Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo khoa học: "Mối quan hệ giữa tăng tr-ởng kinh tế và công bằng xã hội" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.16 KB, 7 trang )


Mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế
v công bằng xã hội

CN. Nguyễn trung hiếu
Bộ môn Kinh tế chính trị
Khoa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh
Trờng Đại học GTVT

Tóm tắt: Mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế v công bằng xã hội từ lâu luôn l một
trong những đề ti ginh đợc sự quan tâm của nhiều nh nghiên cứu, từ đó hình thnh nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề ny. Báo cáo ny, chúng tôi trình by một số quan điểm về
mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế v công bằng xã hội v phân tích sự tơng tác giữa tăng
trởng kinh tế v công bằng xã hội.
Summary: For a long time, the relationship between economic growth and social equity is
always one of themes, which attract many researchers' attention and accordingly, lead to
different opinions of the theme. In this article, we present some opinions of the relationship
between economic growth and social equity as well as interaction between them.

KT-ML
i. đặt vấn đề
Giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa
tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội đang
là vấn đề đợc lu tâm hàng đầu ở hầu hết
các quốc gia trong thời đại ngày nay. Điều đó
lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, việc đạt đợc mục tiêu kép này không
dễ dàng. Trên thực tế đã có nhiều bằng chứng
về sự đối lập giữa tăng trởng kinh tế và


công bằng xã hội. Các chính sách dựa trên
mục tiêu công bằng thái quá có thể dẫn đến
triệt tiêu các động lực tăng trởng kinh tế;
ngợc lại, những chính sách chỉ nhằm vào các
tăng trởng kinh tế có thể làm cho bất bình
đẳng xã hội tăng lên. Vậy, phải chăng giữa
tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội là
mâu thuẫn không thể giải quyết và không thể
dung hoà? Nói cách khác, xét trên cả phơng
diện lý luận và thực tiễn, liệu có thể tạo dựng
mối quan hệ hợp lý giữa tăng trởng và công
bằng? Dới đây chúng tôi sẽ góp phần lý giải
vấn đề đó.
ii. nội dung
1. Các quan điểm lý thuyết về việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế
và công bằng x hội
Quá trình hình thành và phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trờng, đặc biệt là ở
các nớc đang phát triển, dẫn đến sự mâu
thuẫn giữa việc thúc đẩy tăng trởng kinh tế
với giải quyết công bằng xã hội. Có rất nhiều
quan điểm khác nhau về việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trởng và thực hiện công
bằng. Nhìn chung, có thể tổng hợp thành ba

loại quan điểm chính dới đây.
a. Quan điểm Tập trung thúc đẩy tăng
trởng kinh tế bằng mọi giá, coi các vấn đề xã
hội nảy sinh là cái giá phải trả của nền kinh tế

thị trờng và hệ quả tơng ứng của quan
điểm này.
Những ngời theo quan điểm này cho
rằng tăng trởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất
bình đẳng và chính sự bất bình đẳng là điều
kiện thúc đẩy tăng trởng. Lập luận của họ là:
Chỉ tầng lớp có thu nhập cao mới có khả năng
tích luỹ và đó là nguồn bảo đảm đầu t chủ
yếu cho tăng trởng. Bất kỳ sự phân phối nào
làm giảm mức độ tập trung thu nhập cho tầng
lớp này đều ảnh hởng xấu đến tăng trởng
kinh tế. Lập luận đó dựa vào thực tiễn và lịch
sử của chủ nghĩa t bản trong giai đoạn tích
luỹ t bản nguyên thuỷ. Ngời đầu tiên đặt
nền móng cho lập luận này là D. Ricardo. Ông
cho rằng tăng trởng kinh tế có đợc nhờ mức
tiết kiệm cao của tầng lớp t sản, do đó ông
chống lại việc phân phối lại thu nhập gây bất
lợi cho tầng lớp này. Những lập luận đầy đủ
nhất về tăng trởng đối lập với công bằng
đợc trình bày trong lý thuyết nhị nguyên của
W.Arthur Lewis, nhà kinh tế học Jamica.
Trong lý thuyết về mô hình kinh tế nhị nguyên
hay còn gọi là mô hình kinh tế hai khu vực. Mô
hình của W. A. Lewis cũng đợc các nhà kinh
tế học John Fei và Guatav Raris áp dụng vào
phân tích quá trình tăng trởng ở các nớc
đang phát triển. T tởng cơ bản của mô hình
này là chuyển số lao động d thừa trong
ngành nông nghiệp sang các ngành công

nghiệp. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển.
Theo W. A. Lewis, bất bình đẳng không
những là kết quả tất yếu của tăng trởng mà
còn là nguyên nhân thúc đẩy tăng trởng. Sự
chênh lệch trong thu nhập của lao động trong
ngành công nghiệp và ngành nông nghiệp là
tiền đề cho mô hình của ông. Tuy nhiên W. A.
Lewis không cho rằng bất bình đẳng thu nhập
là vĩnh viễn, mà chỉ trong giai đoạn đầu của
sự phát triển. Sự tăng lên nhất thời của bất
bình đẳng là cái giá phải trả cho thành công
và tất cả mọi ngời nếu biết chờ đợi sự phát
triển đi theo đúng tiến trình của nó, họ sẽ
đợc hởng thành quả. Khi lao động d thừa
đợc chuyển hết sang khu vực hiện đại, lao
động sẽ trở thành nguồn lực khan hiếm, tạo
thành sức ép tăng lơng. Tiền lơng tăng sẽ
giảm bất bình đẳng và nghèo khổ.
Mô hình của W. A. Lewis đã đợc thừa
nhận và áp dụng khá rộng rãi ở các nớc
đang phát triển trong nhiều thập niên thuộc
nửa cuối thế kỷ XX. Tuy vậy, nó cũng bộc lộ
nhiều khiếm khuyết và bị phê phán từ nhiều
phía. Thứ nhất, W. A. Lewis đã giả định chỉ
trong nông nghiệp mới d thừa lao động, còn
trong công nghiệp đạt đợc mức hữu hiệp
toàn thể. Thực tế ở các nớc đang phát triển
cho thấy hiện tợng thất nghiệp ở khu vực
công nghiệp cũng ngày càng tăng. Thứ hai,

mô hình này chỉ phù hợp khi nhà t bản sử
dụng công nghệ nhiều lao động, nhng thực
tế thờng diễn ra ngợc lại. Mặt khác, lao
động d thừa trong nông nghiệp là lao động
không có chuyên môn, còn lao động đợc sử
dụng trong các ngành công nghiệp phải có kỹ
năng nhất định. Thứ ba, ở các nớc châu á
gió mùa, nên nông nghiệp lúa nớc vẫn thiếu
lao động trong các đỉnh cao của thời vụ, chỉ
d thừa lao động trong thời kỳ nông nhàn.
KT-ML
Ngoài ra, một mô hình khác cũng chịu
ảnh hởng của quan điểm trên- đó là mô hình
tăng trởng dạng chữ (chữ U ngợc) của
S.Kuznets. Mô hình đợc xây dựng trên sự
khảo nghiệm thực tế của một số nớc đợc
tiến hành vào năm 1995. Theo mô hình
S.Kuznets, khi thu nhập quốc dân bình quân
đầu ngời thấp thì mức độ bất bình đẳng cũng
thấp. Bất bình đẳng sẽ tăng lên liên tục theo
đà tăng trởng kinh tế và chỉ giảm đi khi xã
hội đã đạt đến một trình độ phát triển kinh tế
nhất định. Lập luận của S.Kuznets tuy vậy

không thực sự đúng đối với một số nớc kém
phát triển. Không phải tất cả các nền kinh tế
lạc hậu, có mức thu nhập bình quân đầu ngời
thấp lại có mức độ bất bình đẳng thấp.
Mặt khác, bên cạnh những nhợc điểm
của các mô hình nói trên, việc htực thi quan

điểm thúc đẩy tăng trởng bằng mọi giá còn
vấp phải một trở ngại lớn: các vấn đề xã hội
nảy sinh không đợc quan tâm giải quyết kịp
thời đã dẫn tới bất ổn định xã hội và kìm hãm
sự tăng trởng.
b. Quan điểm Ưu tiên công bằng xã hội
hơn tăng trởng kinh tế
Một xã hội công bằng luôn là ớc muốn
và mục tiêu của loài ngời. Trong khi đó, ở
một số nớc công nghiệp phát triển, sự tăng
trởng nhanh chóng về kinh tế đã diễn ra
song hành - nói đúng hơn là, kéo theo sự gia
tăng của bất công và tệ nạn xã hội. Từ thực tế
đó đã hình thành quan điểm cho rằng, cần u
tiên công bằng xã hội hơn là tăng trởng và
càng đạt đợc công bằng nhanh chóng thì
càng chứng tỏ xã hội phát triển nhanh.
Quan điểm này đợc biểu hiện rõ thông
qua chính sách phân phối trớc, tăng trởng
sau của các nớc theo hớng xã hội chủ
nghĩa trong nhiều thập kỷ sau đại chiến thế
giới lần thứ hai, với sự ngự trị của mô hình kế
hoạch hoá tập trung. Theo lập luận mang tính
truyền thống và phổ biến của các nớc xã hội
chủ nghĩa trớc đây, bất bình đẳng và bất
công chính là nguyên nhân cản trở sự phát
triển. Vì vậy, trớc tiên cần phân phối lại thu
nhập giữa các thành viên trong xã hội bằng
nhiều biện pháp khác nhau để kích thích tăng
trởng. Vấn đề phân phối thậm chí đợc coi là

nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản
xuất, có tác dụng mở đờng và thúc đẩy lực
lợng sản xuất phát triển. Cơ chế phân phối
đợc thiết lập sao cho đảm bảo thu nhập phụ
thuộc vào đóng góp lao động. Tuy nhiên, xét
về mặt thực tế, nền tảng của các quan hệ
phân phối ở các nớc xã hội chủ nghĩa trớc
đây vẫn là chủ nghĩa bình quân, duy trì bình
đẳng theo quan điểm bình quân; hơn nữa, các
nớc này đã thực hiện chính sách phúc lợi
rộng rãi bất chấp trình độ phát triển kinh tế về
cơ bản còn yếu kém.
Đờng lối phát triển kinh tế của các nớc
Bắc Âu theo mô hình Nhà nớc phúc lợi xã
hội cũng là một biểu hiện khác của quan
điểm u tiên cho công bằng xã hội. Các nớc
này cho rằng công bằng xã hội là động lực
thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Vì vậy, họ chú
trọng thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội
rộng rãi, nhà nớc tập trung đầu t vào các
hàng hoá công cộng, gắng sức tạo điều kiện
để mọi ngời dân trong xã hội đều đợc
hởng thành quả của tăng trởng kinh tế.
Nhng sau ba bốn thập kỷ, mô hình này cũng
bị phá sản do phúc lợi xã hội phình ra vợt
quá khả năng chịu đựng của nền kinht ế, cho
dù tiềm lực vật chất và tài chính của các nớc
Bắc Âu hơn hẳn các nớc xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu trớc đây.
KT-ML

Trong thời kỳ đầu, các mô hình trên là
nguồn cổ vũ tinh thần to lớn với mọi tầng lớp
nhân dân, tao ra đợc một nguồn động lực
thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế. Tuy nhiên,
qua thời gian, các mô hình này ngày càng bộc
lộ nhiều nhợc điểm. Trớc hết, để tập trung
giải quyết công bằng xã hội cần có nguồn vốn
lớn mà điều này không thể đạt đợc nếu
không có nền tài chính vững mạnh. Trong khi
đó, nếu xét về thực chất, hầu hết các nớc đi
theo con đờng xã hội chủ nghĩa kiểu cũ đều
là những nớc có xuất phát điểm thấp, khả
năng tích luỹ nội bộ kém. Vì vậy, các chính
sách giải quyết công bằng xã hội phần lớn chỉ
đợc thực hiện một cách hình thức, rất xa so
với mục tiêu mong muốn, rất ít hiệu quả và
không thể tạo ra sự phát triển bền vững. Mặt
khác, ngời lao động đợc nhà nớc bao cấp
theo kiểu phân phối hiện vật kéo dài trong
suốt nhiều thập kỷ, do vậy trở nên thụ động, ỷ

nại và dân dần xuất hiện tình trạng kìm hãm
hoặc thập chí triệt tiêu động lực thúc đẩy sự
tăng trởng kinh tế.
c. Quan điểm Thực hiện đồng thời tăng
trởng kinh tế và công bằng xã hội
Nh đã phân tích, cả hai quan điểm trên
đều chứa đựng những mặt bất hợp lý. Vì vậy,
các nhà nghiên cứu đã và đang hớng tới một
quan điểm mới, kết hợp cả hai xu hớng trên,

theo đó, tăng trởng kinh tế phải đợc thực
hiện đồng thời với việc giải quyết bất bình
đẳng xã hội. Ngay từ năm 1968, Murdal là
ngời đầu tiên đã khẳng định rằng bất bình
đẳng cao có thể làm hại cho tăng trởng. Các
nhà nghiên cứu khác nh Ahluwalia (vào năm
1974), Alesia, Perrtotti (1994), Nancey
Birdsall, David Ross và Richard Sobort
(1995) cũng đều khẳng định vai trò tích cực
của công bằng xã hội đối với tăng trởng kinh
tế. Theo quan điểm của Tổ chức Thơng mại
Thế giới (WTO) thì không có bằng chứng nào
cho thấy sự tăng trởng kinh tế lại đi đôi một
cách tích cực với tình trạng bất bình đẳng về
thu nhập, hoặc sự bất bình đẳng dấy đa tới
những nhịp độ tăng trởng cao hơn (1)
KT-ML
Để thực hiện quan điểm kết hợp giữa
tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội, các
nhà nghiên cứu cấp tiến đã đa ra hai hớng
đi chính:
Một là, hớng sự hoạt động kinh tế vào
việc giải quyết các nhu cầu cơ bản của con
ngời. Theo họ, thị trờng không thể phân bổ
thích đáng lợi nhuận do tăng trởng kinh tế
đem lại, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Chính
phủ các nớc cần chuyển giao thu nhập từ
những tầng lớp đợc lợi nhiều hơn sang những
tầng lớp yếu thế trong xã hội bằng các hoạt
động trợ cấp, các chơng trình xoá đói giảm

nghèo, cung cấp các dịch vụ xã hội miễn
phí Mục tiêu đầu tiên mà các Chính phủ cần
đạt đợc là từng bớc xoá bỏ tầng lớp nghèo
tuyệt đối và hạn chế tầng lớp nghèo tơng đối.
Hai là, tái phân phối cùng với tăng trởng
hay tăng trởng cùng chia sẻ (Redistribution
With Growth). Đây là ý tởng của Ngân hàng
Thế giới (WB) đ
ợc thể hiện trong công trình
nghiên cứu cùng tên. Phân phối lại cùng với
tăng trởng nhấn mạnh vào việc tăng khả
năng sản xuất và tiêu dùng của dân chúng,
tức là tăng khả năng tiếp cận với các nguồn
lực có khả năng sinh lợi để phát triển và mở ra
những cơ hội mới làm tăng thu nhập.
Hớng đi thứ nhất nhằm tháo gỡ những
vấn đề có tính cấp bách của các quốc gia
đang phát triển. Hớng đi này có thể đợc
thực hiện thông qua việc huy động các nguồn
vốn viện trợ trong và ngoài nớc. Hớng đi thứ
hai giải quyết theo chiều sâu, mang tính lâu
dài, tháo gỡ đợc vấn đề bức xúc nhất của
các nền kinh tế đang phát triển bằng cách huy
động sức dân và tạo cơ hội để đông đảo nội
dung có thể tham gia khai thác, sử dụng các
nguồn nhân lực (đất đai, vốn) theo những
chính sách định hớng của nhà nớc.
2. Sự tơng tác giữa tăng trởng kinh
tế và công bằng x hội
a. Vai trò của tăng trởng kinh tế đối với

công bằng xã hội
Trớc hết, tăng trởng kinh tế là điều kiện
cần thiết để thực hiện những nhu cầu cơ bản
và ngày càng tăng của con ngời. Xã hội loài
ngời không thể tồn tại và phát triển nếu
không có những thành quả của tăng trởng
kinh tế. Với các nớc đang phát triển, tăng
trởng kinh tế là yêu cầu tiên quyết để thoát
khỏi sự ràng buộc với đói khát, đau yếu, bệnh
tật để nâng cao khả năng cạnh tranh, khắc
phục sự lệ thuộc và rút ngắn khoảng cách tụt

hậu so với các nớc đi trớc. Với các nớc
phát triển, tăng trởng kinh tế đã góp phần mở
ra những khả năng, nhu cầu tiêu dùng mới,
đáp ứng với những khát vọng vô tận của loài
ngời; đồng thời góp phần giải phóng con
ngời khỏi lao động nặng nhọc, lao động cơ
bắp nhờ sự phát triển vợt bậc của khoa học
và công nghệ. Chính W. Arthur Lewis trong
tác phẩm nổi tiếng đợc giải thởng Nobel Lý
thuyết về tăng trởng kinh tế đã từng nhấn
mạnh: tăng trởng kinh tế có lợi cho xã hội
không phải bởi vì của cải nhất thiết làm tăng
hạnh phúc, mà vì của cải mở rộng phạm vi lựa
chọn của con ngời. Đây là cài mà chúng ta
coi là thành tố thứ ba của ý nghĩa nội tại của
sự tăng trởng và phát triển: quyền tự do lựa
chọn. Ngời ta muốn tăng trởng kinh tế là vì
nó tạo cho con ngời quyền kiểm soát rộng rãi

hơn đối với môi trờng xã hội và vật chất, và
do vậy, mở rộng quyền tự do của con
ngời.(2)
KT-ML
Bên cạnh đó, tăng trởng kinh tế còn tạo
ra nguồn lực vật chất quan trọng để giải quyết
những vấn đề xã hội đa dạng, phức tạp, nâng
cao mức sống và điều kiện sống của ngời
dân. Nhờ những thành quả của tăng trởng
kinh tế, các quốc gia có chỗ dựa về vật chất
và tài chính để thực thi các chính sách giáo
dục, y tế, văn hoá cũng nh các công trình
công cộng và các chơng trình phúc lợi chung
khác. Tăng trởng kinh tế còn tạo ra nhiều
khả năng hơn trong việc thực hiện chăm sóc
những nhóm yếu thế trong xã hội nh ngời
đau ốm, tàn tật, thiểu năng và những ngời
gặp rủi ro thông qua các hoạt động bảo đảm
xã hội của quốc gia và các tổ chức, các
chơng trình tơng hỗ phi Chính phủ.
Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn đã cho
thấy, một sự tập trung quá mức cho tăng
trởng kinh tế sẽ làm nảy sinh những vấn đề
xã hội phức tạp nh nạn tham nhũng và buôn
bán ma tuý, nan ô nhiễm môi trờng và cạn
kiệt tài nguyên, sự chệnh lệch giàu nghèo, sự
bất bình đẳng xã hội, sự xuống cấp về đạo
đức và lối sống, sự lan tràn các hành động
bạo lực
Báo cáo về phát triển con ngời (Human

development report, 1998) với chủ đề Những
mẫu hình tiêu dùng và sự liên quan của nó
đến sự phát triển con ng
ời, đã đa ra những
bất bình đẳng trong xã hội hiện đại, và nhận
định: sự tăng trởng của tiêu dùng trong thế
kỷ XX với quy mô và sự đa dạng cha từng
thấy, đã đợc phân phối không tốt, để lại vô
số những khiếm khuyết và bất bình đẳng
lớn(3). Trong đó, 20% nghèo nhất trong dân
số thế giới đã bị loại ra khỏ con bùng nổ về
tiêu dùng. Hơn 1 tỷ ngời bị tớc những nhu
cầu tiêu dùng cơ bản. Hơn 2 tỷ ngời bị thiếu
máu, trong đó 55 triệu ngời ở các nớc công
nghiệp. Trong 4,4 tỷ dân ở các nớc đang
phát triển, gần 3/5 thiếu những điều kiện vệ
sinh cơ bản; gần 1/3 không đợc dùng nớc
sạch; 1/4 không có điều kiện ở thoả đáng; 1/5
không đợc hởng những dịch vụ y tế hiện
đại; 1/5 trẻ em không học đến hết bậc tiểu
học; 1/5 không đợc ăn uống để có đủ năng
lợng và chất đạm. Ngợc lại, 20% ngời giàu
nhất thế giới tiêu thụ 45% thịt và cá; 58% tổng
số năng lợng; 84% tổng lợng giấy; sở hữu
87% tổng số xe cộ,v.v
Về tài nguyên và môi trờng sống, cũng
theo báo cáo trên, toàn cầu đang đứng trớc
hai cuộc khủng hoảng lớn đẩy loài ngời đến
giới hạn tối đa: một là nạn ô nhiễm môi trờng
và chất thải ngày nay đã vợt quá khả năng

của hành tinh để có thể hút và chuyển đổi
chúng; hai là sự sa sút của những tài nguyên
có thể khôi phục (nớc, đất, rừng, sự đa dạng
sinh học) ngày càng tăng ở mức báo động.

Thực trạng đáng buồn này càng chứng tỏ
rằng, tăng trởng kinh tế dù chiếm một vị trí
đặc biệt quan trọng trong sự phát triển, song
không phải là điều kiện đủ và là thớc đo duy
nhất. Tăng trởng kinh tế có tác động và ảnh
hởng hai mặt đối với việc giải quyết công
bằng xã hội: một mặt, tăng trởng là biện
pháp cần thiết để tạo ra nguồn lực vật chất
thực hiện công bằng và mở rộng khả năng lựa
chon, thúc đẩy sự phát triển của con ngời;
mặt khác, tăng trởng kinh tế thái quá có thể
dẫn đến hoặc gây ra hiệu ứng phụ làm nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Việc giải
quyết mâu thuẫn này phục thuộc chủ yếu vào
mức độ chuẩn xác của hệ thống quan điểm
trong chiến lợc phát triển và vai trò điều tiết
của chính phủ các nớc.
b. Tác động của công bằng xã hội đến
tăng trởng kinh tế
Trớc đây, khi các nhà nghiên cứu đồng
nhất sự tăng trởng kinh tế với sự phát triển
của các quốc gia, thì vai trò của công bằng xã
hội đối với tăng trởng kinh tế thờng bị coi
nhẹ, hoặc một số mô hình phát triển còn coi
sự bất bình đẳng về thu nhập là điều kiện cần

thiết để thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Trong
giai đoạn hiện nay, xu hớng chung của thế
giới cũng đang chuyển hớng coi trọng vấn đề
giải quyết công bằng xã hội của các quốc gia
và thừa nhận vai trò tích cực của công bằng
xã hội đối với tăng trởng kinh tế.
Việc thực hiện công bằng xã hội trớc hết
dựa trên mục tiêu quan trọng nhất của sự phát
triển xã hội là bản thân con ngời và những
quyền lợi chính đáng của con ngời. Bất kỳ
mô hình tăng trởng nào cũng phải nhằm vào
mục tiêu này đối với mọi thành viên chứ không
phải chỉ với những nhóm nhỏ cá nhân trong
cộng đồng. Sự công bằng xã hội thực thi và
mở rộng các quyền của con ngời nh Tuyên
ngôn về nhân quyền năm 1948 đã khẳng
định: Tất cả mọi ngời đều có quyền hởng
một mức sống đủ cho sức khoẻ và hạnh phúc
của bản thân và gia đình, bao gồm thức ăn,
thức mặc, nhà ở, sự chăm sóc y tế và những
dịch vụ xã hội cần thiết Tất cả mọi ngời
đều có quyền đợc học hành, đợc làm việc
và đợc hởng bảo hiểm xã hội(4). Hội nghị
thợng đỉnh bàn về con ngời tại Co-pen-ha-
ghen cũng đã khẳng định: Tăng trởng kinh tế
không đồng nhất với việc mang lại hạnh phúc
cho con ngời, nếu không lấy con ngời làm
trung tâm.
Bên cạnh đó, công bằng xã hội còn là
yếu tố quan trọng thúc đẩy khả năng tái sản

xuất lao động xã hội, tạo ra động lực đối với
khả năng tăng trởng kinh tế. Ngợc lại, sự
bất công cùng với các vấn đề xã hội bức xúc
không đợc giải quyết kịp thời không chỉ tác
động xấu tới sự phát triển xã hội, mà còn là
nhân tố kìm hãm sức tăng trởng của nền kinh
tế.
KT-ML
Đặc biệt, đối với các nớc đang phát
triển, việc thực hiện công bằng xã hội giải
quyết đợc một số vấn đề lớn, có vai trò nh
những điều kiện tăng trởng lâu dài ở một số
nớc đang phát triển, một bộ phận lớn tầng
lớp giàu có không tham gia vào quá trình tích
luỹ và tái đầu t vào nền sản xuất trong nớc.
Điều này một phần xuất phát từ thực tế bất ổn
định về chính trị, kinh tế, xã hội ở bên trong
quốc gia của họ. Việc các nhà t bản trong
nớc chi tiêu vào các nhu cầu nghỉ ngơi, giải
trí và mở tài khoản ở nớc ngoài là một sự
lãng phí lớn nguồn tiềm lực trong nớc. Vì
vậy, một chiến lợc tăng trởng dựa vào sự
gia tăng mức độ bất công trong thu nhập trên
thực tế không hơn gì một phép màu mang tính
cơ hội đợc tạo ra để giữ các đặc quyền, đặc
lợi và duy trì nguyên trạng của nhóm ngời

thợng lu về kinh tế và chính trị ở các nớc
Thế giới thứ ba, mà thờng là tuyệt đại đa số
dân thờng phải trả giá cho việc đó. Những

chiến lợc nh vậy tốt hơn nên đợc gọi là
Phản phát triển(5)
Thu nhập thấp và mức sống thấp của
ngời nghèo dẫn đến tình trạng sức khoẻ,
giáo dục kém và khả năng tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh thấp; năng suất
thấp lại kéo theo thu nhập thấp tạo nên một
vòng luẩn quẩn khó thoát ra khỏi sự nghèo
đói. Trong khi đó, tầng lớp ngời nghèo chiếm
đa số trong các nớc đang phát triển. Vì vậy,
việc tăng thu nhập cho ngời nghèo bằng các
chính sách của chính phủ vừa có tác dụng
tăng thêm năng suất sản xuất của toàn xã hội,
vừa tăng thêm nhu cầu tiêu dùng các hàng
hoá thiết yếu. Điều này tạo ra một động lực
kích thích sản xuất trong nớc phát triển, tạo
điều kiện tăng trởng kinh tế và thu hút sự
tham gia vào quá trình phát triển của mọi tầng
lớp và thành phần xã hội.
KT-ML
Sự công bằng đợc thực hiện thông qua
phân phối thu nhập có tác dụng nh một hình
thức khuyến khích về vật chất và tinh thần để
mở rộng sự tham gia của quần chúng vào quá
trình phát triển. Ngợc lại, sự bất bình đẳng
đợc thừa nhận trong xã hội sẽ là một trở lực
lớn về tâm lý đối với tiến bộ kinh tế và tạo ra
những bất mãn xã hội của dân chúng.
Trong nền kinh tế thị trờng hiện đại,
công bằng xã hội đợc thực hiện theo xu

hớng tăng trởng và phát triển bền vững. Sự
tăng trởng và phát triển bền vững ở đây
không có nghĩa chỉ bao hàm sự tăng trởng đi
đôi với bảo vệ môi trờng mà là sự tăng
trởng gắn với sự phát triển con ngời. Tính
bền vững có thể hiểu là sự đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ hiện tại mà không làm hại đến
những năng lực và cơ hội của các thế hệ
tơng lai. Nh vậy, phát triển bền vững bao
hàm sự công bằng trong từng thế hệ và giữa
các thế hệ với nhau.
iii. Kết luận
Tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội
có thể coi nh hai mặt tơng hỗ trong một
chỉnh thể xã hội. Chúng tồn tại một cách
khách quan và sự mâu thuẫn giữa chúng là
mâu thuẫn nội tại mang tính biện chứng của
sự phát triển: Tăng trởng kinh tế vừa là môi
trờng nảy sinh các vấn đề xã hội, vừa là điều
kiện cần thiết để thực hiện công bằng xã hội.
Đồng thời, công bằng xã hội góp phần thúc
đẩy tăng trởng kinh tế, nhằm từng bớc phát
triển kinh tế toàn diện; song, nếu nhấn mạnh
thái quá các mục tiêu xã hội, đặt các vấn đề
xã hội tách rời khỏi điều kiện vật chất thì sẽ
thúc đẩy nền kinh tế vào trạng thái trì trệ.
Chú thích:
(1). Báo cáo phát triển con ngời năm 1998,
trang 12.
(2). Kinh tế học cho thế giới thứ ba, trang 175

(3). Báo cáo phát triển con ngời năm 1998,
trang 35.
(4). Báo cáo phát triển con ngời năm 1998,
trang 21.
(5). Kinh tế học cho Thế giới thứ ba, trang 221
Tài liệu tham khảo
[1]. Mai Ngọc Cờng. Lịch sử các học thuyết kinh
tế. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
[2]. Torodol. Kinh tế học cho thế giới thứ ba. NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1998.
[3]. UNDP. Báo cáo phát triển con ngời năm 1998.
Hà Nội, 1999.
[4]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001


×