Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn, mật độ và độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu (scatophagus argus linnaeus, 1766) nuôi tại thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.04 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
@&?




HOÀNG NGHĨA MẠNH



NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN, MẬT ĐỘ
VÀ ĐỘ MẶN LÊN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG
CỦA CÁ NÂU (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) NUÔI
TẠI THỪA THIÊN HUẾ





Mã số: 60.62.70


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Nuôi trồng Thủy sản



GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN ĐÌNH MÃO









NHA TRANG - 2010
I

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố ở
bất cứ công trình khoa học nào khác.


Tác giả luận văn

Hoàng Nghĩa Mạnh
II
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ, động
viên tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Đình Mão. Tác giả trân trọng
cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Khoa Huy Sơn, anh Nguyễn Đức đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình bố trí thí nghiệm tại trại sản xuất giống và
tại các ao nuôi thủy sản của gia đình.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo Đại học và sau đại học,
Khoa thủy sản Trường Đại học Nha Trang, quý thầy cô giáo trong và ngoài trường đã
truyền đạt nhiều kiến thức quý báu và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu tại trường.

Cuối cùng, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô giáo Trường Đại học
Nông Lâm Huế đã có những chỉ dạy, hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các em sinh viên và gia đình đã luôn hỗ trợ tôi
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
III
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Lời cam đoan I
Lời cảm ơn II
Mục lục III
Danh mục các chữ viết tắt VI
Danh mục các bảng VII
Danh mục các hình VIII
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Đặc điểm sinh học của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) 4
2.1.1. Đặc điểm phân loại và phân bố 4
2.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo 5
2.1.3. Đặc điểm sinh trưởng 6
2.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng 7
2.1.5. Đặc điểm sinh sản 7
2.2. Tình hình nghiên cứu cá nâu- Scatophagus argus 8
2.2.1. Nghiên cứu về phân loại, thành phần loài của cá nâu 8
2.2.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng của cá nâu 9
2.2.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh sản và kỹ thuật sản xuất giống cá nâu 11
2.2.4. Nghiên cứu nuôi thương phẩm cá nâu 13
2.3. Tình hình khai thác và nuôi cá nâu ở Thừa Thiên Huế 15
2.3.1. Tình hình khai thác cá nâu ở Thừa Thiên Huế 15
2.3.2. Nuôi cá nâu ở Thừa Thiên Huế 15
2.4. Tình hình nghiên cứu và sử dụng thức ăn trong nuôi thủy sản 16

2.4.1. Thức ăn giàu protein sử dụng trong nuôi trồng thủy sản 16
2.4.1.1. Đặc điểm dinh dưỡng của một số loại khô dầu 16
2.4.1.2. Đặc điểm của một số thức ăn giàu protein nguồn gốc động vật 17
2.3.2. Tình hình nghiên cứu về dinh dưỡng và thức ăn cá biển 19
Chương 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
IV
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 23
2.2. Nội dung nghiên cứu 23
2.3. Vật liệu nghiên cứu 23
2.4. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu của đề tài 25
2.5. Phương pháp bố trí thí nghiệm 25
2.5.1. Thí nghiệm I: Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein 25
khác nhau trong thành phần lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu
2.5.2. Thí nghiệm II: Nghiên cứu ảnh hưởng của các mật độ nuôi lên sinh trưởng 27
và tỷ lệ sống của cá nâu
2.5.3. Thí nghiệm III: Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức độ mặn khác nhau lên 27
sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu
2.5.4. Quản lý chăm sóc cá trong giai, bể thí nghiệm 28
2.6. Phương pháp chế biến thức ăn 28
2.7. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu 29
2.7.1. Phương pháp theo dõi các yếu tố môi trường 29
2.7.2. Phương pháp xác định tốc độ tăng trưởng của cá 29
2.7.3. Các công thức xác định thông số thí nghiệm 29
2.7.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 30
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 31
3.1. Sự biến động của một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 31
3.1.1. Nhiệt độ 31
3.1.2. Độ mặn 32
3.1.3. pH 32
3.1.4. Oxy hòa tan 33

3.1.5. Khí NH
3
33
3.2. Ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein khác nhau trong thành phần 34
lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu
3.2.1. Ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein khác nhau trong thành phần 34
lên sinh trưởng của cá nâu
3.2.2. Ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein khác nhau trong thành phần 40
lên tỷ lệ sống và hệ số chuyển hóa thức ăn của cá nâu
V
3.3. Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu 42
3.3.1. Ảnh hưởng của các mức mật độ khác nhau lên sinh trưởng của cá nâu 42
3.3.2. Ảnh hưởng của các mức mật độ khác nhau lên tỷ lệ sống của cá nâu 46
3.3.3. Sự phân cỡ của cá nâu (Scatophagus argus) ở các mật độ khác nhau 47
3.4. Ảnh hưởng của các mức độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu 50
3.4.1. Ảnh hưởng của các mức độ mặn khác nhau lên sinh trưởng của cá nâu 50
3.4.2. Ảnh hưởng của các mức độ mặn khác nhau lên tỷ lệ sống của cá nâu 54
3.4.3. Sự phân cỡ của cá nâu (Scatophagus argus) ở các độ mặn khác nhau 55
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
PHỤ LỤC 67

VI
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KL : Khối lượng.
CD : Chiều dài.
W
S
: (Start Weight) khối lượng cá khi bắt đầu thí nghiệm.
L

s
: (Start Length) chiều dài của cá khi bắt đầu thí nghiệm.
W
e
: (End Weight) khối lượng cá khi kết thúc thí nghiệm.
L
e
: (Start Length) chiều dài của cá khi kết thúc thí nghiệm.
WG (%) : (Weight gain) mức tăng khối lượng tương đối.
LG (%) : (Legth gain) mức tăng chiều dài tương đối.
DGR
w
(g/ngày) : (Daily Growth Rate of Weight) tốc độ tăng trưởng khối lượng.
DGR
L
(cm/ngày): (Daily Growth Rate of Length) tốc độ tăng trưởng chiều dài.
Cv (%) : (Coefficient of variation) hệ số biến động.
DGI (%/ngày) : (Daily Growth Index) chỉ số sinh trưởng hàng ngày.
BC : Bột cá.
BB : Bột bắp.
ĐN : Bột đậu nành.
CG : Cám gạo.
BM : Bột mì.
CT1 : Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 20% trong khẩu phần.
CT2 : Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 25% trong khẩu phần.
CT3 : Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 30% trong khẩu phần.
CT4 : Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 35% trong khẩu phần.
FCR : (Feed conversion ratio) hệ số chuyển hóa thức ăn.
FI : (Feed intake) lượng thức ăn cá ăn vào.
SR : (Survival rate) tỷ lệ sống.

RGL : (Raletive Gut Length) tương quan giữa chiều dài thân và chiều dài ruột.
VII
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Trang
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của nhóm thức ăn giàu protein nguồn gốc thực vật 17
Bảng 2: Thành phần dinh dưỡng của nhóm thức ăn giàu protein nguồn gốc động vật 17
Bảng 3: Các nhu cầu protein và năng lượng của một số loài cá biển 20
Bảng 4: Nhu cầu acid amin không thể thay thế của một số loài cá biển (%Protein) 21
Bảng
5: Nhu cầu lipid, acid béo, carbohydrate, vitamin và khoáng của cá biển 22
Bảng 6: Thành phần dinh dưỡng của các nguyên liệu dùng phối trộn thức ăn 25
Bảng 7: Thành phần nguyên liệu của các công thức thức ăn trong thí nghiệm 26
Bảng 8: Biến động của một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 31
Bảng 9: Thành phần dinh dưỡng cơ bản của các loại thức ăn thí nghiệm 34
Bảng 10: Một số chỉ tiêu sinh trưởng của cá nâu trong thí nghiệm I 35
Bảng 11: Tỷ lệ sống và hệ số chuyển hóa thức ăn của cá ở các nghiệm thức thức ăn 40
Bảng 12: Một số chỉ tiêu sinh trưởng của cá nâu trong thí nghiệm II 42
Bảng 13: Tỷ lệ sống của cá nâu ở các mật độ nuôi khác nhau 46
Bảng 14: Sự phân cỡ của cá nâu ở các mật độ nuôi khác nhau 47
Bảng 15: Một số chỉ tiêu sinh trưởng của cá nâu trong thí nghiệm III 50
Bảng 16: Tỷ lệ sống của cá nâu ở các mức độ mặn khác nhau 54
Bảng 17: Sự phân cỡ của cá nâu ở các nghiệm thức độ mặn khác nhau 55
VIII
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình Trang
Hình 1: Bản đồ phân bố của cá nâu (Scatophagus argus) trên thế giới 5
Hình 2: Cá nâu (Scatophagus argus) 5
Hình 3: Một số loài thuộc họ cá Nâu – Scatopagiidae 9
Hình 4: Bể thí nghiệm 23
Hình 5: Giai nuôi thí nghiệm 24

Hình 6: Khung cho cá ăn 24
Hình 7: Sơ đồ nghiên cứu tổng thể của đề tài 25
Hình 8: Sự tăng trưởng khối lượng của cá nâu các đợt kiểm tra ở thí nghiệm I 37
Hình 9: Mức tăng khối lượng tương đối WG (%) ở thí nghiệm I 37
Hình 10: Tốc độ tăng khối lượng hàng ngày DGR
w
(g/ngày) ở thí nghiệm I 37
Hình 11: Chỉ số sinh trưởng hàng ngày DGI (%/ngày) ở thí nghiệm I 37
Hình 12: Sự tăng trưởng chiều dài của cá nâu các đợt kiểm tra ở thí nghiệm I 38
Hình 13: Mức tăng chiều dài tương đối LG (%) ở thí nghiệm I 38
Hình 14: Tốc độ tăng chiều dài hàng ngày DGR
L
(cm/ngày) ở thí nghiệm I 38
Hình 15: Tỷ lệ sống của cá nâu ở thí nghiệm I 38
Hình 16: Ảnh hưởng của hàm lượng protein trong thức ăn đến mức tăng khối 39
lượng và chiều dài tương đối (WG và LG) của cá nâu
Hình 17: Ảnh hưởng của hàm lượng protein trong thức ăn đến tốc độ tăng trưởng 40
Hình 18: Ảnh hưởng của hàm lượng protein trong thức ăn đến chỉ số 40
sinh trưởng của cá nâu
Hình 19: Ảnh hưởng của hàm lượng protein trong thức ăn đến hệ số 40
chuyển hóa thức ăn của cá nâu
Hình 20: Sự tăng trưởng khối lượng của cá nâu các đợt kiểm tra ở thí nghiệm II 44
Hình 21: Mức tăng khối lượng tương đối WG (%) ở thí nghiệm II 44
Hình 22: Tốc độ tăng khối lượng hàng ngày DGR
w
(g/ngày) ở thí nghiệm II 44
Hình 23: Chỉ số sinh trưởng hàng ngày DGI (%/ngày) ở thí nghiệm II 44
Hình 24: Sự tăng trưởng chiều dài của cá nâu các đợt kiểm tra ở thí nghiệm II 45
Hình 25: Mức tăng chiều dài tương đối LG (%) ở thí nghiệm II 45
IX

Hình 26: Tốc độ tăng chiều dài hàng ngày DGR
L
(cm/ngày) ở thí nghiệm II 45
Hình 27: Tỷ lệ sống của cá nâu ở thí nghiệm II 45
Hình 28: Sự phân cỡ về chiều dài của cá nâu ở các mật độ nuôi 48
Hình 29: Sự phân cỡ về khối lượng của cá nâu ở các mật độ nuôi 49
Hình 30: Sự tăng trưởng khối lượng của cá nâu các đợt kiểm tra thí nghiệm III 52
Hình 31: Mức tăng khối lượng tương đối WG (%) ở thí nghiệm III 52
Hình 32: Tốc độ tăng khối lượng hàng ngày DGR
w
(g/ngày) ở thí nghiệm III 52
Hình 33: Chỉ số sinh trưởng hàng ngày DGI (%/ngày) ở thí nghiệm III 52
Hình 34: Sự tăng trưởng chiều dài của cá nâu các đợt kiểm tra ở thí nghiệm III 53
Hình 35: Mức tăng chiều dài tương đối LG (%) ở thí nghiệm III 53
Hình 36: Tốc độ tăng chiều dài hàng ngày DGR
L
(cm/ngày) ở thí nghiệm III 53
Hình 37: Tỷ lệ sống (%) của cá nâu ở thí nghiệm III 53
Hình 38: Sự phân cỡ chiều dài của cá nâu ở các mức độ mặn 57
Hình 39: Sự phân cỡ khối lượng của cá nâu ở các mức độ mặn 58

1
MỞ ĐẦU
Cá nâu (Scatophagus argus) là một đối tượng có giá trị kinh tế. Cá có nhiều ưu
điểm như giá trị thương phẩm cao, rộng muối, sức sống cao, thức ăn chủ yếu thực vật
thủy sinh, mùn bã hữu cơ và là đối tượng mang những nét đặc trưng riêng ở vùng đầm
phá Tam Giang - Cầu Hai [10]. Do tập tính ăn tạp của cá, nên loài cá nâu rất có
triển vọng trong nuôi kết hợp với các loài cá khác, nhất là trong mô hình tôm - rừng.
Cá nâu còn được nuôi làm cá cảnh [4]. Hiện nay, nguồn lợi cá nâu tự nhiên ở khu vực
đầm phá Tam Giang - Cầu Hai giảm sút nghiệm trọng cần có những nghiên cứu để

phát triển nuôi thương phẩm đối tượng này nhằm giảm tải khai thác nguồn lợi cá nâu
từ tự nhiên [19].
Ngư dân vùng đầm phá Tam Giang từ lâu đã rất gần gũi với đối tượng này, với
họ cá nâu được biết đến như một đối tượng nuôi ghép không thể thiếu trong các ao
nuôi tôm. Trong những năm gần đây, sự thất bại trong nuôi tôm sú đã khiến nhiều ngư
dân trắng tay thì cá nâu đã hiện diện như một đối tượng cứu giúp cho ngư dân. Tại
Thừa Thiên Huế, nguồn giống cá nâu chủ yếu thu gom từ tự nhiên ở cửa biển Thuận
An và Tư Hiền của đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, trong khoảng thời gian từ tháng 4
đến tháng 10 âm lịch hàng năm [16; 34]. Nuôi cá nâu ở phá Tam Giang - Cầu Hai rất
phổ biến và nuôi ở các mô hình nuôi nhỏ, nuôi trong ao và trong lồng.
Việc đưa cá nâu vào nuôi rộng rãi sẽ góp phần làm đa dạng đối tượng nuôi, giảm
áp lực lên đối tượng tôm sú, đồng thời làm tăng tính hiệu quả và bền vững cho nuôi
trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc tiến hành nuôi cá nâu hoàn toàn không đơn thuần với
ngư dân, bởi người nuôi còn gặp nhiều khó khăn như (i) không chủ động con giống;
(ii) sử dụng thức ăn chưa hợp lý; (iii) mật độ nuôi chưa phù hợp và (iv) năng suất, hiệu
quả nuôi còn thấp. Có rất nhiều lý giải của các nhà khoa học về nguyên nhân của vấn
đề này như hạn chế kiến thức về đặc điểm sinh học, môi trường sống và quy trình kỹ
thuật nuôi thương phẩm đối tượng này. Minh chứng rõ nét cho khó khăn trong nuôi cá
nâu là ngư dân thường thất bại trong việc ương nuôi, lưu giữ nguồn giống tự nhiên qua
các mùa mưa lũ; đặc biệt, những năm vừa qua ngư dân vùng đầm phá Tam Giang -
Cầu Hai gặp phải hiện tượng cá chết trắng trong ao nuôi vào các khoảng thời gian có
sự thay đổi về độ mặn và nhiệt độ nước đầm nuôi.

2
Sinh trưởng của cá liên quan đến sự sắp xếp của các mô cơ, mô mỡ, biểu mô và
mô liên kết. Cá sinh trưởng nhanh hay chậm phụ thuộc phần lớn vào khẩu phần thức
ăn, ngoài ra còn có một số yếu tố khác như loài, giới tính, tuổi, mật độ nuôi, môi
trường sống và điều kiện quản lý chăm sóc [1]. Thức ăn trong nuôi trồng thủy sản
thường chiếm 30 đến 60% chi phí sản xuất [45]. Thức ăn không chỉ tác động đến sinh
trưởng của cá, mà còn tác động đến hiệu quả kinh tế của ngư dân. Mặt khác, các

nghiên cứu về cá nâu còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung vào phân loại, mô tả và một số
dẫn liệu chung về sinh học, còn nghiên cứu chuyên sâu về dinh dưỡng và nuôi thịt cá
nâu hầu như còn rất ít.
Như vậy, để nuôi cá nâu đạt hiệu quả cao không chỉ cần con giống tốt mà thức
ăn, mật độ nuôi và yếu tố sinh thái môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng, đề tài
“Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn, mật độ và độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ
sống của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) nuôi tại Thừa Thiên Huế” sẽ
góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho nuôi thương phẩm cá nâu ở Thừa Thiên Huế.
Mục tiêu của đề tài:
Tìm hiểu được mức protein có trong khẩu phần ăn, mật độ nuôi và độ mặn thích
hợp cho sinh trưởng, tỷ lệ sống của cá nâu trong nuôi thương phẩm. Kết quả nghiên
cứu của đề tài góp phần làm giảm chi phí thức ăn bằng cách nâng cao hiệu quả sử
dụng thức ăn và nâng cao tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống của cá nâu bằng việc xác định
nuôi với mật độ và độ mặn phù hợp nhằm tăng lợi nhuận cho người nuôi. Đồng thời,
xây dựng nên các chỉ tiêu kỹ thuật trong nuôi thương phẩm cá nâu phù hợp với điều
kiện sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai.
Để đạt các mục tiêu trên đề tài đã thực hiện những nội dung nghiên cứu sau:
1- Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein khác nhau trong
khẩu phần lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu.
2- Nghiên cứu ảnh hưởng của các mật độ nuôi khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ
sống của cá nâu.
3- Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức độ mặn khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ
sống của cá nâu.

3
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của giáo
viên hướng dẫn, các thầy cô giáo và các em sinh viên, cùng với sự nỗ lực của bản thân
nhưng luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện hơn.
Nha Trang, tháng 12 năm 2010.


4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm sinh học của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766)
2.1.1. Đặc điểm phân loại và phân bố
• Phân loại
Theo Mai Đình Yên (1992) cá nâu có tên khoa học (Scatophagus argus Linnaeus, 1766)
thuộc giống cá nâu Scatophagus Cuvier, 1830 và họ cá nâu Scatophagidae. Cá có hệ
thống phân loại như sau [38]:
Ngành phụ: Động vật có xương sống - Vertebrata
Lớp: Cá xương - Osteichthyes
Bộ: Cá Vược - Perciformes
Họ: Cá Nâu - Scatophagidae
Giống: Cá Nâu - Scatophagus
Loài: Cá Nâu - Scatophagus argus Linnaeus, 1766
Tên phổ thông: Cá Nâu
Tên địa phương: Cá Nâu, Cá Nầu.
• Phân bố
- Trên thế giới: Theo tài liệu FAO (1998), cá Nâu sống cùng các rạn san hô ở
biển và phân bố cả ở nước ngọt, lợ và mặn. Chúng sống ở độ sâu từ 1- 4m, nhiệt độ
phân bố 20- 28
0
C. Trên thế giới chúng thường phân bố ở Ấn Độ, Ôxtrâylia, XriLanca,
Malaixia, Philippin, Thái Lan, Cămpuchia và Trung Quốc [41; 55].
- Ở Việt Nam: Cá Nâu phân bố chủ yếu ở Vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ và Nam
Bộ. Cá Nâu thường sống ở các bãi đá ngầm, bến cảng, các vịnh tự nhiên, vùng rừng
ngập mặn ven biển, vùng cửa sông và cả vùng hạ lưu các con suối [5; 19].
Ở Thừa Thiên Huế, cá Nâu có mặt ở tất cả hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai,
Lăng Cô, vùng ven biển và cửa sông. Cá có sản lượng lớn ở các địa phương có cửa

sông thông ra biển như: Vinh Hiền (cửa Tư Hiền); Thuận An. Chúng có đặc tính phân
bố theo bầy đàn, sống nơi có giá thể như các hốc, rễ cây trong các ao, đầm, sông, bãi
triều và những vùng nước lợ, mặn [19].

5

Hình 1: Bản đồ phân bố của cá nâu (Scatophagus argus) trên thế giới [55].
2.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
Cá Nâu- Scatophagus argus có thân ngắn, cao và rất dẹp bên, nhìn ngang gần
như tròn. Viền trước vây lưng dốc đứng xuống và có vết lõm sau mắt. Đầu nhỏ và
ngắn. Miệng trước nhỏ, rạch nằm ngang, ngắn, không kéo dài tới viền trước mắt. Trên
hàm có răng nhỏ, mịn. Rãnh sau môi trên gián đoạn ở giữa. Mắt lớn vừa nằm trên
đường ngang kẻ từ góc miệng và gần như cách đều giữa mõm và điểm cuối nắp mang.
Khoảng cách 2 mắt cong lồi và tương đương 1,5 lần đường hình mắt [19].

Hình 2: Cá nâu (Scatophagus argus)
Lỗ mũi trước tròn, dẹt. Cạnh trước xương lệ có răng cưa, xương nắp mang có một
gai. Màng mang hẹp và liền với eo. Rìa tia vây lưng và vây hậu môn gần như thẳng
đứng. Viền đuôi thẳng đứng hoặc hơi lồi. Khởi điểm vây lưng nằm ngang phần cuối
nắp mang, gai cứng nhọn, gai thứ IV, V và VI dài hơn các gai khác. Trước gốc vây

6
lưng có một gai không cử động được, có hướng về phía đầu. Khởi điểm của vây hậu
môn dưới phần gai cứng sau của tia vây lưng [19].
Vẩy lược nhỏ, phủ khắp thân, đầu, gốc vây hậu môn, vây lưng và vây đuôi.
Đường bên hoàn toàn, từ lỗ mang cong lên phía lưng sau đó chạy vào giữa cán đuôi.
Lưng có màu xanh nhạt, bụng trắng. Thân có các đốm tròn màu nâu lớn nhỏ, kích
thước không giống nhau, sắp xếp xen kẽ trên cơ thể. Các đốm này nhạt dần về phía
bụng. Rìa vây lưng đen thẫm, màng vây nhạt. Tia phân nhánh vây lưng, vây hậu môn
và vây đuôi có vân đen nhạt [5].

2.1.3. Đặc điểm sinh trưởng
Theo Dương Thị Nga (2008) cấu trúc nhóm tuổi của cá nâu gồm 5 nhóm: nhóm
tuổi 0
+
chiếm 13,2% quần đàn, cá có chiều dài dao động từ 56 - 85 mm và khối lượng
tương ứng từ 14 - 58g; nhóm tuổi 1
+
chiếm 20,2% quần đàn, cá có chiều dài dao động
từ 92 - 145 mm và khối lượng tương ứng 70 - 265 g; nhóm tuổi 2
+
chiếm 31,7% quần
đoàn, cá có chiều dài từ 143 - 200 mm và khối lượng tương ứng 270 - 745g; nhóm tuổi
3
+
chiếm 29,3% quần đoàn, chiều dài từ 194 - 222 mm và khối lượng tương ứng 577 -
977g; nhóm tuổi 4
+
chiếm 5,6% quần đàn, chiều dài từ 225 - 240 mm và khối lượng
tương ứng là 780 - 1240g [19].
Tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá nâu cao nhất trong năm đầu đạt 97,7mm,
năm thứ 2 tăng thêm 50,8mm (56,1%), năm thứ 3 tăng thêm 43,2mm (47,9%) và năm
thứ 4 tăng thêm 28,6mm (31,6%). Như vậy, vào năm đầu của vòng đời cá tăng trưởng
nhanh về chiều dài, sau đó tốc độ tăng trưởng của cá theo chiều dài chậm dần. Trong
cùng một nhóm tuổi, tốc độ sinh trưởng của cá ở các nhóm tuổi khác nhau cũng đồng
đều nhưng có sự chênh lệch giữa con đực và con cái. Từ một đến hai năm tuổi con đực
có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn con cái. Sang tuổi 3 và 4 tốc độ tăng trưởng của con
cái lại nhanh hơn con đực [19]. Phương trình tương quan giữa chiều dài và khối lượng thể
hiện qua phương trình hàm mũ của R.J.H Beverton-S.J Holt (1956): W = 0,0571 x L
3,1453
.

Phương trình sinh trưởng Von Bertalanffy (1954) về chiều dài và khối lượng của
cá nâu [19]:
Về chiều dài: L
t
= 328,9 [1 – e
-0,25(t+0,88)
]
Về khối lượng: W
t
= 2641,1 [1 – e
-0,038(t+0,017)
]
3,1453
.

7
2.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng
Thành phần thức ăn của cá Nâu rất đa dạng, gồm 28 loại đại diện cho 6 nhóm
khác nhau (3 ngành Tảo và 2 ngành động vật không xương sống và mùn bã hữu cơ).
Trong đó, ngành Tảo Silic - Bacillariophycophyta chiếm ưu thế về thành phần giống
(15 giống), ngành Tảo Lam - Cyanophyta có 3 đại diện và ngành Tảo Đỏ -
Rhodophycophyta có 1 đại diện. Trong thành phần thức ăn của cá Nâu còn gặp các đại
diện của 2 ngành động vật không xương sống là ngành Giun đốt - Annelida và ngành
Chân khớp - Arthropoda với mỗi ngành 4 đại diện [19; 34].
Cá Nâu ít chọn lọc thức ăn mà sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau có trong
thuỷ vực. Thành phần thức ăn gồm cả thực vật lẫn động vật. Trong số những loài thức
ăn phân tích được trong ống tiêu hóa, các ngành tảo chiếm ưu thế hơn về số lượng với
61,54 %, còn động vật chỉ chiếm 38,46 %. Điều đó cho thấy, cá Nâu thích ăn thực vật
hơn động vật [19].
Các loại thức ăn như: Oscillatoria, Achnanthes, Polysiphonia, Amphora, Codonelliae,

Cocconeis, Nitzschia,… có mặt nhiều và tần số bắt gặp khá cao trong ống tiêu hoá của
những cá thể thuộc các nhóm kích thước khác nhau. Có thể nói đây là những loại thức
ăn ưa thích của cá Nâu. Một số loại thức ăn chỉ bắt gặp ở nhóm cá kích thước nhỏ,
không thấy ở nhóm kích thước lớn như Phronimidae, Lycaeopsidae. Ngược lại, các
đại diện như: Daphniiae, Stephanopyxis lại không thấy có mặt trong ống tiêu hoá của
nhóm kích thước nhỏ. Có lẽ, thành phần thức ăn cá Nâu còn phụ thuộc vào từng thời
kỳ khác nhau trong quá trình phát triển cá thể [19; 34; 28].
2.1.5. Đặc điểm sinh sản
• Xác định giới tính
Trong cùng một quần đàn cá Nâu thành thục, kích cỡ cá cái thường lớn hơn cá
đực. Cá cái nhỏ nhất thành thục có chiều dài 10,3 cm tương đương với khối lượng 40,5 g.
Trong quần đàn cá Nâu thì tỉ lệ cá cái cao hơn cá đực. Cá Nâu là loài cá khó xác định
giới tính bằng các đặc điểm hình thái bên ngoài. Tuy nhiên, có thể xác định bằng
phương pháp giải phẫu để quan sát tuyến sinh dục. Khi quan sát chúng ta có thể thấy
được một vài đặc điểm như (i) Cá cái có tuyến sinh dục phát triển thường bụng có kích
thước to hơn kích thước bụng cá đực; (ii) nhìn ngang thân cá đực thường ốm và thon

8
dài hơn cá cái; (iii) xương trán cá đực phát triển, nhô cao hơn con cái và đây cũng là
kết quả nghiên cứu của Barry và Fast (1992) [28; 41].
• Sức sinh sản
Sức sinh sản tuyệt đối và tương đối phụ thuộc chủ yếu vào hệ số thành thục và
kích thước của cá. Cá có hệ số thành thục càng cao thì có sức sinh sản tuyệt đối càng
lớn, đồng thời những cá có kích thước càng lớn thì sức sinh sản tương đối càng cao.
Sức sinh sản tuyệt đối của cá Nâu rất cao, trung bình 519.547 ± 237.776 trứng/cá thể
(dao động từ 215.000 - 1.073.733 trứng/cá cái) và sức sinh sản tương đối 1.915.579 ±
880.509 trứng/kg cá cái (dao động từ 891.505 - 3.365.934 trứng/kg cá cái) cho cá có
khối lượng trung bình 294 ± 119 g/con. Sức sinh sản cá Nâu cao hơn đối với một số
loài cá biển như cá Đối đất (Liza Subviridsis) 7.500-27.000 trứng/cá cái (Mohsin and
Ambak, 1996) và cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) 8.658 - 42.487 trứng/cá cái

(P.Kungvankij và ctv., 1986) [28].
• Mùa vụ sinh sản
Mùa vù sinh sản của cá tự nhiên vào tháng 4- 5 và tháng 7- 8 hàng năm. Hệ số thành
thục trung bình quần thể theo tháng cao nhất đạt 16,4% và hệ số thành thục cá thể lớn nhất
đạt 27,2% [28]. Theo kết quả điều tra phỏng vấn người dân ven biển Thừa Thiên Huế thì
cá Nâu giống thường xuất hiện vào khoảng tháng 5- 7 và 9-12 âm lịch hàng năm [19; 34].
2.2. Tình hình nghiên cứu cá nâu- Scatophagus argus
2.2.1. Nghiên cứu về phân loại, thành phần loài của cá nâu
Cá Nâu đã được mô tả bởi các tác giả như: Mai Đình Yên (1992); Khóa định loại
của FAO; Nguyễn Văn Hảo, Ngô Sỹ Vân (2005) trong "Cá nước ngọt Việt Nam", tập
3; sách đỏ Việt Nam (1992), phần động vật. Về phân loại, Cá Nâu Scatophagus argus
(Linnaeus, 1766) là loài duy nhất trong bốn loài thuộc họ Scatophagidae, bộ cá Vược
Perciformes phân bố ở ven biển Việt Nam [5; 38; 55].
Họ cá Nâu - Scatophagiidae là một họ cá nhỏ thuộc bộ cá Vược Perciformes.
Phân bố trên các vùng biển từ Ấn Độ đến Tây Thái Bình Dương. Họ cá Nâu có bốn
loài (Hình 3). Ở một số địa phương cá Nâu còn có tên gọi khác như: Cá Nầu, cá nú, cá
hói. Chúng thường phân bố ở vùng nước lợ và vùng cửa sông, là loài ăn thực vật
(rong, tảo) phân hữu cơ và xác thối.

9

Scatophagus argus Linnaeus, 1766 Selenotoca papuensis Fraser Brunner, 1938

Scatophagus tetracanthus Lacepede, 1802 Selenotoca multifasciata Richardson, 1846
Hình 3: Một số loài thuộc họ cá Nâu – Scatopagiidae [55].
2.2.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng của cá nâu
Nguyễn Thanh Phương và ctv (2004) nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng
cá nâu phân bố tại huyện Ngọc Hiển, Tỉnh Cà Mau. Kết quả khảo sát về đặc điểm hình
thái cơ quan dinh dưỡng của cá nâu cho thấy cá có miệng nhỏ; rạch miệng nằm ngang
và ngắn; môi co duỗi được; răng nhỏ và mịn; cá có bốn đôi cung mang và mỗi cung

mang có hai hàng lược mang; màng mang hẹp và liền với eo mang; thực quản cá nhỏ
và ngắn; dạ dày nhỏ, vách mỏng, mặt trong có nhiều nếp gấp; ruột nhỏ, vách mỏng và
cuộn tròn. Tỷ lệ giữa chiều dài ruột và chiều dài thân cá là 2,88, cho thấy rằng cá nâu
có thuộc tính ăn tạp. Kết quả phân tích thành phần thức ăn trong dạ dày và ruột cá nâu
cho thấy thức ăn mùn bã hữu cơ chiếm 97,75%, các loài tảo chiếm 2,25%. Trong các
loài tảo cá nâu sử dụng, các loài Coscinodiscus, Nitzchia, Lygbia, Closteria và
Navicula chiếm ưu thế. Khi phân tích phát hiện thấy ở đầu ống tiêu hóa các tế bào tảo
chứa đầy nguyên sinh chất nhưng khi phân tích ở phần ruột sau thì hầu hết chỉ còn vỏ
tảo; đối với các loài tảo sợi thì trật tự sắp xếp của các tế bào tảo bị biến đổi và hầu như
lực liên kết giữa chúng hết sức lỏng lẻo điều này cho thấy thành phần thực vật được cá
tiêu hóa tốt [27].

10
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trịnh và ctv (1996) thì cá nâu ăn tạp thiên
về thực vật, trong đó tảo lục Enteromophar và Chaetomophar có tần suất xuất hiện và
khối lượng lớn trong ống tiêu hóa. Thức ăn tự nhiên của cá phụ thuộc rất nhiều yếu tố,
trong đó các yếu tố có tính chất quyết định như cấu trúc ống tiêu hóa, thức ăn trong
môi trường và giai đoạn phát triển của cá. Trên cơ sở giải phẩu hình thái cấu tạo ống
tiêu hóa và kết quả của các tác giả nghiên cứu trong và ngoài nước có thể khẳng định
cá nâu là loài ăn tạp thiên về thực vật [27].
Nguyễn thị Thư (2004) nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng cá nâu phân bố
tại đầm phá Tam Giang - Thừa Thiên Huế. Kết quả cho thấy, ở tất cả các nhóm kích
thước cá nâu khác nhau tỷ lệ chiều dài ruột so với chiều dài thân (RGL) RGL ≤ 1 (thể
hiện tập tính ăn thịt) đều không bắt gặp ở một cá thể nào. Từ đó có thể kết luận cá Nâu
không phải là loài ăn thịt. Ở nhóm cá có kích thước 2 - 5 cm tỷ lệ giữa chiều dài ruột
và chiều dài thân có sự biến động khá lớn. Trong khi tần số xuất hiện tỷ lệ RGL nằm
trong khoảng từ 1 đến 3 (thể hiện tính ăn tạp) chiếm 74,07% thì tần số xuất hiện tỷ lệ
RGL > 3 chỉ chiếm 25,93%. Như vậy, ở nhóm cá có kích thước 2 - 5 cm, cá ăn tạp là
chủ yếu, chỉ một số ít là ăn tạp thiên về thực vật. Đối với nhóm cá có kích thước 5 - 10
cm, tỷ lệ RGL đã có sự thay đổi khá rõ, tần số xuất hiện tỷ lệ RGL nằm trong khoảng

từ 1 đến 3 cho tính ăn tạp chiếm 43,33%, tần số xuất hiện RGL >3 thể hiện tính ăn tạp
thiên về thực vật chiếm 56,67%. Nhóm có kích thước lớn hơn 10 cm, sự thay đổi tỷ lệ
RGL càng thể hiện rõ nét hơn. Tần số xuất hiện RGL > 3 thể hiện tính ăn tạp thiên về
thực vật chiếm 64%, tần số xuất hiện tỷ lệ RGL nằm trong khoảng từ 1 đến 3 cho tính
ăn tạp chiếm chiếm 36%. Qua kết nghiên cứu, có thể kết luận rằng, khi kích thước tăng
dần, cá Nâu chuyển dần từ tập tính ăn tạp sang ăn tạp thiên về thực vật [34]. Cá Nâu ít
chọn lọc thức ăn mà sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau có trong thuỷ vực. Thành
phần thức ăn gồm cả thực vật lẫn động vật. Trong số những loại thức ăn phân tích
được, các ngành tảo chiếm ưu thế hơn về số lượng, còn động vật và mùn bã hữu cơ chỉ
chiếm một phần nhỏ. Điều đó cho thấy, cá Nâu thích ăn thực vật hơn động vật. Thành
phần thức ăn của cá Nâu rất đa dạng, gồm 19 loại đại diện cho 6 nhóm khác nhau (4
ngành Tảo và 2 ngành động vật không xương sống và mùn bã hữu cơ). Trong đó,
ngành Tảo Silic - Bacillariophycophyta chiếm ưu thế về thành phần (11 chi), ngành
Tảo Lam - Cyanophyta có 1 chi, Ngành Tảo Lục - Chlorophyta có 2 chi và ngành Tảo

11
Đỏ - Rhodophycophyta có 2 chi. Trong thành phần thức ăn của cá Nâu còn gặp các đại
diện của 2 ngành động vật không xương sống là ngành Giun đốt - Annelida với đại
diện là lớp giun nhiều tơ và và ngành Chân khớp - Arthropoda đại diện là nhóm giáp
xác chân chèo Copepoda [19; 34].
2.2.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh sản và kỹ thuật sản xuất giống cá nâu
Barry T.P. (1991) nghiên cứu tạo tinh cho cá nâu bằng 17ά- Methytestosterone
trước khi sử dụng LHRHa. Cá đực trưởng thành có chiều dài 12 cm, khối lượng 100-
450 g; cá được đánh bắt ở vùng biển phía nam đảo Panay của Philipines. Tiến hành
thực hiện các thí nghiệm. Thí nghiệm 1: Mẫu cá dùng để sản xuất tinh chia làm 4
nhóm (i) đối chứng (không sử dụng hormone); (ii) sử dụng LHRHa với lượng 10µg;
(iii) sử dụng 17ά- Methytestosterone với lượng 1mg và (iv) 1 mg 17ά- Methytestosterone
+ 10µg LHRHa; mỗi nhóm thí nghiệm có 4 cá thể. Thí nghiệm 2: Đánh giá ảnh hưởng
của hormone HCG lên sự tạo tinh của cá với liều lượng 5 và 10 IU/g; mẫu cá được
chia làm 3 nhóm (i) tiêm HCG với lượng 5 IU/g, (ii) tiêm HCG với lượng 10 IU/g và

(iii) đối chứng chỉ tiêm nước muối sinh lý; liều sơ bộ tiêm 1/3 lượng thuốc vào chiều
tối và liều quyết định tiêm 2/3 lượng thuốc vào lúc 12 giờ sau đó. Kết quả cho thấy tỷ
lệ tạo tinh thu được giữa các nhóm cá ở thí nghiệm 1: (i) đối chứng (không sử dụng
hormone) 36,4%; (ii) 10µg LHRHa 38,1%; (iii) 1 mg 17ά- Methytestosterone 14,3%
và (iv) 1mg 17ά- Methytestosterone + 10µg LHRHa 25,0%. Tuy nhiên, sự sai khác
này không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Ở thí nghiệm 2 lô đối chứng có tỷ lệ
tạo tinh 33,3%; lô HCG 5 IU/g đạt 17,5% và lô HCG 10 IU/g đạt 21,4%. Như vậy, có
thể kết luận HCG hầu như không có tác dụng trong sự kích thích chín và tạo tinh của
cá nâu [40].
Yi Ta Shao và ctv (2004) nghiên cứu sự lưỡng tính của cá nâu qua tổ chức tế bào
học của tuyến sinh dục. Xác định sự phát triển giới tính ở cá nâu được thực hiện trong
2 năm (1999-2000), cá ban đầu được nuôi trong ao có độ mặn 22‰ sau khi đạt kích
thước thành thục đem chia làm 3 nhóm (i) bố trí vào tháng 9 năm 1999 gồm 9 cá thể;
(ii) bố trí vào tháng giêng năm 2000 với 13 cá thể; (iii) bố trí vào tháng 8 năm 2000.
Cá được cho ăn thức ăn công nghiệp. Các chỉ tiêu theo dõi gồm sự lưỡng tính của
tuyến sinh dục và hệ số thành thục của cá. Kết quả cho thấy, ở nhóm 1 và 2 tuyến sinh
dục có sự phân tính đực cái rõ ràng, trong khi đó ở nhóm 3 có xuất hiện cá lưỡng tính.

12
Không có sự phát triển của tuyến sinh dục và tế bào trứng ở cá cái ngay cả trong
những tháng trùng với mùa vụ sinh sản tự nhiên của cá. Như vậy, mật độ nuôi cao,
thức ăn thiếu dinh dưỡng và sự thay đổi độ mặn có ảnh hưởng tới sự phát triển sinh
dục của cá [53]. Mẫu lưỡng tính được tìm thấy ở cá thể có khối lượng lớn hơn cá thể
đực nhưng lại bé hơn cá thể cái; tuyến sinh dục lưỡng tính không thể hiện rõ ràng giữa
tinh sào và noãn sào. Tinh sào chỉ thể hiện rõ ở pha sinh tinh không thể hiện ở pha
noãn bào hóa. Tất cả các mẫu lưỡng tính cá đều có chiều dài trong khoảng từ 15-17,5
cm; ở giai đoạn 1-1,5 tuổi trong vòng đời cá nâu [53].
Nguyễn Thanh Phương và ctv (2004) nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản cá
nâu phân bố tại huyện Ngọc Hiển, Tỉnh Cà Mau. Kết quả cho thấy, cá nâu thuộc nhóm
cá khó xác định giới tính bằng các đặc điểm hình thái bên ngoài. Tuy nhiên, đến mùa

vụ sinh sản có thể phân biệt được đực cái bằng các đặc điểm như (i) cá cái có tuyến
sinh dục phát triển, thường có bụng to hơn cá đực; (ii) nhìn ngang thân cá đực thường
ốm và thon dài hơn cá cái; (iii) xương trán cá đực phát triển và nhô cao hơn con cái và
đặc điểm này phù hợp với nghiên cứu của Barry và Fast (1992) [28; 41].
Cá có hai thời điểm mà hệ số thành thục cao là các tháng 4, 5 và 7, 8. Hệ số thành
thục trung bình của quần thể cao nhất đạt 16,4% và hệ số thành thục cá thể lớn nhất
đạt 27,2%. Như vậy, có thể xác định mùa vụ sinh sản chính của cá nâu vào khoảng
tháng 4, 5 và 7, 8 hàng năm. Sức sinh sản tương đối và tuyệt đối của cá phụ thuộc vào
hệ số thành thục và kích cỡ cá, trong quần đoàn cá nâu thành thục thì cỡ cá cái thường
lớn hơn cá đực. Cá có hệ số thành thục càng cao thì sức sinh sản tuyệt đối càng lớn,
đồng thời ở những cá thể càng lớn thì sức sinh sản càng cao. Sức sinh sản tuyệt đối của
cá nâu rất cao, trung bình 519.547 ± 237.766 trứng/cá cái (dao động từ 215.000-
1.073.733 trứng/cá cái) và sức sinh sản tuyệt đối của cá từ 1.915.579 ± 880.509
trứng/cá cái (dao động từ 891.505 - 3.365.934 trứng/cá cái) [28].
Lý văn Khánh và ctv (2010) nghiên cứu kích thích sinh sản cá nâu (Scatophagus
argus) bằng hormone Ovaprim; LHRH-a và HCG với các liều lượng khác nhau. Cá bố
mẹ thành thục có khối lượng 80-400 g/con đánh bắt từ nguồn tự nhiên. Cá được tiêm
ovaprim với các liều 0,5; 1,0 và 1,5 mL/kg; LHRH-a với các liều 50; 100 và 150 µg/kg
kết hợp với domperidon 5 mg/kg và HCG với các liều 1.000; 1.500 và 2.000 UI/kg.
Mỗi liều của từng loại kích dục tố được tiêm cho 15 cặp cá. Cá được tiêm 2 lần, liều sơ

13
bộ bằng 1/3 tổng liều và sau 24 giờ tiêm liều quyết định bằng 2/3 còn lại. Kết quả cho
thấy tỷ lệ rụng trứng của cá dao động từ 33,3-93,3%, với hormone ovaprim 1,0 mL/kg
cho tỷ lệ cá rụng trứng cao nhất (93,3%). Sức sinh sản tương đối của cá dao động từ
1.150.345-3.115.541 trứng/kg. Thời gian hiệu ứng dao động từ 12,0 – 32,0 giờ. Tỷ lệ
thụ tinh của cá ở liều tiêm 1 mL/kg ovaprim đạt 76,5% khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với các liều còn lại. Tỷ lệ nở của cá ở các nghiệm thức dao động 30,9-
69,5%, cao nhất ở nghiệm thức 1 mL/kg ovaprim. Tóm lại, có thể sử dụng ovaprim với
liều 0,5-1,5 mL/kg hay LHRH-a với liều 50-100 µg/kg để kích thích sinh sản cá

nâu [14].
2.2.4. Nghiên cứu nuôi thương phẩm cá nâu
Nguyễn Hữu Khánh và ctv (2007) đã thử nghiệm nuôi cá dìa (Siganus guttatus),
cá kình (Siganus oramin) kết hợp với cá nâu (Scatophagus argus) và cá đối (Mugil
cephalus) ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghiên cứu tiến
hành với 2 mô hình. Mô hình 1 “Nuôi cá dìa kết hợp với cá nâu và cá đối” được tiến
hành với 3 thí nghiệm ở các mật độ thả cá dìa khác nhau; thí nghiệm 1: cá dìa 0,5
con/m
2
+ cá nâu 0,2 con/m
2
+ cá đối 0,2 con/m
2
; thí nghiệm 2: cá dìa 1 con/m
2
+ cá
nâu 0,2 con/m
2
+ cá đối 0,2 con/m
2
và thí nghiệm 3: cá dìa 1,5 con/m
2
+ cá nâu 0,2
con/m
2
+ cá đối 0,2 con/m
2
. Kích cỡ cá thả: cá dìa 30g/con, cá nâu 40g/con và cá đối
10g/con. Kết quả của mô hình cho thấy, cá có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, sau
thời gian 4 tháng nuôi cỡ cá nâu thu hoạch dao động từ 137-143g/con, tỷ lệ sống của

cá đạt 49,6-60,7%. Sự thay đổi mật độ nuôi của cá dìa trong các thí nghiệm không làm
ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá nâu và cá đối. Năng suất của mô hình đạt được từ
1.051 – 2.036 kg/ha, doanh thu trung bình đạt 19,2-33,25 triệu đồng/ao (2000 m
2
) và
lợi nhuận của mô hình đạt 5,88 – 6,78 triệu đồng [12].
Mô hình 2 “Nuôi cá kình kết hợp với cá nâu và cá đối” được tiến hành với 2 thí
nghiệm ở các mật độ thả cá dìa khác nhau; thí nghiệm 1: cá kình 5 con/m
2
+ cá nâu 0,2
con/m
2
+ cá đối 0,2 con/m
2
; thí nghiệm 2: cá kình 10 con/m
2
+ cá nâu 0,2 con/m
2
+ cá
đối 0,2 con/m
2
. Kích cỡ cá thả: cá kình 6,73g/con, cá nâu 40g/con và cá đối 10g/con.
Kết quả của mô hình cho thấy, cá có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, sau thời gian
4 tháng nuôi cỡ cá nâu thu hoạch dao động từ 136,67-143,33g/con, tỷ lệ sống của cá
đạt 42,3-52,0%. Sự thay đổi mật độ nuôi của cá kình trong các thí nghiệm không làm

14
ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá nâu và cá đối, điều này có thể kết luận cá nâu sinh
trưởng tốt trong ao nuôi cá kình. Năng suất của mô hình đạt được từ 1.265 – 1.830
kg/ha, doanh thu trung bình đạt 16,5-21,63 triệu đồng/ao (2000 m

2
) và lợi nhuận của
mô hình đạt 3,00 - 4,22 triệu đồng [12].
Lý Văn Khánh và ctv (2010) nghiên cứu ương nuôi cá nâu (Scatophagus argus) từ
giai đoạn cá hương lên cá giống ở các mức độ mặn khác nhau (0‰; 5‰; 10‰; 15‰;
20‰; 25‰ và 30‰). Cá giống thí nghiệm được lấy từ nguồn cá sinh sản nhân tạo có
khối lượng trung bình 0,14 g/con (cá 1 tháng tuổi) ương với mật độ 25 con/bể 50 lít.
Cá được cho ăn thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 35%, bể nuôi được sục khí
liên tục. Kết quả cho thấy, sau 1 tháng ương, cá nâu ương ở độ mặn 5‰ tăng trưởng
tốt nhất với khối lượng trung bình 0,91 g/con, tốc độ tăng trưởng đạt 0,026 g/ngày và
tốc độ tăng trưởng đặc trưng 6,22 %/ngày, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so
với các nghiệm thức khác. Cá tăng trưởng chậm ở nghiệm thức 0‰. Tỷ lệ sống trung
bình cao nhất ở nghiệm thức 5‰ (92,8%) khác biệt không có ý nghĩa với nghiệm thức
10‰ (85,5%) nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức độ
mặn còn lại và thấp nhất vẫn là nghiệm thức 0‰ (55,1%). Kết quả cho thấy cá nâu rất
rộng muối và độ mặn tốt nhất cho tăng trưởng và tỷ lệ sống là 5‰ [13].
Nguyễn Quốc Hùng (2010) nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ lên tốc độ sinh
trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766). Đề tại thực hiện
tại Xã Hương Phong, huyện Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên Huế; thí nghiệm bố trí với
các mức mật độ 5, 10 và 15 con/m
2
; trong các giai có thể tích 2 m
3
cắm tại đầm phá
Tam Giang; kích cỡ cá thả (2-3 cm, 5,2g); tiến hành nuôi trong thời gian 80 ngày. Kết
quả cho thấy, tỷ lệ sống cao ở các mật độ 10 con/m
2
(92,78%) và 5 con/m
2
(92,58%).

Thấp nhất ở nghiệm thức mật độ 15 con/m
2
(90,1%). Thời gian đầu của thí nghiệm
hiện tượng cá chết xảy ra ở cả ba mức mật độ, nguyên nhân chết ở thời kỳ này là do
xuất hiện các đợt không khí lạnh, tỷ lệ chết đồng đều ở cả ba mức mật độ, nhưng càng
về sau tỷ lệ chết có xu hướng tăng ở nghiệm thức mật độ 15 con/m
2
. Tuy nhiên, tỷ lệ
sống ở các mức mật độ sai khác có ý nghĩa thống kê (p <0.05). Như vậy, các mức mật
độ nuôi không ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của cá [10].
Cá đạt chiều dài trung bình 5,53 cm; khối lượng trung bình 11,17g. Tốc độ tăng
trưởng khối lượng đạt 0,116 g/ngày đối ở mật độ 5 con/m
2
; ở mật độ 10 con/m
2
đạt

15
0,118 g/ngày và mật độ 15 con/m
2
có tốc độ tăng trưởng thấp nhất chỉ đạt 0,071 g/con.
Qua phân tích phương sai (ANOVA) cho kết quả tăng trưởng giữa các nghiệm thức
mật độ sai khác có ý nghĩa (p<0,05). Như vậy, các mức mật độ có ảnh hưởng tới tăng
trưởng của cá Nâu [10].
2.3. Tình hình khai thác và nuôi cá nâu ở Thừa Thiên Huế
2.3.1. Tình hình khai thác cá nâu ở Thừa Thiên Huế
Hiện nay, sản phẩm cá nâu trên thị trường Thừa Thiên Huế chủ yếu là từ khai
thác tự nhiên. Phương tiện khai thác cá nâu chủ yếu là nghề đáy. Ngoài ra, còn có các
phương tiện khai thác khác như giã cào, rê trôi, lừ Tuy nhiên, qua điều tra ngư dân
những năm gần đây sản lượng cá nâu khai thác được rất ít [19]. Kích thước và sản

lượng khai thác cá nâu phụ thuộc vào mùa vụ, nhóm kích thước lớn hơn 150mm tương
ứng với nhóm tuổi 2
+
, 3
+
, 4
+
chiếm tỷ lệ tương đối cao và đa số đều có trứng. Sản
lượng cao nhất vào các tháng 5, tháng 6 và thấp ở các tháng 11, 12, 1 và 2. Theo ngư
dân trong vài năm trở lại đây, sản lượng cá nâu bị suy giảm nghiêm trọng, chỉ đạt 1-2
kg/lần đánh bắt, thậm chí có khi không có [19].
Theo Dương Thị Nga (2008) khi thu mẫu cá nâu ở khu vực đầm phá Tam Giang
cho thấy cá nâu khai thác hiện nay có kích thước nhỏ (nhóm tuổi 1
+
và 2
+
chiếm
56,8%), rất ít những cá thể có kích thước lớn, thậm chí còn bắt gặp những cá thể có
kích thước còn rất nhỏ (nhóm 0
+
chiếm 10,7% so với tổng số cá thể). Đây là những
con còn non, chưa đến tuổi thành thục sinh dục, cho chất lượng thương phẩm không
cao, mặt khác những cá thể này là nguồn bổ sung quan trọng cho quần đàn bố mẹ
trong thời gian tới cũng bị ngư dân khai thác triệt để, do đó nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi
loài cá này ở vùng đầm phá Tam Giang rất cao. Cần có những giải pháp thiết thực để
bảo tồn và phát triển nguồn gen quý hiếm này [19].
2.3.2. Nuôi cá nâu ở Thừa Thiên Huế
Nuôi cá nâu ở đầm phá Tam Giang đã có từ nhiều năm nay, cá được nuôi với các
hình thức chính quảng canh, bán thâm canh trong lồng và nuôi xen ghép trong ao nuôi
tôm sú. Nguồn giống cá nâu chủ yếu được thu từ nguồn tự nhiên, cá nâu hiện diện

trong ao nuôi tôm như những đối tượng nuôi phụ nhằm cải tạo môi trường ao nuôi,
hiện nay đã có một số ngư dân nuôi đơn cá nâu trong lồng nhưng kỹ thuật nuôi còn
đơn giản, thức ăn chủ yếu dựa vào nguồn rong (Gracilaria sp, Enteromophar sp) tự

×