc luận chứng
đầy đủ và chính xác về mặt tác động tới môi
trờng sống. Đặc biệt, Nhà nớc ta cần tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động kinh tế - xã hội - môi
trờng. Bảo vệ và cải thiện môi trờng sống
theo hớng kết hợp hài hoà giữa phát triển
kinh tế - xã hội và môi trờng mà nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu ra
thể hiện sự sáng suốt của Đảng ta trong thực
hiện sự hài hoà giữa con ngời và tự nhiên.
KT-ML
b. Hi ho trong cấu trúc nhân cách
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin,

lịch sử xã hội loài ngời là lịch sử của con
ngời, do con ngời và vì con ngời. Một trong

những thớc do sự phát triển xã hội, bản chất
tốt đẹp của xã hội chính là sản xuất ra những
con ngời phát triển toàn diện, đa con ngời
từ vơng quốc tất yếu sang vơng quốc tự
do. Bản chất của con ngời là luôn vơn tới
cái đẹp,vì vậy mà con ngời không ngừng
vơn tới sự hoàn thiện nhân cách, vơn tới sự
hài hoà bên trong cấu trúc của nhân cách. Đó
là sự hài hoà trong từng bộ phận cũng nh
toàn bộ nhân cách (phẩm chất - tài năng, sự
phong phú nhuần nhuỵ của tâm hồn, khả
năng hoạt động thực tiễn) Sự hài hoà này
càng cao càng khăng định là một nhân cách
đẹp. Và vì thế, cấu trúc một nhân cách đẹp
cần thần phép của sự hài hoà.
Chủ nghĩa Mác cũng khẳng định: con
ngời tiềm tàng trong nó khả năng của một cá
nhân, tức là của cái tôi mang nhân cách.
Nhng cái tôi nhân cách đó thực sự hình
thành và phát triển gắn với những điều kiện xã
hội đã đạt trình độ hiện đại. Trong xã hội Việt
Nam truyền thống, do đặc điểm cụ thể về điều
kiện kinh tế - chính trị - xã hội mà sức mạnh
u trội luôn thuộc về sức mạnh chi phối của
cộng đồng chứ cha phải là sự phát triển của
các nhân. Con ngời trong xã hội truyền thống
là con ngời của cộng đồng, hoà vào mọi cấp
độ của cộng đồng từ quốc gia đến làng xã, gia
tộc, gia đình. Con ngời chỉ thấy hài lòng,
thanh thản, hạnh phúc khi làm tròn trách

nhiệm với gia đình, vợ con, làng nớc. Và chỉ
nh vậy họ mới đợc tôn trọng và ngợi ca.
Hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống
Mỹ khốc liệt với bao khó khăn chồng chất,
Việt Nam cha có điều kiện để khắc phục hạn
chế của xã hội truyền thống về mối quan hệ
giữa cá nhân và công đồng. Đó là hạn chế cơ
bản của chuẩn mực hài hoà trong đánh giá
thẩm mỹ về nhân cách. Đờng lối đổi mới của
Đảng thực sự đã đem lại cách nhìn nhận,
đánh giá mới về sự hài hoà trong mẫu hình
nhân cách mới và trên thực tế tạo cơ sở hiện
thực cho sự hài hoà này. Trung tâm của triết lý
phát triển hài hoà trong thời đại hiện này nói
chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng là sự
hài hoà trong mẫu hình nhân cách mới, là chất
lợng phát triển con ngời (Human
developmet). Chất lợng phát triển con ngời
đang là mối quan tâm hàng đầu và lâu dài
của Đảng và Nhà n
ớc ta, là cơ sở cho mọi đề
án, dự án phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội
ở Việt Nam. Phát triển con ngời theo hớng
nhân văn, nhân đạo là hớng tới mẫu hình
nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà. Sự
hài hoà ấy chỉ có đợc khi cái tôi đợc khẳng
định trong xu thế phát triển của xã hội. Nghĩa
là mọi nhu cầu vật chất - tinh thần của cá
nhân đợc xã hội đáp ứng và ngợc lại. Cá
nhân phát triển thúc đẩy xã hội phát triển. Đó

là sự hài hoà không chỉ trong từng bộ phận
của nhân cách mà trong toàn bộ nhân cách,
là hài hoà mọi giá trị trong con ngời đợc
biểu hiện cụ thể ở sự phát triển về tinh thần,
trí tuệ, thể chất, ở năng lực sáng tạo, ở sự
phong phú nhuần nhuỵ của đời sống tinh
thần, tình cảm và ở cả các quan hệ xã hội đa
dạng của con ngời. Định hớng phát triển
con ngời Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng hiện nay đã đợc nhấn mạnh ở Đại hội
Đảng toàn quốc lần IX cũng chính là định
hớng theo chỉ tiêu về một nhân cách phát
triển hài hoà.
KT-ML
Bên cạnh những nhân tố tích cực do xu
thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá và cơ chế thị
trờng đem lại thì những nhân tố tiêu cực vẫn
len lỏi và tác động đến mọi lĩnh vực của đời
sống, ảnh hởng không tốt đến nhân cách
một bộ phận không nhỏ ngời Việt Nam hiện
nay, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Thực trạng
đó đang dẫn tới sự suy giảm chất lợng phát

triển nhân cách thậm chí có nguy cơ làm biến
dạng nhân cách. Đó cũng là biểu hiện của sự
mất hài hoà trong bộ phận và toàn bộ nhân
cách. ở đâu mất sự hài hoà thì ở đó không
còn cái đẹp. Nhân cách cũng vậy, một khi mất
đi sự phát triển hài hoà thì đó là dấu hiệu của
sự mai một và suy thoái. Để có sự phát triển

hài hoà trong mẫu hình nhân cách đòi hỏi có
biện pháp đồng bộ: phát triển kinh tế -văn hoá
- xã hội, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật
chất tinh thần cho nhân dân đồng thời phải
tăng cờng thực hiện các giải pháp khác,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo
dục đào tạo, coi đó là con đờng trực tiếp,
ngắn nhất, có hiệu quả lâu dài nhất.
Thực tiễn giáo dục những năm gần đây
còn nhiều bất cập, nhất là việc coi nhẹ công
tác giáo dục chính trị, t tởng, đạo đức,
truyền thống cho học sinh - sinh viên nh Đại
hội Đảng toàn quốc lần IX đã tổng kết. Đã đến
lúc cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc
về thực trạng giáo dục hiện nay và có giải
pháp tích cực để khắc phục sự mất cân đối,
thiếu hài hoà trong việc hình thành nhân cách
cho con ngời Việt Nam. Tạo sự cân bằng
trong giáo dục, nâng cao chất lợng đội ngũ,
chất lợng đào tạo, đổi mới nội dung và
phơng pháp giảng dạy để phát huy tính tích
cực của ngời học, áp dụng khoa học công
nghệ vào nhà trờng để hớng tới sự phát
triển toàn diện của con ngời trong giai đoạn
hiện nay là giải pháp khả thi để tạo sự hài hoà
trong phát triển nhân cách. Chỉ có nh vậy
mới có thể thúc đẩy đợc sự phát triển toàn
diện con ngời theo định hớng phát triển con
ngời Việt Nam hiện đại nh Đại hội Đảng
toàn quốc lần IX đã đề ra.

KT-ML
c. Hi ho giữa kinh tế - chính trị - văn
hoá
Mối quan hệ giữa 3 yếu tố kinh tế - chính
trị - văn hoá là biểu hiện mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức theo quan điểm của triết học
Mác - Lênin. Về phơng diện Mỹ học tạo nên
sự hài hoà giữa kinh tế - chính trị - văn hoá là
tiêu chuẩn, thớc đo đánh giá trình độ và bản
chất của một chế độ xã hội tốt đẹp. Phát triển
kinh tế theo hớng bền vững, nhân văn chính
là tạo cơ sở vật chất, nền tảng vật chất đảm
bảo cho sự ổn định chính trị và phát triển nền
văn hoá của mỗi quốc gia. Ngợc lại phát
triển văn hoá cũng chính là tạo ra động lực,
xác định mục tiêu cho phát triển kinh tế và
phát triển xã hội.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội với những thời cơ và thách
thức mới. Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng
phát triển thể chế kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Có
những quan điểm cho rằng kinh tế thị trờng
không đồng hành với chế độ xã hội chủ nghĩa
mà nó là sản phẩm của nền kinh tế t bản chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong xu thế của thời đại
này, một khi hội đủ các điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan, một khi kết hợp đợc
các yếu tố dân tộc - quốc tế - thời đại thì hoàn

toàn có thể kế thừa đợc những thành tựu, giá
trị của nền văn minh nhân loại và nâng chúng
lên một trình độ mới. Đối với việc phát triển
thể chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cũng vậy, với sự tập
trung, nỗ lực trí tuệ của Đảng, Nhà nớc và
của toàn dân chúng ta có thể xây dựng phát
triển nền kinh tế thị trờng với sự hài hoà giữa
các yếu tố kinh tế - chính trị - văn hoá. Cơ chế
thị trờng hoàn toàn có thể phát huy mặt tích
cực, hạn chế đợc các mặt tiêu cực nếu có sự
định hớng của đờng lối chính trị xã hội chủ
nghĩa và đảm bảo lu giữ và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc.
Chủ trơng xây dựng nền văn hoá tiên

tiến đậm đà bản sắc dân tộc là kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp đã
đợc lu giữ qua hàng ngàn năm lịch sử và
tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa văn hoá
của nhân loại. Lịch sử đã chứng kiến sự gặp
gỡ giao thoa của nhiều luồng văn hoá đem lại
hiệu quả thúc đẩy mọi mặt đời sống xã hội. Sự
gặp gỡ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ
nghĩa yêu nớc Việt Nam, sự áp dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam ở từng giai đoạn cách mạng đem lại
thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam ở thế
kỷ XX, tạo tiền đề to lớn cho Việt Nam tiến
vào thế kỷ XXI chính là những minh chứng

đầy sức thuyết phục.
KT-ML
ở giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin,
t tởng Hồ Chí Minh (với ý nghĩa là những giá
trị văn hoá, tinh hoa của nhân loại và của dân
tộc) đợc xác định là nền tảng, là kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của Đảng và Nhà nớc
trong đề ra chủ trơng, chính sách phát triển
kinh tế văn hoá, đảm bảo sự ổn định chính trị.
Chính chủ nghỉa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh là ngọn đuốc soi đờng cho mọi hoạt
động tạo nên sự hài hoà giữa kinh tế - chính trị
- văn hoá của Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng này.
iv. Kết luận
Hài hoà là một khái niệm mỹ học phản
ánh một thuộc tính, một nội dung cơ bản của
cái đẹp đồng thời là một tiêu chí để đánh giá
cái đẹp. Bất kỳ cái đẹp nào trong sự tồn tại
của nó cũng phải có sự hài hoà giữa các yếu
tố, thuộc tính của sự vật và sự hài hoà với sự
vật, hoàn cảnh chung quanh. Khái niệm hài
hoà chứa đựng trong nó nội hàm phong phú ở
nhiều cung bậc, cấp độ và ý nghĩa khác nhau.
ở mỗi lĩnh vực, mỗi quan hệ, hài hoà thẩm mỹ
đợc biểu hiện rất sinh động và nhiều chiều.
Trong lịch sử phát triển t tởng mỹ học
của nhân loại với sự ra đời của mỹ học
Mác - Lênin, khái niệm hài hoà thẩm mỹ lần
đầu tiên đợc xem xét 1 cách trọn vẹn và

khoa học. Nó trở thành cơ sở để con ngời
hớng tới cái đẹp chân chính. Trong đời sống
xã hội, duy trì sự hài hoà trong mối quan hệ
giữa con ngời với tự nhiên, quan hệ giữa con
ngời và con ngời là một đòi hỏi cấp thiết có
ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của
con ngời đặc biệt là trong thời đại ngày nay.
Đó là việc khó khăn nhng rất quan trọng và
cần thiết vì có hài hoà là có cái đẹp và tiến bộ.
Tài liệu tham khảo
[1]. C. Mác - F. Anghen. Toàn tập, tập 3. NXB
Chính trị quốc gia, Hà nội 1995.
[2]. C. Mác - F. Anghen. Toàn tập, tập 20. NXB
Chính trị quốc gia, Hà nội 1995.
[3]. Trần Lê Bảo (chủ biên). Văn hoá sinh thái nhân
văn. NXB văn hoá thông tin, 2001.
[4]. Lê Duẩn: Thanh niên với cách mạng xã hội chủ
nghĩa. NXB thanh niên 1978.
[5]. Lê Bá Hán, H Minh Đức: Cơ sở lý luận văn
học, tập 2. NXB giáo dục Hà nội 1973.
[6]. Học viện chính trị quốc gia HCM. Giáo trình mỹ
học Mác - Lênin. NXB chính trị quốc gia 2000.
[7]. Hội bảo vệ môi trờng GTVT. Môi trờng. NXB
GTVT 1994.
[8]. Đỗ Văn Khang: Lịch sử mỹ học nguyên thuỷ -
Hy lạp cổ đại. NXB văn hoá 1983.
[9]. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Nguyên lý mỹ
học Mác - Lênin, phần IV. NXB sự thật Hà nội
1963.
[10]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX.

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
[11]. Nguyễn Hữu Vui. Lịch sử triết học. NXB chính
trị quốc gia Hà nội 2004


×