Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

nghiên cứu sản xuất nước uống đóng chai từ hoa atiso – lá lạc tiên tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 100 trang )

- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự biến đổi của khí hậu như hiện nay thì nhiệt độ trung bình của các nước
bắt đầu tăng. Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới nên thời tiết sẽ trở nên
càng nắng nóng hơn, nhu cầu sử dụng nước giải khát sẽ ngày càng gia tăng. Ngoài
ra với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật đời sống vật chất con người ngày càng tăng
cao, con người ngày càng quan tâm đến sức khỏe. Việc uống nước không chỉ mục
đích giải khát mà người tiêu dùng còn muốn nó là một sản phẩm có lợi cho sức
khỏe. Trà thảo dược ra đời đã đáp ứng được điều đó.
Mỗi loại thảo mộc sẽ có những tác dụng khác nhau đối với sức khỏe. Hầu như
các loại thảo mộc nếu sử dụng hợp lí chúng sẽ mang lại rất nhiều tác dụng tích cực
cho sức khỏe, Atiso, Lạc tiên tây là một trong những loại thảo mộc đó. Atiso đã
được sử dụng như với nhiều tác dụng như giải độc gan, lợi tiểu, kích thích tiêu hóa,
ngừa ung thư, giảm cholesterol, đẹp da…được rất nhiều người tiêu dùng lựa chọn.
Còn Lạc tiên tây hay gọi là chanh dây được sử dụng như một loại thảo dược làm an
thần và điều trị chứng mất ngủ, ngoài ra còn có tác dụng lợi tiểu, lá có tác dụng làm
mau lành vết thương. Tại nước ta hiện nay diện tích trồng hai loại thảo dược này rất
lớn, sản phẩm nước uống từ Atiso chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu trên thị trường,
còn Lạc tiên tây cả trái và lá đều có những tác dụng tốt với sức khỏe, tuy nhiên tại
nước ta hầu như chỉ có các sản từ trái Lạc tiên tây còn lá thì hầu như ít sử dụng.
Vì những lí do trên tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu sản xuất nước uống đóng
chai từ hoa Atiso – lá Lạc tiên tây”. Sự kết hợp hai loại thảo mộc này sẽ cho ra
một sản phẩm rất tốt cho sức khỏe, không những có tác dụng làm đẹp, mát gan mà
còn an thần, mang lại cảm giác thoải mái, dễ ngủ. Nước uống này rất phù hợp với
cuộc sống phải tiếp xúc với nhiều thực phẩm có tính nóng như rượu, bia, đồ ăn cay;
công việc nhiều căng thẳng, mệt mỏi như ngày nay. Ngoài ra nâng cao được giá trị
sử dụng của lá chanh dây, đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường.
2. Mục đích của đề tài
- 2 -
Xác định các thông số thích hợp tại mỗi công đoạn để hoàn thiện được quy


trình sản xuất nước uống từ Atiso và Lạc tiên tây, tạo ra sản phẩm vệ sinh, an toàn
thực phẩm.
3. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa khoa học
Tạo thêm tài liệu tham khảo về quá trình sản xuất nước uống từ loại thảo mộc
Atiso và Lạc tiên tây cho những người nghiên cứu, sản xuất trong lĩnh vực thực
phẩm.
Ý nghĩa thực tiễn
- Tạo ra được một loại sản phẩm mới trên thị trường, đa dạng hóa sản phẩm
nước uống đóng chai. Người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn sản phẩm có lợi cho
sức khỏe hơn.
- Nâng cao giá trị sử dụng Atiso, lá Lạc tiên tây giúp người nông dân nâng cao
được thu nhập, cải thiện đời sống.
4. Nội dung nghiên cứu
- Xác định hàm lượng khoáng, tro trong nguyên liệu.
- Xây dựng quy trình, bố trí các thí nghiệm xác định được các thông số thích
hợp cho các công đoạn trong quy trình.
- Sản xuất sản phẩm theo quy trình tìm được, đánh giá chất lượng sản phẩm.
-
Sơ bộ tính giá thành sản phẩm.









- 3 -

Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về trà thảo mộc
1.1.1. Giới thiệu chung về trà thảo mộc
a. Nguồn gốc, tình hình tiêu thụ trà thảo dược tại Việt Nam và trên thế giới [7],
[8]
Bên cạnh các sản phẩm từ trà (chè) đã được sử dụng lâu đời thì hiện nay tại
nước ta và thế giới xuất hiện một dòng sản phẩm mới gọi là trà thảo mộc. Từ xưa
con người đã biết sử dụng các loại thảo mộc để làm thuốc hay làm thức ăn, hoặc có
thể chế biến thành các loại nước uống bằng phương pháp thủ công. Hiện nay các
sản phẩm trà thảo mộc sản xuất trên quy mô công nghiệp đã được sử dụng rộng rãi.
Trà thảo mộc là loại trà được chế biến từ lá, hoa, quả hay rễ cây từ thiên nhiên.
Chúng có rất nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe nhờ chứ nhiều polyphenol một chất
chống oxi hóa, phòng ngừa các bệnh ung thư và nhiều hợp chất có lợi khác.
Nước uống từ thảo mộc không xa lạ với người tiêu dùng các nước như Mỹ, Ý,
Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Anh và Bỉ Nhưng tại Việt Nam chúng chỉ thực sự
bùng nổ vào năm 2009 với sản phẩm trà thảo mộc Dr Thanh của công ty Tân Hiệp
Phát. Trên thị trường hiện nay các sản phẩm từ thảo mộc rất đa dạng với sự tham
gia của nhiều nhà sản xuất khác nhau.
Trung bình mỗi năm, một người Việt Nam chỉ uống khoảng 3 lít nước giải
khát đóng chai không cồn, trong khi mức bình quân của người Philippines là 50 lít
một năm. Đây là cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp trong nước.
Và theo số liệu khảo sát tháng 5.2011 của Công ty Nielsen, doanh số của
ngành hàng trà uống liền chiếm 30,5%, cao nhất trên tổng thị trường nước giải khát
tại Việt Nam. Hơn 50% người tiêu dùng thành phố đang chuyển dần sang các loại
nước tự nhiên, ít ngọt trong khi sản phẩm nước có gas đang dần bão hòa…Khảo sát
thị trường hằng năm tại nước ta cho thấy, nước uống không gas tăng khoảng trên
10%, trong khi đó nước có gas giảm khoảng 5%.
Tại nước ta bộ công thương cũng đã có quyết định 2435/QĐ-BCT về quy
hoạch phát triển rượu-bia- nước giải khát đến năm 2015, tầm nhìn đến 2025. Trong
- 4 -

đó mục tiêu giai đoạn 2011 – 2015: đến 2015 sản lượng nước giải khát đạt 4 tỷ lít.
Giai đoạn 2015 – 2025: đến 2025 sản lượng nước giải khát đạt 11 tỷ lít.
b. Lợi ích của việc uống trà thảo mộc [9]
Trà thảo mộc không chỉ là một loại nước uống để thưởng thức mà còn có rất
nhiều lợi ích cho sức khỏe như:
+ Ngừa ung thư, giúp ngăn chặn quá trình lão hóa, bảo vệ tế bào của cơ thể
nhờ trong trà thảo mộc có chứa hợp chất polyphenol và flavonoid.
+ Giúp cho quá trình trao đổi chất được tăng cường, không chứa calo: Một
trong những nguyên ngân gây nên béo phì là do các chất trong cơ thể không được
chuyển hóa tốt, dư thừa calo trong cơ thể. Trà thảo mộc sẽ giúp cho cơ thể trao đổi
chất tốt hơn, chỉ cần uống mỗi ngày 5 tách trà thì có thể đốt cháy 70-80 calo.
+ Uống trà thảo mộc có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ và đau tim: Một
nghiên cứu 5, 6 năm của Hà Lan nhận thấy nếu chúng ta uống 2-3 tách trà đen mỗi
ngày thì nguy cơ mắc cơn đau tim đột tử thấp hơn người không uống trà tới 70%.
Uống trà có thể giữ cho các huyết mạch trơn mượt và không bị nghẽn.
+ Bảo vệ hệ miễn dịch: Một cuộc thử nghiệm trên 21 người tình nguyện
uống 5 tách trà mỗi ngày trong 4 tuần, người ta nhận thấy rằng hoạt động của hệ
miễn dịch trong máu của người uống trà cao hơn
+ Giúp răng chắc khỏe: Có một số ý kiến cho rằng uống trà làm cho răng
xấu, đó là vì khi uống trà mà bỏ thêm đường. Còn thật ra khi uống trà không đường
bạn sẽ có hàm răng chắc khỏe do trong trà có chứa tanin và fluoride có thể làm răng
sát lại gần nhau. Ngoài ra uống trà còn giúp xương cứng cáp, vững chắc hơn.
c. Uống trà thảo mộc an toàn [10], [11]
Trà thảo mộc giúp tìm lại sự quân bình cơ thể, sức khỏe và vẻ đẹp. Tuy nhiên
không nên vượt quá liều lượng vì khi đó có thể gây ra những tác hại cho cơ thể.
Theo dược sĩ Phạm Thị Liền, Phó khoa Dược bệnh viện y học cổ truyền thành
phố Hồ Chí Minh cho biết: nhìn chung đông y không kị nhau nên có thể dùng 2, 3
loại trà để chữa bệnh. Tuy nhiên mỗi loại trà ngừa, chữa bệnh khác nhau nên người
dùng nếu chỉ để giải khát không sao. Nhưng dùng với liều lượng chữa bệnh cần lưu
- 5 -

ý. Nếu dùng trà để chữa bệnh khác nhau thì bệnh nhân cần đến khám ở các bệnh
viện hoặc phòng mạch đông y để được bắt mạch chuẩn đoán bệnh trước khi uống
trà thảo mộc để chữa bệnh, dùng bừa bãi có thể gây ra bệnh.
Khi bị cao huyết áp nếu mua trà chữa cao huyết áp uống vào thời gian dài sẽ bị
hạ huyết áp, rất nguy hiểm. Nổi nhiều mụn có thể do nóng gan hoặc suy gan nhưng
nếu tự ý uống trà nhuận tràng có thể làm suy gan nặng thêm.
Uống trà xanh vào buổi tối sẽ gây mất ngủ, tiểu đêm, hoặc ăn thực phẩm chứa
nhiều protein sẽ không tốt. Khi dùng trà thảo mộc cần chọn sản phẩm của những
nhà sản xuất uy tín, trên bao bì có ghi rõ thành phần, khối lượng, số đăng kí…
Với phụ nữ mang thai uống trà gừng số lượng nhỏ vào buổi sáng có thể giảm
buồn nôn. Tuy nhiên hoạt chất gingerol trong gừng có thể gây mỏng mạch máu nên
dùng lâu sẽ không tốt. Các loại trà nói chung đều chứa cafein, chất này có khả năng
đi qua nhau thai, vào tới thai nhi và ảnh hưởng tới em bé trong bụng nên các bà mẹ
mang thai phải đặc biệt chú ý. Bác sĩ khuyên rằng thai phụ sử dụng càng ít cafein
thì càng tốt cho sức khỏe và bản thân em bé, thai phụ không nhất thiết phải tránh
uống trà mà là sử dụng hợp lý các loại trà hàng ngày, không nên uống nhiều hơn 2-3
tách trà một ngày.
1.1.2. Giới thiệu một số trà thảo mộc trên thị trường [2], [12]
Trên thị trường có rất nhiều loại trà thảo mộc ở dạng đóng chai, túi lọc…
Một số loại trà thảo mộc phổ biến:
+ Trà khổ qua:
Tên tiếng anh: Gohyah tea ( Bitter grourd, Captain tea, Bitter melon tea)
Thành phần: 100% khổ qua
Công dụng: Bổ mật, nhuận gan, lợi tiểu.
+ Trà thanh nhiệt:
Tên tiếng anh: The reshment tea
Thành phần: Từ thảo mộc tự nhiên như chè, lá cam thảo, hoa hòe, thảo quyết
minh.
Công dụng: Giải khát, giải nhiệt, bổ máu, giảm đau đầu, giảm huyết áp.
- 6 -

+ Trà Atiso:
Tên tiếng anh: Atiso tea bag.
Thành phần: Thân, rễ, hoa, lá Atiso.
Công dụng: Mát gan, thông mật, lợi tiểu, tăng bài tiết mật, mịn da mặt.
+ Trà rong biển:
Tên tiếng anh: Seaweed tea.
Thành phần: Rong biển, chè đen.
Công dụng: Làm mát cơ thể, loại trừ nhiệt dư thừa, giải cảm, trị bệnh bứu cổ.
+ Trà trái nhàu:
Tên tiếng anh: Nonitea bag.
Thành phần: Được chế biến từ trái nhàu và cỏ ngọt.
Công dụng: Dùng cho người bị sỏi thận, cao huyết áp, tiểu đường, ho cảm.
Đặc biệt trị bệnh đau lưng, thấp khớp, nhuận tràng.
+ Trà hoa cúc:
Mùi thơm nhẹ giúp cơ thể giải nhiệt, giúp giải quầng thâm ở mắt.
+ Trà lá cây tầm ma:
Công dụng: Giúp bồi bổ cơ thể vì trong thành phần có nhiều vitamin và chất
khoáng đặc biệt là chất sắt giúp giảm các bệnh dị ứng.
+ Trà lá mâm xôi
Công dụng: Lá mâm xôi có tác dụng làm sạch nên rất hữu hiệu trong việc
làm sạch miệng, là nước súc miệng trị chứng viêm họng.
Không nên dùng loại trà này trong suốt thời gian đầu khi mang thai.
+ Trà hương thảo:
Uống khi bắt đầu một ngày mới hay khi năng lượng cơ thể thấp vì trà hương
thảo có tác dụng hữu hiệu giúp tăng cường năng lượng cho cơ thể, rất hiệu quả
trong việc giảm đau đầu và chứng khó tiêu.
+ Trà hoa tầm xuân:
- 7 -
Giàu vitamin C nên rất hữu hiệu với người bị cảm lạnh, cảm cúm, thêm ít
nước cốt chanh vào để trà có tác dụng tối ưu.

+ Trà hoa dâm bụt:
Tác dụng lợi tiểu, hạ huyết áp cho những người có huyết áp cao.
1.2. Tổng quan về Atiso
1.2.1. Giới thiệu chung [13]
- Tên tiếng anh: Artichoke
- Tên khoa học: Cynara Scolymus L
- Tên thường dùng: Atiso,
tên gọi của nó là sự phiên âm sang
tiếng Việt của từ tiếng Pháp artichaut.
Đặc điểm: Hình 1.1. Cây và hoa Atiso
Atiso là cây thảo lớn, cao 1-1,2m, có thể đến 2m, lá dài 50-80cm. Thân ngắn,
thẳng và cứng, có khía dọc, phủ lông trắng như bông. Lá to, dài, mọc so le; phiến
lá xẻ thùy sâu và có răng không đều, mặt trên xanh lục mặt dưới có lông trắng,
cuống lá to và ngắn.
Cụm hoa hình đầu, to, mọc ở ngọn, màu đỏ tím hoặc tím lơ nhạt, lá ngoài của
cụm hoa rộng, dày và nhọn, đế cụm hoa phủ đầy lông tơ, mang toàn hoa hình
ống. Quả nhẵn bóng, màu nâu sẫm có mào lông trắng, hạt không có nội nhũ. Atiso
thích hợp trồng ở điều kiện khí hậu ôn đới, đất trồng ẩm, giữ được nước.
Nguồn gốc:
Cây có nguồn gốc từ miền Nam châu Âu (được trồng quanh Địa Trung Hải)
được người Cổ Hy Lạp và Cổ La Mã trồng để lấy hoa làm rau ăn. Từ Atisô đã xuất
hiện trong các tài liệu tiếng Pháp từ năm 1530. Ngày nay, Atiso được trồng chủ yếu
ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Mỹ, các nước Mỹ Latinh và Ý là quốc gia trồng Atisô
hàng đầu thế giới, ở mức thu hoạch hơn 750 ngàn tấn/năm. Atiso được người Pháp
đưa vào Việt Nam đầu thế kỷ 20, hiện nay trồng ở Sa Pa, Tam Đảo, Nghệ An, Hải
Dương và nhiều nhất là ở Đà Lạt. Tại đây đất đai, khí hậu, thời tiết, độ cao rất
thích hợp cho loại cây này. Trên độ cao 1200m cây Atiso trổ hoa, còn dưới 1200m


- 8 -

cây tăng trưởng được nhưng không trổ hoa. Vùng trồng nhiều Atisô ở Đà Lạt là
Thái Phiên và Sào Nam.
Atiso trồng tại Đà Lạt trước đây gồm 2 chủng Gros Vert de Laon (Actichaut
Parisen) và Violet Hâtif du Midi. Từ năm 1989 trở lại đây có nhiều giống Atiso từ
nước ngoài nhập vào, có loại cho năng suất lá cao nhưng hoa lại nhỏ. Atiso có thể
trồng bằng hạt nhưng người ta thường trồng bằng mầm tách từ gốc của cây mẹ.
Trước ngày giải phóng năm 1975, người dân Đà Lạt trồng Atiso chủ yếu lấy hoa
làm thực phẩm. Người ta dùng cụm hoa (lá bắc và đế hoa) hầm với thịt làm canh ăn.
Sau ngày giải phóng, trồng Atiso lấy lá tươi bán cho các Xí nghiệp Dược để làm
thuốc, còn lá, hoa, thân, rễ phơi khô chế biến làm trà uống.
Gieo trồng và thu hái:
Có 2 cách trồng Atiso là gieo hạt (tiến hành khoảng tháng 10-11) hoặc tách
cây non từ cây mẹ (khoảng tháng 1-2), cây trổ nụ khoảng 90-100 ngày sau khi
trồng.
Tất cả các bộ phận của Atiso đều được thu hái và sử dụng như một loại dược
liệu. Lá được thu hái trước khi cây ra hoa vì khi trổ hoa hàm lượng hoạt chất sẽ
giảm đi, hoa thu hoạch muộn nụ sẽ bị cứng như gỗ nên thu hoạch trước khi lá của
nụ hoa mở.
1.2.2. Thành phần hóa học [13]
Hoạt chất chính của Atiso là Cynarin (acid 1 - 4 Dicafein Quinic). Ngoài ra
còn có Inulin, tanin, các muối kim loại K ( với tỉ lệ rất cao), Ca, Mg, Natri…
Cụ thể ở lá Atisô chứa:
- Acid hữu cơ gồm acid phenol: Cynarin và các sản phẩm của sự thủy phân
(acid Cafeic, acid Clorogenic, acid Neoclorogenic), acid alcol, acid succinic.
- Hợp chất flavonoid (dẫn chất của Luteolin), bao gồm:
+ Cynarozid (Luteolin -7-D Glucpyranozid),
+ Scolymozid (Luteolin -7- Rutinozid - 3’- Glucozid).
- Thành phần khác như Cynaopicrin là chất có vị đắng, thuộc nhóm
guaianolid.
- 9 -

Lá chứa nhiều hoạt chất nhất: 1,23% Polyphenol, Clorogenic acid 4%, hợp
chất Flavonoid (đặc biệt là Rutin), sau đó đến thân (0,75%), rễ (0,54%). Dẫn chất
Caffeic như Clonogenic acid, Neoclorogenic acid, Cyptoclorogenic acid, Cynarin.
Sesquiterpen lacton: Cynarpicrin, Dehydrocynaropicrin, Grossheimin, Cynatriol.
Hoạt chất trong phiến lá cao gấp 10 lần trong cuống lá.
Lá non chứa nhiều hoạt chất (0,84%) hơn lá mọc thành hình hoa thị ở mặt đất
(0,38). Nếu sấy ở nhiệt độ cao thì lá mau khô nhưng lại mau mất hoạt chất. Ở nhiệt
độ thấp, việc làm khô sẽ lâu hơn. Lá cần được ổn định trước rồi mới chuyển thành
dạng bào chế.
Ngọn có hoa chứa Inulin, Protein (3,6%), dầu béo (0,1%), Carbon Hydrat
(16%), chất vô cơ (1,8%0, Ca (0,12%), P (0,10%), Fe (2,3mg/100g), Caroten (60
Unit/100g tính ra Vitamin A).
Thân và lá còn chứa muối hữu cơ của các kim loại K, Ca, Mg, Na, hàm lượng
Kali rất cao.
Rễ: hầu như không có dẫn chất của Cafeic acid, bao gồm cả Clorogenic acid
và Sesquiterpen lacton. Rễ chỉ đều thông tiểu chứ không có tác dụng tăng tiết mật.
1.2.3. Tác dụng [11]
+ Đối với hoa:
Hoa nấu chín có tác dụng bổ dưỡng tăng lực, kích thích tiêu hóa làm ngon
miệng, lợi gan mật, trợ tim, lợi tiểu, chống độc, tăng tiết sữa cho sản phụ (khi hầm
với chân giò). Ngoài ra được dùng trong chế độ ăn kiêng của người bệnh đái tháo
nhạt vì nó chỉ chứa lượng nhỏ tinh bột, phần carbon hydrat gồm phần lớn là Inulin.
Trong đông y, hoa Atisô dùng trong các trường hợp đau gan, đau dạ dày, ăn uống
không tiêu, sản phụ ít sữa, tiểu đường thống phong, thấp khớp, suy nhược cơ thể…
+ Đối với lá: Có vị đắng, tác dụng lợi tiểu và được dùng trong điều trị bệnh
phù và thấp khớp.
Lá tươi hoặc khô sắc hoặc nấu thành cao chữa bệnh về gan (gan viêm mạn, da
vàng), thận viêm cấp và mạn, sưng khớp xương. Thuốc có tác dụng nhuận trường
và lọc máu nhẹ đối với trẻ em.
- 10 -

+ Thân và rễ Atisô thái mỏng, phơi khô, công dụng giống lá.
Các chất trong Atiso còn giúp ngăn ngừa và điều trị bệnh ung thư nhờ loại bỏ
các tế bào tế bào chết ra khỏi mô mà không ảnh hưởng tới các tế bào khác. Ngoài ra
còn hạn chế sự nảy nở của tế bào thành nhiều dạng ung thư khác nhau như ung thư
tuyến tiền liệt, bệnh bạch cầu và ung thư vú. Tăng cholesterol tốt và hạ thấp
cholesterol xấu. Tốt cho người tiểu đường vì có tác dụng ổn định lượng đường trong
máu.
1.2.4. Tình hình sử dụng [14]
+ Sử dụng làm thực phẩm:
Sử dụng làm thức ăn: Hoa Atiso được rửa sạch, chẻ dọc thành 6-8 miếng, luộc
chín, nấu canh, hầm xương heo xương bò, chân giò hoặc xào với nấm. Hoa Atiso
được dùng như một loại rau cao cấp, khi ăn chấm với nước sốt hoặc với muối tiêu
chanh rất ngon, dễ tiêu hóa, dùng trị đau gan, giảm đau dạ dày, rất cần cho những
bệnh nhân đái tháo đường. Chồi hoặc cọng lá non thường hầm với xương bò hoặc
thịt lợn để làm xúp. Một số nước dùng Atiso nấu với các loại hạt đậu, khoai tây,
lạc…thành món salad gọi là pasta salad có tác dụng tốt cho tim hoặc hầm với hành,
tỏi và các gia vị khác nhằm tăng sức đề kháng.
Hoa Atiso tươi hoặc các bộ phận của Atiso phơi khô nấu nước uống. Hiện nay
trên thị trường các sản phẩm từ Atiso rất đa dạng như trà túi lọc, trà hòa tan, nước
uống đóng chai…
+ Sử dụng làm dược phẩm:
Hiện nay ngành y tế đã sản xuất Atiso thành những viên nan, dung dịch thuốc
đóng ống, đóng chai hoặc cao lỏng, cao mềm…là loại thuốc có tác dụng nhuận gan,
mật, lợi tiểu, chữa một số bệnh liên quan gan, mật như viêm gan, thiểu năng gan, xơ
gan…
1.2.5. Những nghiên cứu trong và ngoài nước
a. Những nghiên cứu ngoài nước [2], [15]
Atiso là cây vừa làm thuốc vừa là thức ăn từ thế kỉ thứ 4 trước công nguyên.
Thời Ai Cập và La Mã cổ đại, Atiso được dùng để giúp cho việc tiêu hóa tốt, lợi
- 11 -

tiểu. Thế kỉ thứ XVI đặc tính chữa trị của Atiso được chứng minh cho gan và bệnh
vàng da. Cây Atiso đã được trồng ở Pháp khoảng thế kỉ XV. Vào năm 1850, bác sĩ
người Pháp đã thành công trong việc điều trị một người nam trẻ ốm yếu bị vàng da
bằng cách dùng chất chiết từ lá Atiso trong vòng một tháng. Điều này đã gây một sự
chú ý về đặc tính từ chất chiết từ lá. Ở Đức, chất chiết từ lá được biết đến từ thế kỉ
XVII nhưng mãi đến thế kỉ XX nó mới biết đến như là một món ăn và một dược
liệu đầy tiềm năng.
Việc nghiên cứu đầu tiên chất chiết từ lá và quan hệ về bệnh gan đã được chỉ
đạo từ năm 1930 và có những khả quan. Năm 1954, Cynarin một trong những chất
dược lý thiết yếu ở lá đã được tổng hợp rộng rãi. Từ năm 1990 nghiên cứu nhiều
hơn nữa về điều trị đã được ghi vào tài liệu. Từ thời gian này, nhiều khám phá và
điều trị xuất sắc đã được ghi nhận chúng ta có một khám phá các thành phần hoạt
động chủ yếu trong cây Atiso và hiểu biết hơn về dược tính trong cơ thể con người.
Mốc thời gian nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của các hợp chất hóa học trong
Atiso hoạt tính sinh học (dược tính) nối tiếp nhau từ những năm 1930 đến nay:
- 1930: Trích ly được Cynarin từ lá Atiso.
- 1966: Nghiên cứu về tác dụng bảo vệ gan và mật, chữa các bệnh về tiêu
hóa và tác dụng chữa độc.
- 1977: Nghiên cứu ảnh hưởng của Cynarin đến những bệnh nhân type II
(hyperlipoprotein).
- 1980: Các nhà khoa học Ai Cập thuộc trung tâm nghiên cứu quốc gia đã sử
dụng các chất có trong Atiso để chữa bệnh về đường tiêu hóa.
- 1987: Camarasa và Adzet đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan của các chất
thuộc polyphenolic: Cynarin, Chlorogeni axit, Luteolin- 7- glycoside và axit hữu cơ
caffeic axit và quinic axit kháng lại được chất độc CCl4 và chất này được tách ra
khỏi gan.
- 1989: Các nhà khoa học Hinou J; Harvala C; Philianoss đã tiến hành tách
các chất có trong lá Atiso: Apigenin, Luteolin, Luteolin-4-glycoside, Cynaroside,
- 12 -
Scolimoside, Chlorogenic axit , caffeic axit (các nhóm chất này có khả năng bảo vệ

gan).
- 1991: Có các nghiên cứu về khả năng chống lại nộc độc của rắn và sự viêm
nhiễm.
- 1999: Nghiên cứu tập trung vào bệnh viêm túi mật.
- 2000: Có các nghiên cứu về tác dụng bảo vệ gan, chữa bệnh máu trắng, cao
huyết áp, bệnh tim, cao cholesterol.
- 2001: Các nhà khoa học nghiên cứu các chất trích ly trong lá Atiso có khả
năng làm giảm các bệnh liên quan đến đường ruột.
- 2002: Các nhà khoa học thuộc tập đoàn Phitomedicine tiếp tục nghiên cứu
về khả năng trị bệnh Atiso đối với những bệnh nhân viêm dạ dày, viêm ruột (chống
lại chứng khó tiêu).
- 2003: Tập đoàn Pharmacol nghiên cứu về khả năng chống oxy hoá và
chống các bệnh thoái hóa khớp của các chất có trong Atiso, cây nghệ, tỏi; các chất
đó được cho là nhóm hợp chất polyphenol của Atiso, Curumin trong nghệ và
vitamin E trong tỏi.
- 2004: Thí nghiệm về một số khả năng kháng một số loại vi sinh vật. Trong
nghiên cứu thì Atiso được trích ly bởi 3 dung môi: Chloroform, Ethyacetate và n-
butanol, các chất được trích ly bởi dung môi n- butanol là hiệu quả nhất (8 hợp chất
phenolic) chúng có hoạt tính kháng lại 7 loại vi khuẩn, 4 loại nấm men và 4 loại
nấm mốc. Một số chất có hoạt tính mạnh như: Cynarin, Chlorogenic axit, các chất
này có tác dụng chống lại các loại nấm tốt hơn là kháng khuẩn.
- 2005: Nghiên cứu về khả năng điều chỉnh nồng độ các hợp chất Cynarin,
axit quinic và flavonoid của Atiso trong cơ thể con người.
- Các nghiên cứu mới về Atiso về khả năng chống lại virut HIV và các bệnh
khác.
b. Những nghiên cứu trong nước [2], [16], [17], [18]
Atiso du nhập vào nước ta từ đầu thế kỉ XX, được sử dụng như một loại thực
phẩm bổ dưỡng. Nhưng Atiso và các sản phẩm Atiso chỉ thực sự được người tiêu
- 13 -
dùng trong, ngoài nước chính thức thừa nhận và được sử dụng rộng rãi trong mọi

gia đình khi được chế biến dưới dạng trà túi lọc và trà hòa tan. Khoảng những năm
1990 công ty trách nhiệm hữu hạn trà Atiso Ngọc Duy tại Đà Lạt là đơn vị đầu tiên
tại Việt Nam sản xuất ra sản phẩm này.
Hiện nay tại các xí nghiệp liên hiệp dược phẩm Lâm Đồng đã sản xuất ra
nhiều mặt hàng có giá trị từ Atiso như cao lỏng, cao mềm, viên bao Cynaranphytol,
phấn hoa Atiso… Đây chính là những mặt hàng đặc biệt của riêng tỉnh Lâm Đồng
phục vụ cho đồng bào cả nước trong việc trị bệnh. Lâm Đồng còn sản xuất cao lá
tươi và trích ly Cynarin để xuất sang Pháp đem lại ngoại tệ cho tỉnh.
Từ năm 2001, cây Atiso đã được đưa vào chương trình khoa học công nghệ
trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 2001-2005, nhằm xây dựng quy trình trồng,
nhân giống và chế biến Atiso tạo ra sản phẩm cao cấp cho thị trường trong nước và
xuất khẩu.
Sau ba năm khảo nghiệm và đưa vào thực tế xí nghiệp liên hiệp dược phẩm
Lâm Đồng cùng viện Dược Liệu đã chế biến đạt yêu cầu sạch đối với 5 loại cây
thuốc: đương quy, bạch chỉ, ngưu tất, Atiso và hoa cúc. Chế phẩm từ những dược
liệu sạch trên đã có mặt trên thị trường với những cái tên quen thuộc như viên
Boganic, trà nhuận gan lợi mật, hoạt huyết dưỡng não, viên sáng mắt…
Từ các sản phẩm sạch Atiso sapa, bạch chỉ, cúc hoa công ty đã nghiên cứu chế
biến thành công sản phẩm sạch là lá Atiso, cao đặc Atiso, cao khô Atiso, bạch chỉ,
cúc hoa. Khi được mang đi kiểm nghiệm các nghiên cứu trên đều đạt chỉ tiêu chung
của Dược điển Việt Nam III và đạt tiêu chuẩn chỉ tiêu thuốc bảo vệ thực vật, hàm
lượng kim loại nặng mà tiêu chuẩn đánh giá tam thất sạch của Châu Văn Sơn- Vân
Nam- Trung Quốc đề nghị đưa vào. Khi kiểm tra độ an toàn LD50 (liều gây chết
50% súc vật thí nghiệm) của các mẫu nghiên cứu, kết quả cho thấy với liều lượng
thông thường sử dụng cho người các mẫu thử trên đều rất an toàn.
Cùng với việc nghiên cứu các chế biến, kiểm tra các chỉ tiêu dược liệu sạch,
chỉ tiêu về độ an toàn thì công ty CP Traphaco đã nghiên cứu tìm ra phương pháp
bảo quản phù hợp đối với cúc hoa, Atiso và bạch chỉ. Cùng với phương pháp xông
- 14 -
sinh truyền thống, họ đã tìm ra hàm lượng phù hợp cho từng loại cây không để lại

lượng tồn dư lưu huỳnh trong dược liệu, khiến cho chất lượng dược phẩm được đảm
bảo.
Song song với những hoạt động trên, Traphaco cũng tiến hành khảo sát quy
hoạch vùng trồng thuốc với những yếu tố thổ nhưỡng, khí hậu, sinh thái, phương
pháp thu hái. Các cuộc khảo sát được tiến hành ở Vĩnh Phúc, Hà Tây, Lào Cai, Yên
Bái, Lâm Đồng …nhằm đảm bảo hiệu quả, đảm bảo các chỉ tiêu sạch của dược liệu.
Từ 2006-2008: Đề tài “Xây dựng công nghệ trích ly hợp chất có hoạt tính sinh
học trong dược liệu Atisô với hiệu suất cao” do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hạnh, Viện
Hóa học chủ trì thực hiện. Đề tài đi sâu vào mục tiêu khảo sát thành phần hóa học
của hoa và lá Atisô theo định hướng thử tác dụng kháng oxy hóa. Đây là lần đầu
tiên cây Atisô Đà Lạt được khảo sát sâu thành phần hóa học và hoạt tính kháng oxy
hóa. Sau nghiên cứu, Viện đã phối hợp với công ty cổ phần dược Lâm Đồng tiếp tục
triển khai dự án “Hoàn thiện quy trình công nghệ ly trích các chất có hoạt tính sinh
học từ lá Atisô và sản xuất thử nghiệm cao bột sấy phun” và đạt kết quả tốt. Trên cơ
sở công nghệ được hoàn thiện, dự án đã sản xuất hơn 20 tấn cao bột sấy phun, vượt
5 lần so với kế hoạch sản xuất thử nghiệm.
1.2.6. Một số sản phẩm từ Atiso trên thị trường
Hiện nay trên thị trường có các sản phẩm từ Atiso có tác dụng mát gan, giải
độc, chữa bệnh…
Bảng 1.1. Một số sản phẩm từ Atiso trên thị trường
Tên sản
phẩm
Hình ảnh
Thành phần và
quy cách đóng gói
Công dụng
- 15 -
Trà túi
lọc



- Thành phần: Chỉ
hoa tươi hoặc từ
thân, hoa, lá, rễ…
- Quy cách: Dạng
túi lọc đóng hộp

- Thanh nhiệt,
mát gan
Bông
Atiso khô



- Hoa Atiso được
phơi hoặc sấy khô.
- Đóng trong bao bì
polyme 0.5kg hoặc
1kg

Mát gan, giải
độc
Nước
uống
đóng chai



- Atiso 14%
- Đóng chai 340ml,

24 chai/thùng.

Mát gan, giải
nhiệt, thanh
lọc cơ thể.
Thực
phẩm
chức
năng


- Lá cây Atisô tươi,
với các dược liệu:
Kim Ngân Hoa,
Noni
- 1 lọ: 100 ml, 12
lọ/thùng


Bổ gan, lợi
mật, giải độc,
giảm
cholesterol, hỗ
trợ tiểu đường
- 16 -
Cao mềm
Atiso

- 95% lá cây Atiso
và 5% đường tinh

luyện.
- 100gr/hộp.

Mát gan, thông
mật, kích thích
tiêu hóa, giải
nhiệt, đẹp da,
trị mụn trứng
cá, trị nám
da,
Hoàn
Atiso


- Cao đặc Actisô
2,5g, tá dược vừa
đủ 1 gói 50g
- Gói 50 gam.


Chữa trị yếu
gan, thận, mề
đay, ngứa,
vàng da
Cynaphyt
-ol viên
nén bao
đường



- Cao đặc Actisô
0,2g, tá dược vừa
đủ một viên bao
đường.
- Hộp 1 tube 50
viên bao đường.
-
Hộp 10 vỉ x 10
viên bao đường

Giải độc gan,
thông mật, lợi
tiểu, nhuận
tràng.
Thuốc
nước


- Cao đặc Actisô:
0,2g, tá dược vừa
đủ 10 ml
- Ống 10 ml. Hộp
10 ống

Chữa trị yếu
gan, thận, mề
đay, ngứa,
vàng da
- 17 -
Bavega

viên bao
đường
- Cao đặc Actisô
100mg, cao Biển
Súc 75mg, bột Bìm
Bìm 75mg, tá dược
vừa đủ 1 viên bao
đường.
- Hộp 2 vỉ x 20 viên
bao đường.
- Lọ 60 viên bao
đường.
Chữa các bệnh
thuộc về gan:
mụn nhọt,
ngứa, nổi mề
đay, viêm gan
cấp và mãn
tính, vàng da.
Giúp thông
tiểu, chống táo
bón, ăn ngon.

1.3. Tổng quan về Lạc tiên tây [19]
1.3.1. Giới thiệu chung
- Tên khoa học: Passiflora. Incarnata L, thuộc họ Lạc tiên Passifloraceae
- Tên tiếng Anh: Passionflower
- Tên thường gọi tại Việt Nam: Chanh dây, Lạc tiên tây, dây mát.
Hình 1.2. Dây Lạc tiên tây Hình 1.3. Hoa và trái Lạc tiên tây


Nguồn gốc:
- 18 -
Passionflower được Bác Sĩ Monardes, người Tây Ban Nha tìm ra vào năm
1569 tại Peru sau khi ông ghi chép các đặc tinh trị bệnh của cây do kinh nghiệm của
thổ dân; sau đó ông đã đem theo cây khi về nước và cây được phổ biến rộng rãi để
trở thành một dược thảo làm êm dịu thần kinh được dùng khắp Âu Châu.
Năm 1605 một phái bộ truyền giáo đã gửi hoa passionflower dâng tiến cho
Giáo Hoàng Paul V, với những giải thích về sự tượng trưng của hoa với sự thương
của Chúa Kitô.
Tại Braxin những nhà máy chế biến nước ép quả đã được thiết lập từ lâu. Từ
thế kỉ 18, 19 Lạc tiên tây đã du nhập vào Úc, Hawaii, châu Phi…và được trồng với
diện tích lớn.
Lạc tiên tây cũng được trồng tại một số nơi ở Á châu như Ấn độ, Do Thái và
trong vùng Đông Nam Á như Phillipines, Indonesia nhưng đều ở quy mô nhỏ, ít có
giá trị kinh tế. Hiện có khoảng 12 nước trồng chanh dây với tổng diện tích khoảng
4.500 ha, hầu hết ở Nam Mỹ, còn lại ở Úc và khu vực Nam Á. Sản lượng thế giới
chỉ khoảng 25.000 tấn trái.
Tại Việt Nam một số nhà thực vật học cho rằng cây được người Pháp đưa vào
từ thế kỉ 19. Năm 1974, một số cây hoang đã được tìm thấy tại Kỳ Sơn, Nghệ An.
Cây chủ yếu được gây trồng tại các tỉnh miền Bắc, và vùng núi cao miền Trung như
Lâm Đồng, Kontum, Gia Lai, Đăk Nông, Đắk Lắk… để lấy quả làm nước giải
khát, làm cảnh và che bóng mát.
Đến nay, một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như: Hậu Giang, Cần Thơ,
An Giang, Kiên Giang…cũng bắt đầu phát triển trồng chanh dây để lấy quả cung
ứng cho nhu cầu thị trường.
1.3.2. Đặc điểm sinh học
Cây Lạc tiên tây thuộc loại dây leo có thể mọc dài đến 10m, thân có rãnh dọc,
có những cuốn tua giúp cây leo và mọc phủ trên các cây khác. Quả hình
trứng
, vỏ

quả màu xám nhạt, sau chuyển màu đỏ tía, khi non có lông mịn, quả chứa nhiều hạt
nhỏ. Lá mọc so le, ba thùy, mép có răng cưa, có tua cuốn ở kẽ lá. Hoa to, màu trắng,
thơm, có cuống dài, màu tím hoặc hơi hồng. Do hình dáng và độ chua giống chanh
- 19 -
nên gọi là chanh dây nhưng thực chất chúng không có quan hệ họ hàng gì với chi
cam chanh.
Năng suất trung bình khoảng 45-50 tấn/ha. Cây lưu gốc khoảng 4-5 năm (mỗi
vụ kéo dài khoảng 18 tháng). Người ta trồng Lạc tiên tây bằng cách gieo hạt, giâm
cành hay chiết cành, tốt nhất là dùng cách giâm cành.
1.3.3. Thành phần hóa học
+ Hoa và đọt chứa:
- Flavonoids (2.5%) gồm các flavone đC-glycosides như shaftoside,
isoshaftoside, isovitexine (hàm lượng cao nhất ở giai đoạn ngay trước khi hoa nở
hoàn toàn), iso-orientin, vicenin, lucenin, saponarin và passiflorine. (Chế dược thư
Âu châu dùng vitexin làm tiêu chuẩn để định lượng hoạt chất).
- Flavonoid tự do như apigenin, luteolin, quercetin và kampferol.
- Acid béo như linoleic, linolenic, palmitic, oleic, myristic acids.
- Coumarins.
- Đường hữu cơ như sucrose, fructose, glucose, raffinose
- Phytosterols như sitosterol, stigmasterol.
- Tinh dầu gồm limonene, alpha-pinene, cumene, zizaene.
- Maltol (0.05 %): 3-hydroxy-2-methyl-gamma pyrone.
- Harman và các chất chuyển hóa (0.03%).
- Alkaloids nhóm Harmala như harmine, harmaline và harmalol.
- Glycosides tạo cyahydric acid: gynocardin
+ Thành phần dinh dưỡng của quả:
Trong 100 gram quả (phần ăn được) cung cấp:
- Calories 70
- Chất đạm 2.3- 4.8 g
- Chất béo 0.3- 1-2 g

- Carbohydrate 12- 20.3 g
- Calcium 5.09 mg
- 20 -
- Sắt 0.58 mg
- Phosphorus 37 mg
1.3.4. Tình hình sử dụng
+ Sử dụng làm thực phẩm:
Lạc tiên tây trồng chủ yếu để lấy quả làm nước giải khát bằng cách bổ quả,
lấy hết thịt bên trong, chà nhẹ rồi ép lọc lấy dịch quả. Thêm đường trắng và nước
sôi để nguội cùng với 1 ít đường hoặc mật ong (lượng tùy thích), khuấy đều để
uống. Nước này có tác dụng bổ, mát, thanh nhiệt, tiêu khát, an thần, nhuận tràng, lợi
tiểu.
Người ta còn dùng lá Lạc tiên tây làm rau ăn: Lấy lá non thái nhỏ, vò nhẹ nấu
với tôm sẽ là một món canh ngon hay có thể luộc ăn (như những loại rau khác).
Tại Romania, dược thảo được chế tạo thành một dạng chewing gum vào năm
1978.
Cũng tại Âu Châu, nước trích được chấp thuận cho dùng như một phụ gia tạo
hương vị trong nước giải khát và bánh, kẹo.
+ Sử dụng trong công nghiệp: [20]
Nhiều quốc gia trên thế giới đã tìm cách sử dụng phần thịt và tách riêng hạt để
dùng trong công nghiệp.
- Phần thịt : Tuy trong phần thịt của quả chanh dây chỉ có khoảng 2.4 % pectin
nhưng tại Fiji, mỗi năm các nhà sản xuất đã thu hồi được đến 5 tấn pectin giúp giảm
khối lượng chất thải. Phần còn lại chứa khoảng 5-6 % chất đạm được dùng làm chất
độn thêm trong thực phẩm cho gà và gia súc. Tại Braxin cũng có các nhà máy thu
hồi pectin và pectin từ loại quả tím có phẩm chất hơn từ loại quả vàng. Tại Hawaii,
pectin không được thu hồi, nên phần thịt được băm vụn, phơi khô rồi trộn với mật
mía để nuôi bò, heo.
- Hạt: Hạt cung cấp khoảng 23% dầu béo, dầu thu được có dạng tương tự như
dầu hạt hướng dương và dầu đậu nành, có thể dùng nấu ăn và có thể dùng trong kỹ

nghệ sơn, vécni. Fiji ép được đến 13 ngàn lít dầu/ năm.
+ Dùng làm dược phẩm: [21]
- 21 -
Nước ta rất hiếm khi sử dụng Lạc tiên tây làm dược phẩm nhưng trên thế giới
đã sử dụng từ lâu. Từ 1800 Lạc tiên tây đã được giới thiệu trong y học ở Bắc Mỹ
như là một loại thuốc giảm đau. Nhiều nước ở châu Âu, Mỹ và Canada sử dụng làm
dược phẩm cách đây 200 năm.
Cành và lá Lạc tiên tây có tác dụng an thần, gây ngủ (nhẹ), giảm sự lo âu hồi
hộp, hạ huyết áp (nhẹ), dịu các cơn co giật (trong động kinh), giảm cơn đau bụng cơ
năng và đau bụng kinh. Có 2 cách sử dụng: Lấy lá tươi (khoảng 100 gr) nấu nước
uống hằng ngày hoặc dùng lá, cành phơi khô, nấu thành cao lỏng mỗi ngày uống
chừng 20 - 30 ml (tùy từng người) vào buổi tối.
Nhiều quốc gia trên thế giới dùng lá chanh dây để bào chế thuốc vì các tác
dụng tốt của nó. Hoa chanh dây có tác dụng an thần nhẹ và có khả năng “ru” ngủ.
Hoa chanh dây đã và đang được nhiều nước dùng để điều trị cho những trẻ em dễ bị
kích động hoặc có vấn đề bất ổn về thần kinh, chữa bệnh hen suyễn, rối loạn tiêu
hóa, chứng mất ngủ, và các khó chịu của hội chứng tiền mãn kinh.
Tại Đức: Vị thuốc được dùng làm êm dịu thần kinh trong một số trường hợp
thần kinh rối loạn, khó ngủ, âu lo, bứt rứt nhất là nơi trẻ em. Có thể dùng dược liệu
(hoa khô) chế tạo thành trà dược bằng cách băm vụn 2 gram (1 thìa cà phê) dược
liệu, đổ nước đun sôi ngâm từ 5-10 phút, lược bỏ bã. Chia uống trong ngày thành 2-
3 lần, mỗi lần 240 ml hay uống 240 ml trước khi đi ngủ.
Tại Âu Châu: Dược liệu hay chất ly trích được dùng làm hoạt chất trong khá
nhiều đặc chế hỗn hợp để làm dịu tinh thần như Plantival, Sanadormin, Sedinfant,
Krauter-Dragees, Aranidorm Riêng tại Anh, có đến trên 40 đặc chế an thần có
chứa hoạt chất từ Passiflora incarnata như Gerard 99 Tablets, Lanes Naturest
Thổ dân tại Hoa Kỳ đã dùng lá và hoa giã nát để đắp vào các vết thương và để
chống sưng nơi các vết bầm. Nước sắc từ rễ dùng làm thuốc trị đau, gây êm dịu thần
kinh cho trẻ em hay khóc, làm thuốc nhỏ tai.
Tại Braxin cũng được dùng để trị nghiện rượu, trẻ em kinh phong, co giật.

Ngoài ra còn có một loại nước giải khát gọi là maracuja grande, dùng trị suyễn, ho
gà và các loại ho dai dẳng.
- 22 -
1.3.5. Những nghiên cứu trong và ngoài nước
a. Những nghiên cứu ngoài nước [21], [22]
Khi phát hiện ra Lạc tiên tây người ta đã biết một số tác dụng chữa bệnh của
nó nhờ vào kinh nghiệm sử dụng của thổ dân. Lá của Lạc tiên tây được dùng trong
Dược học Bắc Mỹ từ giữa thế kỷ 18, để trị nhức đầu và giã nát đắp vết thương.
Các tác dụng giảm đau của Lạc tiên tây lần đầu tiên được ghi nhận trong các tài
liệu vào năm 1897 còn các tác dụng an thần được ghi nhận vào năm 1904.
+ Từ 1951, ĐH Hawaii đã có nhiều nghiên cứu về chanh dây và chọn lựa
được những chủng loại vàng cho sản lượng cao và quả có nhiều nước cốt.
+ Năm 1973 một thử nghiệm khác, tướng đối ngắn hạn: trong 2 tuần dùng
đặc chế Compoz (bán tự do, ngoài quày bằng OTC, có chứa Passiflora trong thành
phần) đã không chứng minh được sự khác biệt giữa dùng Compoz với aspirin hay
placebo (JAMA Số 223-1973).
Thử nghiệm khác trong ống nghiệm cho thấy Passiflora diệt được nhiều loại vi
khuẩn, nấm gây bệnh, mốc trong đó hoạt tính diệt khuẩn mạnh nhất là trên các
Streptococcus gây ly huyết nhóm A, hoạt tính trên Staphyloccus aureus yếu hơn
và trung bình trên nấm Candida albicans. Các tác động diệt vi khuẩn mất đi khá
nhanh khi dùng cây khô và khi tồn trữ dịch chiết. (Antimicrobial Agents &
Chemotherapy Số 3-1973) .
+1974: Một số thử nghiệm cho thấy maltol và ethylmaltol có thể giúp tạo
quân bình, chống lại hoạt tính kích thích gây ra bởi các alkaloids loại harmala.
(Chemistry and Pharmacology Bulletin Số 22-1974).
+ 1975: Thử nghiệm trên chuột, cho thấy hoạt tính tạo êm dịu của P.
incarnata có thể do sự phối hợp cần thiết của cả flavonoids chung với các
alkaloids (Planta Medica Số 27-1975).
+ 1988: Các thử nghiệm trên thú vật ghi nhận các nước chiết từ hoa có
những tác động phức tạp trên hệ thần kinh Trung Uơng, gây ra những phản ứng

hoặc kích thích hoặc ức chế tùy thuộc vào liều lượng sử dụng (Planta Medica Số
54-1988).
- 23 -
+ 1995: Thử nghiệm dùng một đặc chế (từ P. incarnata) Calmanervin tạo êm
dịu cho bệnh nhân, trước khi giải phẫu, được ghi nhận là có kết quả tốt (Journal of
Ethnopharmacology Số 46-1995)
+ 1997: Thử nghiệm trên chuột, cho dùng nước chiết toàn cây (cả lá lẫn hoa),
cho thấy hoạt động của chuột giảm xuống trong các test dùng mê lộ (đường di
chuyển quanh co qua nhiều ngõ ngách, chướng ngại vật)
Một số nghiên cứu dược học cho thấy hoạt chất apigenin trong passionflower
có khả năng kết bám vào các thụ thể benzodiazepin trung ương, do đó tạo được
các tác động an thần mà không gây các phản ứng gây giảm trí nhớ hay rối loạn
hoạt động di chuyển; ngoài ra nước trích passionflower cũng làm giảm các kích
động quá mức về thần kinh gây ra bởi amphetamine (Pharmacology &
Biochemistry & Behavior Số 58-1997).
Thử nghiệm, double blind, có đối chứng với giả dược trong 91 bệnh nhân cho
dùng Passiflora (trong đặc chế hỗn hợp Euphytose) cho thấy kết quả có những
khác biệt rõ ràng về trị liệu các rối loạn tâm thần, tính nết giữa 2 nhóm dùng thuốc
và dùng giả dược (Fundamental Clinical Pharmacology Số 11-1997).
Do tác động an thần, Lạc tiên tây đã được dùng trong các trường hợp bệnh
suyễn, tim hồi hộp và một số trường hợp nhịp tim bất thường, huyết áp cao, mất
ngủ, âu lo, căng thẳng tinh thần; tuy nhiên trên thực tế chưa có những kết quả lâm
sàng để xác nhận các đặc tính trị bệnh kể trên.
+ 2002: Lá có khả năng trị ho: Một nghiên cứu năm 2002, nơi chuột ghi
nhận nước trích từ lá có thể làm giảm ho theo cách tác động của codein.
(Fitoterapia Số 73-2002)
+ 2003: Lá passionflower đã được sử dụng trong dân gian như một phương
thuốc 'bổ tình dục, gây hứng khởi'. Trong một nghiên cứu năm 2003, nước chiết từ
lá khi thử trên chuột cho thấy các hoạt tính như làm tăng hoạt động tình dục, tăng
số lượng tinh trùng, khả năng thụ tinh. (Phytotherapy Research Số 17-2003)

+ 2008: Dịch chiết từ vỏ của quả Lạc tiên tây có thể làm giảm bớt cơn khò
khè, ho và thở ngắn hơi nơi người bệnh suyễn (Nghiên cứu tại Southwest
- 24 -
Scientific Editing and Consulting, Tucson, Arizona, công bố trên Nutrition
Research Số 28-2008).
+ 2009: Trong hạt của quả Lạc tiên tây có một protein phức tạp là Passiflin
có khả năng diệt nấm (Phytomedicine Số 16-2009).
Lá trích bằng ethanol, cho một dịch chiết có khả năng chống oxy hóa khá
mạnh (Thử nghiệm tại ĐH Karpagam, Ấn độ, công bố trên Indian Journal of
Pharmaceutical Sciences Số 71-2009).
Một nghiên cứu khác tại ĐH Santa Catarina, SC (Ba Tây) ghi nhận dịch chiết
từ phần thịt của quả dây mát loại vàng có khả năng an thần, gây ngủ nhẹ khi thử
trên chuột. Hoạt tính được cho là do các C-glycosylflavonoids như isoorientin,
vicenin. (Experimental Biology and Medicine Số 234-2009) .
+ 2010: Nghiên cứu tại Trường Dược, Viện ĐH Trùng Khánh ghi nhận dịch
chiết bằng ethanol thân và lá của cây dây mát có hoạt tính an thần ở liều thấp
(dưới 200 mg/kg) và gây dịu thần kinh ở liều cao hơn 300mg/kg. Hoạt tính này có
thể do ở các flavonoids. (Journal of Ethnopharmacology Số 128-2010).
Các nhà nghiên cứu ở trường Đại học Florida (Mỹ) đã phát hiện ra rằng chiết
xuất của vỏ trái chanh dây vàng có thể chống lại các tế bào ung thư nhờ vào 2 hoạt
chất có nguồn gốc thực vật là carotenoids và polyphenols. Còn giáo sư Watson
(cũng của trường Đại học Florida) và các cộng sự của ông thì lại chứng minh được
rằng chiết xuất từ vỏ trái chanh dây tím giúp giảm được đến 75% chứng thở khò
khè ở những người bị bệnh hen suyễn và nâng cao khả năng hít thở của họ.
b. Những nghiên cứu trong nước [23], [24], [25], [26]
Ở nước ta có một số nghiên cứu về Lạc tiên tây nhưng chủ yếu về giống và
các sản phẩm thực phẩm còn về tính chất dược học thì ít được nghiên cứu.
Kỹ sư, cán bộ kỹ thuật Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Đắc Nông ghép thành
công giống chanh dây đã giúp cho người trồng chanh dây ở Đắc Nông không còn
phụ thuộc vào giống chanh dây nhập từ nước ngoài về như lâu nay, giá cả lại cao,

hiện tại các doanh nghiệp nhập giống chanh dây từ nước ngoài về bán cho nông
dân trên địa bàn tỉnh Đác Nông là 25.000 đồng/gốc.
- 25 -
+ 2007: Giảng viên Nguyễn Thị Thu Sang và các cộng sự thuộc Trường ĐH
Bán công Tôn Đức Thắng (TP HCM) đã thành công trong việc sản xuất một loại
rượu vang mới được chiết xuất từ vỏ trái chanh dây.
+2009: Nghiên cứu đầu tiên về viên sủi chanh dây tại Việt Nam do thạc sĩ
Tôn Nữ Thu Nguyệt, bộ môn Công nghệ thực phẩm, khoa Kỹ thuật hóa học, ĐH
Bách khoa TP HCM thực hiện. thạc sĩ Nguyệt cũng đã thành công trong việc tạo
ra bột chanh dây theo công nghệ sấy phun.
+ 2011: Công ty Phương Thảo Nguyên (TP.HCM) với sự tham gia của TS.
Lê Văn Bé (Trường đại học Cần Thơ) – người nghiên cứu và tư vấn kỹ thuật cho
Công ty, đã nghiên cứu và đưa vào trồng thành công chanh dây trồng bằng kỹ
thuật hình “chữ T” (tại tỉnh Đăk Nông), bằng phương pháp này số lượng trái
chanh dây loại 1 đạt đến 80% .
1.3.6. Một số sản phẩm từ Lạc tiên tây trên thị trường
Bảng 1.2. Một số sản phẩm từ Lạc tiên tây trên thị trường
Tên sản
phẩm
Hình ảnh
Thành phần và
cách thức bao gói

Tác dụng
Nước cốt
chanh dây


- Quả chanh dây
vàng,

- 500ml/ Chai
Thùng 24 chai
Bổ, mát,
thanh nhiệt,
giải khát, an
thần, lợi
tiểu.
Dưỡng
thể giữ
ẩm hương
chanh
dây, Anh

- Chanh dây, dưa
hấu và bơ cao cao.

- Đựng trong hộp
dung tích 200ml

Đối với da
thường và
da khô. Làm
mịn da.

×