Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

nghiên cứu bệnh đốm trắng trong nôi tạng cá chim vây vàng (trachinotus blochii lacepède, 1801), nuôi lồng tại vũng ngán, nha trang, khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.42 MB, 75 trang )

1
LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan các kết quả, số liệu nêu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình khoa học nào.



Tác giả

Dương Văn Quý Bình






















2


LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được
sự quan tâm và giúp đỡ của nhiều cơ quan, tập thể, các nhà khoa học và bạn bè đồng
nghiệp.
Trước tiên xin trân trọng cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, Khoa Nuôi trồng Thủy sản,
Ban điều hành dự án SRV2701, Phòng Đào tạo Đại học – Sau Đại học cùng quý thầy cô
trực tiếp giảng dạy trong những năm học vừa qua.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô, PGS-TS Đỗ Thị Hòa về sự tận
tình hướng dẫn, động viên khích lệ và cho tôi những lời khuyên quý báu trong suốt thời
gian tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các quý thầy cô trong Bộ môn Bệnh học Thủy
sản, cùng toàn thể các anh chị em tại Trại sản xuất giống cá biển Bộ môn Hải Sản,
Khoa Nuôi trồng Thủy sản; và các em sinh viên lớp 49 Bệnh học đã giúp đỡ tôi trong
thời gian thực hiện đề tài.
Cuối cùng, là lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi rất
nhiều trong suốt thời gian học tập cũng như nghiên cứu thực hiện đề tài.


Tác giả

Dương Văn Quý Bình









3
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 11
1.1. Đặc điểm sinh học cá chim vây vàng 11
1.1.1 Vị trì phân loại 11
1.1.3 Sinh thái và phân bố của cá chim vây vàng 12
1.2 Tình hình sản xuất giống và nuôi cá CVV trên thế giới và Việt Nam 14
1.2.1 Tình hình trên thế giới 14
1.2.2. Tình hình ở Việt Nam 15
1.4. Tổng quan các loại bệnh khác ở cá đã được công bố có dấu hiệu chẩn đoán là xuất
hiện các hạt đốm trắng trong nội tạng của cá bệnh 21
1.4.1. Những nghiên cứu đã thông báo của thế giới. 21
1.4.2 Những loại bệnh ở cá có xuất hiện các đốm trắng trên nội tạng đã được phát hiện và
công bố ở Việt Nam. 26
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1 Đối tượng, thời gian và địa nghiên cứu 31
2.2 Phương pháp nghiên cứu 31
2.2.1. Số mẫu và phương pháp thu: 31
2.2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu: 32
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu vi khuẩn 32
2.2.4 Phương pháp mô bệnh học (Histopathology method) 36

c. Nhuộm các tiêu bản mô bệnh học. 37
** Nhuộm bằng Hematoxyline và Eosin: 37
** Nhuộm các tiêu bản mô bệnh học theo phương pháp của Ziehl-Neelsen 38
2.2.5 Thí nghiệm cảm nhiễm ngược với chủng vi khuẩn đã phân lập được từ cá bệnh 38
40
Bảng 2.1 Cảm nhiễm ngược chủng VK1 vào cá CVV khỏe ở các mật độ vi khuẩn khác
nhau 41
2.2.6. Phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng 42
2.2.7. Kỹ thuật kính hiển vi điện tử (KHVĐT) 42
4
2.3. Phương pháp xử lý số liệu 42
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 43
3.1. Các dấu hiệu chính của bệnh đốm trắng nội tạng ở cá chim vây vàng (Trachinotus
blochii) nuôi tại Vũng Ngán, trên vịnh Nha Trang. 43
3.3. Nghiên cứu tác nhân gây ra bệnh đốm trắng nội tạng của cá chim vây vàng nuôi tại
Vũng ngán trên vịnh Nha Trang, Khánh Hòa 53
3.3.1. Tác nhân là virus 53
3.3.2. Tác nhân là ký sinh trùng 53
3.3.3. Tác nhân là vi khuẩn 54
3.3.3.1. Phát hiện vi khuẩn trên các tiêu bản phết 54
3.3.3.2. Kết quả phân lập vi khuẩn từ cá bệnh 56
3.3.3.3. Chụp vi khuẩn kháng acid trong mô của cá CVV bị bệnh dưới kính hiển vi iđện tử
truyền qua (TEM) 58
3.3.3.4. Kết quả cảm nhiễm ngược 2 chủng vi khuẩn đã phân lập được vào cá CVV khỏe
59
3.3.3.5. Định dang vi khuẩn bằng các phản ứng sinh hóa truyền thống 64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 66
Kết luận 66
Đề xuất ý kiến 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67


5

DANH MỤC VIẾT TẮT
ctv: cộng tác viên
KIA: Kligle Iron Agar
VK1: chủng vi khuẩn phân lập từ môi trường Ogawa
VK2: Chủng vi khuẩn phân lập từ môi trường tổng hợp
CVV: cá chim vây vàng



DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Xác định và chẩn đoán hiện tượng nhiễm vi khuẩn Nocardia spp ở cá
nuôi tại một số quốc gia châu Á (Labrie &ctv, 2008) 18
Bảng 3.1. Các dấu hiệu chính của bệnh u sần và dị dạng ở cá chim vây vàng đã
quan sát được bằng mắt thường (n=47 con cá bệnh) 44
Bảng 3.2. Một số đặc điểm của 2 loại vi khuẩn đã phân lập được từ cá CVV 59
Bảng 3.3. Các đặc điểm sinh hóa của VK1 phân lập từ cá CVV (Nha Trang) 65
6

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1: Ảnh cá chim vây vàng 4
Hình 1.2: Bản đồ phân bố cá chim vây vàng trên thế giới 5
Hình 1.3: Cá hồng đỏ (Lutjanus erythopterus) bị bệnh nhiễm trùng hệ thống do vi
khuẩn Nocardia spp 11
Hình 1.4: A vi khuẩn N. seriolae bắt mầu Gram (+) dạng sợi phân nhánh khi nhuộm
Gram; B vi khuẩn N. seriolae bắt mầu hồng khi nhuộm Ziehl-

Neelsen.(1000X) 11
Hình 1.5: Biến đổi mô bệnh học trong nội tạng ở cá chim vây vàng (Trachinotus
blochii) bị bệnh Nocardiosis (Nguồn Labrie, 2008) 12
Hình 1.6: Loài cá Larimichthys crocea bị bệnh Nocardiosis với các hạt trắng ở lách,
thận của cá bệnh 15
Hình 1.7: Cá lóc (Ophiocephalus argus ) bị nhiễm bệnh Nocardiosis bộc lộ các hạt
trắng trong thận của cá bệnh 15
Hình 1.8: Mang bết dính và hạt trắng xuất hiện một loại cá đuôi vàng (Seriola) 16
Hình 1.9: Các hạt trắng xuất hiện ở lách ở một loại cá đuôi vàng (Seriola) 16
Hình 1.10: Hình dạng của vi khuẩn Hafnia alvei - trực khuẩn G(-) (ảnh bên trái), có biểu hiện
ký sinh trong các đại thực bào (ảnh bên phải) 20
Hình 1.11: Vi khuẩn Clostridium là trực khuẩn G(+),có nội bào tử (A); có tiên mao (C);
có xâm nhập nội bào (B). 21
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu của đề tài 24
Hình 2.2: Sơ đồ khối mô tả các bước thực hiện khi nghiên cứu tác nhân vi khuẩn từ cá
bệnh 27
Hình 2.3: Quy trình nghiên cứu mô bệnh học ở cá xương 30
Hình 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm cảm nhiễm ngược lên cá chim vây vàng khỏe đợt I
32
7
Hình 3.1: Cá bị bệnh xuất hiện các nốt phồng rộp dưới da, sau một thời gian nốt phồng
vỡ ra tạo ra các thương tổn nhỏ mẫu nâu xám 37
Hình 3.2: Bệnh lý bộc lộ ở mang của cá CVV bị bệnh đốm trắng nội tạng 37
Hình 3.3: Hình ảnh các khối u cột sống được lộ diện khi đã bóc đi phần cơ 38
Hình 3.4. Khối u ở cột sống là cá bệnh bị dị dạng (a); Trên cơ thể của 1 con cá bệnh
có thể cùng lúc xuất hiện nhiều dấu hiệu khác nhau của bệnh: u cột sống, các
nốt phồng rộp ở da và các thương tổn ở mang (b) 38.
Hình 3.5. Các dấu hiệu gặp trong nội tạng của cá CVV bị bệnh: 39
Hình 3.6. Hình ảnh cá chim vây vàng bị bệnh và chết trong các lồng nuôi tại Vũng
Ngán trên vịnh Nha Trang 39

Hình 3.7: Biến đổi mô bệnh học trong tổ chức gan cá CVV bị bệnh đốm trắng nội tạng
41
Hình 3.8: Các biến đổi mô bệnh học ở lách của cá CVV bị bệnh đốm trắng nội tạng
41
Hình 3.9: Biến đổi mô bệnh học ở thận cá chim vây vàng bị bệnh đốm trắng nội tạng
42
Hình 3.10 : Biến đổi mô bệnh học ở vị trí xương xuất hiện khối u (với H &E) 42
Hình 3.11 : Các biến đổi mô bệnh học ở tổ chức của mang cá CVV bị bệnh 43
Hình 3. 12 : Đặc điểm mô bệnh học của cơ ở dưới điểm bị phồng rộp và thương tổn của
cá chim vây vàng bệnh đốm trắng nội tạng 43
Hình 3.13: Các thương tổn dạng hạt được nhuộm bằng phương pháp Ziehl- Neelsen (độ
phóng đại 400x ). Các vật chất kháng acid bắt mầu hồng ở bên trong vùng
thương 44
Hình 3. 14. Một trực khuẩn dạng sợi mảnh, phân nhánh, Gram (+) và có mầu hồng của
Fuchsin khi nhuộm bằng phương pháp Ziehl-Neelsen được phát hiện trên
tiêu bản phết mô của các nội tạng cá CVV bị bệnh. 47
Hình 3.15. Hình dạng khuẩn lạc và tế bào của 2 loại vi khuẩn đã phân lập được từ cá
CVV. bị bệnh. 45
8
Hình 3.16. Vi khuẩn dạng sợi dài, chẻ nhánh, có đốt đã được tìm thấy trong mô của
thận cá CVV bị bệnh đốm trắng nội tạng (Ảnh chụp dưới kính hiển vi điện tử
-TEM): 50
Hình 3.17. Tỷ lệ chết tích lũy của cá cảm nhiễm trong đợt 1 52
Hình 3.18: Dấu hiệu bộc lộ ở cá thí nghiệm sau khi tiêm chủng VK1 vào ổ bụng
(0,1ml/cá ) với liều 10
6
tế bào/ml được 12 ngày 53
Hình 3.19. Tỷ lệ chết tích lũy của cá khi bị cảm nhiễm chủng VK1 ở các huyền dịch có
mật độ vi khuẩn khác nhau 54
Hình 3.20: Kết quả các phản ứng sinh hóa khi ủ ở nhiệt độ 26

o
C trong 7 ngày. 55




















9
MỞ ĐẦU
Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii), có giá trị dinh dưỡng cao, tốc độ sinh
trưởng rất nhanh trong 3 năm đầu, rất thích hợp cho nuôi tăng sản [3]. Cá chim vây
vàng (CVV) là đối tượng nuôi đã đem lại lợi nhuận cao cho nhiều nước trong khu vực
như Trung Quốc, Indonesia, Đài Loan, Nhật Bản… Năm 2006, loài cá này đã được
nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc bởi các nhà khoa học của Trường cao đẳng thủy sản
Bắc Ninh. Từ năm 2009, cá CVV đã và đang được thử nghiệm nuôi và cho đẻ nhân tạo

tại Trường Đại học Nha Trang. Công trình thử nghiệm này bước đầu đã thu được những
thành công trong sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm loài cá này bằng lồng trên
biển đặt tại Vịnh Nha Trang. Con giống của cá CVV đã được cung cấp cho nhiều nông
hộ nuôi thương phẩm tại các tỉnh Nam Trung bộ như Phú Yên, Ninh Thuận và đối
tượng cá biển này đang nhận được sự quan tâm của nhiều người dân nuôi trồng thủy
sản ven biển.
Tuy nhiên, bệnh và tác hại của bệnh luôn là một vấn đề đã và đang gây ra những
khó khăn cho nghề nuôi cá biển nói chung, đặc biệt là cá CVV, đối tượng nuôi mới ở
Việt Nam. Vào tháng 8 năm 2010, cá CVV cỡ 6-10cm đang nuôi trong các lồng tại
Vịnh Nha Trang xuất hiện một dạng bệnh lạ với các dấu hiệu đặc trưng: các nốt phồng
rộp nhỏ dưới da, sau đó vỡ tạo nên các điểm thương tổn nhỏ màu nâu. Mang cá bệnh
tiết nhiều dịch nhày với các vùng thương tổn và các hạt nhỏ màu trắng đục. Một số khối
u xuất hiện trên cột sống, khi khối u lớn làm cột sống bị cong, gây dị dạng cho cá bệnh.
Giải phẫu trong ổ bụng đã quan sát được các hạt trắng nhỏ xuất hiện ở một số nội tạng
như: thận, lách và gan cá bệnh. Khi cá CVV bị bệnh này đã gây chết nhiều cá trong các
lồng nuôi, tỷ lệ chết ở một số lồng lên tới 50% sau 15 ngày phát bệnh. Cho đến năm
2010, vẫn chưa có một nghiên cứu nào về bệnh ở cá CVV ở Việt Nam được công bố.
Do vậy, nghiên cứu bệnh này ở cá CVV để tìm ra tác nhân gây bệnh là yêu cầu của thực
tiễn.


10
Để hoàn thành chương trình đào tạo thạc sỹ ngành Nuôi trồng Thủy sản, tôi đã
được Trường Đại học Nha Trang, Khoa Nuôi trồng Thủy sản cho phép thực hiện đề tài
luận văn cao học: “ Nghiên cứu bệnh đốm trắng trong nôi tạng cá chim vây vàng
(Trachinotus blochii Lacepède, 1801), nuôi lồng tại Vũng Ngán, Nha Trang,Khánh
Hòa”
Mục tiêu của đề tài: Xác định tác nhân gây bệnh đốm trắng ở nội tạng cá chim
vây vàng.
Nội dung của đề tài:

1. Mô tả dấu hiệu chính của cá CVV bị bệnh đốm trắng nội tạng.
2. Đặc điểm mô bệnh học của cá CVV bị bệnh đốm trắng nội tạng.
3. Xác định tác nhân gây bệnh đốm trắng nội tạng ở cá CVV
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
 Ý nghĩa khoa học: Cung cấp các tư liệu mới về bệnh ở cá CVV nuôi và bổ
sung vào danh mục bệnh ở cá biển nuôi tại Việt Nam
 Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài làm cơ sở cho các đề xuất phòng trị
bệnh đốm trắng nội tạng của cá CVV nuôi ở Nha Trang, Khánh Hòa.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng nghiên cứu về bệnh ở cá biển là lĩnh vực khá
mới với bản thân, do vậy luận văn sẽ không tránh khỏi sai sót nhất định. Kính mong
nhận được sự đóng góp ý kiến và lượng thứ của quý Thầy Cô, các anh chị và các bạn
đồng nghiêp.


Học viên thực hiện

Dương Văn Quý Bình




11



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm sinh học cá chim vây vàng
1.1.1 Vị trí phân loại
Ngành : Vertebrata
Lớp : Osteichthyes

Bộ : Perciformes
Họ : Carangidae
Giống : Trachinotus
Loài : Trachinotus blochii Lacepède, 1801
Tên tiếng Anh: Snub-nose pompano
Tên tiếng Việt: Cá chim vây vàng
(Nguồn: trang web của FishBase)
1.1.2 Đặc điểm hình thái
Cơ thể cá CVV hơi tròn, cao, dẹp chính giữa, lưng hình vòng cung. Trên đường
bên vảy sắp xếp khoảng 135 - 136 cái, chiều dài so với chiều cao 1,6-1,7 lần, so với
chiều cao đầu 3,5 - 4 lần, cuống đuôi ngắn và dẹp, đầu nhỏ, chiều cao đầu lớn hơn chiều
dài, môi tù về phía trước. Hai lỗ mũi nằm gần nhau và ở môi trên: lỗ mũi trước nhỏ
hình tròn, lỗ mũi sau to hình bầu dục [3,21,30,39].
Mép phía trước xương nắp mang có dạng hình cung tương đối lớn, mép sau
cong. Xương nắp mang phía sau trơn, màng nắp mang tách rời, mỗi tia mang có 8 – 9
tơ mang ngắn. Đầu và thân có màu trắng bạc, đỉnh đầu có màu xanh xám. Ở những cá
thể trưởng thành thỉnh thoảng có màu vàng cam đặc biệt trên cơ thể nhất là vùng miệng
và nửa sau của thân. Phần đầu không có vảy, cơ thể có nhiều vảy nhỏ dính vào dưới da.
Công thức vây: D.V – VI, I + 18 – 19; A.II, I + 16 – 17; P.I + 17 – 18; G.R 6 – 7 + 8 –
9. Phía trước đường bên có hình cung khá lớn, trên đường bên vảy không có gờ. Vây
lưng thứ 1 hướng về phía trước, gai bằng và có 5 – 6 gai ngắn. Ở cá giống giữa các gai
12
có màng liền nhau, cá trưởng thành màng thoái hóa thành những gai tách rời nhau. Vây
lưng thứ 2 có 1 gai và 19 – 20 tia vây, phần trước của vây kéo dài hình lưỡi liềm. Tia
vây dài nhất gấp chiều dài của đầu 1,2 – 1,3 lần. Vây hậu môn có 1 gai và 17 – 18 tia
vây, phía trước có hai gai ngắn. Vây hậu môn và vây lưng thứ 2 hình dạng giống nhau,
màu cam sẫm. Vây ngực tương đối ngắn, rộng, màu tối đen. Đuôi xẻ thùy, vây đuôi
hình lưỡi liềm. Lưng màu xanh xám, bụng trắng bạc, mình không có vân đen, vây lưng
màu ánh bạc, rìa vây màu tro đen, vây hậu môn hơi vàng, vây đuôi màu tro [21,30,39].








1.1.3 Sinh thái và phân bố của cá chim vây vàng
a. Phân bố địa lý
Theo Borut Forlan (2004), cá chim vây vàng sống ở vùng biển hở và được tìm
thấy ở Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Ở Châu Á, cá chim vây
vàng phân bố ở miền nam Nhật Bản, Indonesia, Trung Quốc và Đài Loan [2]. Những
con cá nhỏ thường được tìm thấy ở vùng biển đáy cát hoặc gần những vùng cửa sông
đáy cát pha đất sét. Ở giai đoạn con giống chúng có xu hướng tập trung theo đàn và dần
tách đi một mình khi đã trưởng thành (Bianchi, G, 1985), các động vật thân mềm trên
cát và động vật không xương sống khác là thức ăn tự nhiên chính cho loài cá này
(Bianchi, G., 1985). Cá chim vây vàng xuất xứ từ Carangida, sống tại những vùng đá
ngầm với mực nước < 7 m (Potonetal, 1989).
Ở Việt Nam, loài cá CVV được tìm thấy ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ, vùng biển
miền Trung và Nam Trung Bộ (Ngô Trọng Lư và cộng sự) [3].


Hình 1.1: cá chim vây vàng

Hình 1.1: Cá chim vây vàng

13















b. Đặc điểm sinh thái:
Cá CVV là loài cá nước ấm, có tập tính di cư, sống ở tầng giữa và tầng trên. Ở
giai đoạn cá giống, hàng năm sau mùa đông thường sống ở vùng vịnh cửa sông, sống
theo đàn. Cá trưởng thành bơi ra vùng biển sâu. Là loài cá rộng muối, ngưỡng chịu
đựng độ mặn trong khoảng 3 – 35 ‰, dưới 20 ‰ cá sinh trưởng nhanh, trong điều kiện
độ mặn cao cá sinh trưởng chậm. Khả năng chịu đựng nhiệt độ tương đối kém, nhiệt độ
thích hợp từ 16 – 36°C, sinh trưởng tốt nhất ở 22 - 28°C. Thông thường hàng năm cuối
tháng 12 đến đầu tháng 3 năm sau là thời kỳ nhiệt độ thấp, cá không ăn thức ăn. Nhiệt
độ dưới 16°C cá chim ngừng bắt mồi, nhiệt độ thấp nhất mà cá chịu đựng được là 14°C.
Nếu 2 ngày liên tục nhiệt độ xuống dưới 14°C cá sẽ chết. Ngưỡng oxy hòa tan thấp mà
cá chịu đựng được là 2,5 mg/l [39].
Cá CVV được nhập vào Indonesia từ Đài Loan, Trung Quốc nhưng nó vẫn được
tìm thấy loài cá này phân bố ở vùng biển Indonesia. Cá có tốc độ sinh trưởng nhanh và
đem lại giá trị thương mại cao nên là một loài có tiềm năng lớn cho nghề nuôi trồng
thủy sản ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Anony Mous, 2007) [21.30].
Hình 1.2: Bản đồ phân bố cá chim vây vàng trên thế giới
(
Ph
ần chấm đỏ l
à khu v

ực cá phân bố
) [3]

14
1.2 Tình hình sản xuất giống và nuôi cá CVV trên thế giới và Việt Nam
1.2.1 Tình hình trên thế giới
Tại Đài Loan, Lâm Liệt Đường (1986) đã thu gom 126 con cá chim vây vàng
loại nhỏ, loại vừa và lớn nuôi chung với nhau để tạo đàn cá bố mẹ. Đến năm 1989, tác
giả bắt đầu thử nghiệm cho sinh sản loài cá này trong điều kiện nhân tạo, trong 5 lần
tiêm kích dục tố, thì có 4 lần cá CVV đã đẻ trứng và thụ tinh thành công, thu được trên
900 vạn trứng, tỷ lệ thụ tinh khoảng 56%. Qua nhiều hình thức thực nghiệm ương nuôi,
nhóm nghiên cứu đã thu được 38,6 vạn giống kích cỡ 2 – 3cm. Đây là công trình đầu
tiên cho cá CVV sinh sản nhân tạo thành công. Đến năm 1991, quy trình sinh sản nhân
tạo loài cá này đã khá hoàn thiện [3,39,30](Lê Phúc Tổ, 2005).
Năm 1993, Trung tâm chuyển giao công nghệ thuộc Trường Đại học Trung Sơn
đã kết hợp với Trại Nghiên cứu giống Thủy sản Quảng Đông – Trung Quốc cho sinh
sản nhân tạo thành công cá CVV ở quy mô nhỏ, ương nuôi cá bột trong các bể xi măng.
Năm 1998, trung tâm này đã kết hợp với Công ty trách nhiệm hữu hạn giống thủy sản
Tháng Lợi – Hải Nam – Trung Quốc cho cá CVV sản xuất giống nhân tạo thành công
trên quy mô lớn, ương nuôi cá bột trong các ao đất [21,30].
Tại Indonesia, Trung tâm phát triển nuôi biển ở Batam (Nur. Muflich Juniyanto,
Syamsul Akbat and Zakimi) đã thành công trong việc sản xuất giống nhân tạo cá chim
vây vàng vào năm 2008. Việc con giống loài cá này được sản xuất nhân tạo đã làm
giảm áp lực khai thác giống cá CVV ngoài tự nhiên. Quy trình sản xuất giống cá CVV
tại Indonesia đã đạt tỷ lệ đẻ 60% -70%; tỷ lệ nở đạt 65% - 75% và tỷ lệ sống của ấu
trùng đạt 20% - 25% [30].
Hsiang Pin Lan & ctv. (2007), đã tiến hành thử nghiệm so sánh ảnh hưởng của 2
loại thức ăn có nguồn protein khác nhau đến tình trạng sức khỏe và tốc độ sinh trưởng
của cá CVV nuôi trên biển, ở phía nam của đảo Hải Nam,Trung Quốc với mật độ
96con/m

3
, trong các lồng 100m
3
. Kết quả thí nghiệm đã chứng minh rằng không có sự
khác biệt có ý nghĩa về sinh trưởng, tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở cá
chim vây vàng khi nuôi bằng loại thức ăn có chứa 45% protein từ bột cá và loại thức ăn
có tỷ lệ protein tương đương nhưng chỉ có 16% từ bột cá, phần protein còn lại được bổ
15
sung từ bột đậu nành. Sau 3 tháng nuôi, cá đạt kích thước hơn 600 g/con, tỷ lệ sống
99% và hệ số FCR= 2,51-2,59 [30].
1.2.2. Tình hình ở Việt Nam
Năm 2006, Trại Nuôi trồng Thủy sản thực nghiệm của Trường Cao Đẳng Thủy
sản Bắc Ninh tại Yên Hưng – Quảng Ninh đã nhập công nghệ sản xuất giống cá chim
vây vàng từ Trung Quốc. Việc di nhập đàn cá bố mẹ và cho đẻ tại Yên Hưng đã khá
thành công: tỷ lệ cá đẻ trung bình giữa các đợt là 87,5%, tỷ lệ thụ tinh trung bình 60%,
tỷ lệ nở trung bình 80%, tỷ lệ sống từ cá bột lên cá hương trung bình đạt 30% và đã sản
xuất được 65 nghìn con giống cỡ 4 – 6 cm [3].
Năm 2009, Khoa Nuôi trồng Thủy sản thuộc Trường Đại học Nha Trang bắt đầu
thử nghiệm sản xuất giống nhân tạo loài cá CVV tại Nha Trang, Khánh Hòa. Cá bố mẹ
được nuôi vỗ tại các lồng đặt tại cơ sở thực nghiệm ở Vũng Ngán, trên vịnh Nha
Trang. Tại đây, cá bố mẹ thành thục và đẻ trứng, sau đó trứng được thu về ấp và ương
cá giống trong các bể xi măng tại trại Sản xuất giống cá Biển, tại phường Vĩnh Hòa,
Nha Trang.
Mặc dù, đến nay đề tài sản xuất giống cá CVV của Khoa nuôi trồng Thủy sản
chưa kết thúc, nhưng đã có một số lượng con giống là sản phẩm của đề tài này được
nuôi trong lồng tại trại thực nghiệm Vũng Ngán và cung cấp cho một số hộ nuôi ở vùng
ven biển từ Phú Yên đến Ninh thuận. Cá CVV được các hộ nuôi dưới 2 hình thức là
nuôi lồng ngoài biển và nuôi trong ao đất. Theo phỏng vấn từ những người nuôi thì cá
có tốc độ sinh trưởng và phát triển nhanh, tỷ lệ sống tương đối cao. Tuy nhiên vào
những tháng giao thời giữa mùa khô và mùa mưa (khoảng tháng 7-8 dương lịch) cá

nuôi trong lồng ở Vũng Ngán, Đầm Môn và cá nuôi trong ao đất ở Cam Ranh bị chết
rải rác với tỷ lệ chết tích lũy lên tới 80%. Những con cá bị bệnh đã bộc lộ các dấu hiệu
bên ngoài như xuất hiện các nốt phồng nhỏ dưới da, sau đó các nốt phồng này vỡ ra,
trên cột sống cũng xuất hiện các khối u, đôi khi làm cơ thể cá cong dị dạng. Tuy nhiên,
cho đến năm 2010, lĩnh vực nghiên cứu về bệnh ở cá CVV của Việt Nam còn bỏ ngỏ.

16
1.3 Những loại bệnh đã được phát hiện ở cá chim vây vàng (cá CVV) nuôi và các
loại cá chim khác thuộc giống cá Trachinotus spp
Theo nghiên cứu của Main & ctv. (2007), khi nghiên cứu trên cá bố mẹ và cá
giống nuôi ngoài tự nhiên của loài cá chim Trachinotus carolinus đã phát hiện một
giống tiên mao trùng -Amyloodinium ký sinh ở mang của loài cá này và khi cảm nhiễm
với cường độ cao có thể gây chết nhiều cá.
Kết quả nghiên cứu Johnson & ctv. (1996), Neilson & ctv. (1987) và Hewitt
(1971) về các loài giáp xác ký sinh trên động vât thủy sản, cho thấy có nhiều loài giáp
xác bậc thấp ký sinh dài ngày trên các ký chủ như cá và chúng tác động đến sinh
trưởng, khả năng sinh sản và gây tỷ lệ chết cao của các loài cá nuôi. Với sự phát triển
của hệ thống nuôi bán thâm canh và thâm canh ở các vùng nước lợ và nuôi biển, những
bệnh do tác nhân là giáp xác ký sinh trở càng lên nghiêm trọng.
Ở Trung Quốc, phía nam Hàn Quốc và Đài Loàn, bệnh cá đã bùng phát do một
loài giáp xác ký sinh là Caligus spp trên cá măng biển (Chanos chanos), rô phi vằn
(Oreochromis mossambicus) và cá mú nghệ (Epinephelus awoara), cá chẽm (Lates
calcarifer) và cá chim vây vàng (Trachinotus blochii) [Lavinia, 1977; Jones, 1980; Lin
and Ho, 1993, 1998; Lin & ctv. 1994, 1996, 1997; Choi & ctv., 1995; Wu and Pan,
1997; Ho, 2000] . Một số loài khác nhau của giống Caligus đã được tìm thấy bao gồm
Caligus acanthopagri, C. epidemicus, C. orientalis, C. patulus, and C. rotundigenitalis
(Ho 2000) [20,40,42-47,60].
Năm 2010, Lee & ctv đã có báo cáo về tác nhân vi khuẩn gây bệnh phân lập từ
cá chim vây vàng (Trachinotus blochii) và nghiên cứu đến khả năng chống chịu với
hàm lượng kim loai nặng trong môi trường nước của loài cá này. Nhiều loài môi trường

vi sinh đã được dùng cho nghiên cứu này như: 5% of Horse Blood agar (HBA), Tryptic
Soy Agar (TSA), Mac Conkey, Thiosulphate Citrate Bile Salt (TCBS), Eosin
Methylene Blue (EMB), Glutamate Starch Pseudomonas (GSP), Xylose Lysine
Deoxycholate (XLD). Các chủng vi khuẩn được phân lập được đã được xác định các
phản ứng sinh hóa thông thường và có sử dụng thêm bộ kis để định danh vi khuẩn. Đã
có một số loài vi khuẩn được phân lập từ 50 mẫu cá chim vây vàng (Trachinotus
17
blochii) bị bệnh, như Streptococcus spp. (n = 12), Escherichia coli (n = 30), Salmonella
spp. (n = 20), Pseudomonas spp. (n = 36), and Vibrio spp. (n = 50) [41].
Kỹ thuật kháng sinh đồ cũng đã được thực hiện với 21 loại kháng sinh trên các
chủng vi khuẩn đã phân lập được bằng phương pháp khuyếch tán trên đĩa thạch. Với 21
loại thuốc kháng sinh được dùng [41].
Lee & ctv cũng đã thử nghiệm tác dụng của các loại ion kim loại nặng lên các
chủng vi khuẩn đã phân lập được bằng phương pháp pha loãng 2 lần trên đĩa thạch. Kết
quả thí nghiệm đã chứng minh rằng các loài vi khuẩn này đều kháng với hầu hết các
kim loại nặng đã đưa vào thử nghiệm như: thủy ngân (Hg
2+
), cadimi (Cd
2+
), crom
(Cr
6+
), nhưng lại nhạy cảm với đồng (Cu
2+
) [41].
Labrie & ctv, 2008 đã tổng hợp những nghiên cứu gần đây cho thấy, có một
bệnh nhiễm vi khuẩn hệ thống rất thường xuyên xuất hiện và gây tác hại cho cá CVV
và một số loài cá khác nuôi ở khu vực châu Á, đó là bệnh nhiễm khuẩn Nocardiosis
(Bảng 1.1).
18

Bảng 1.1. Xác định và chẩn đoán hiện tượng nhiễm vi khuẩn Nocardia spp ở
cá nuôi tại một số quốc gia châu Á (Labrie &ctv, 2008)
Tên quốc
gia đã NC
Số
mẫu
NC
Tên loài
cá bị bệnh

Tên khoa
học của cá
Cơ quan
đã phân
lập được
Nocardia

Khối lượng
cá đưa vào
NC (g/con)

Thời gian
NC
Malaysia 10 Cá chim
vây vàng
Trachinotus
blochii
Thận,
gan, não,
lách

15-200 12/2001-
10/2005
4 Cá hồng
đỏ
Lutjanus
eryhtropterus
nt 25-180 10/2005
1 Cá hồng
bạc
Lutjanus
argentimacul
atus
nt 100-150 7/2003
1 Cá mú Epinephelus
fuscoguttatus
nt 8-10 7/2003
Trung
quốc và
Singapore
14 Cá chim
vây vàng
Trachinotus
blochii
Mang,
thận, gan
và lách
60-500 8/2003-
11/2005
3 Cá hồng
đỏ

Lutjanus
eryhtropterus
nt 45-70 11/2005
3 Cá mú
xanh
Epinephelus
coicoides
nt 11-40 8/2003
Indonesia 4 Cá rô phi Oreochromis
sp
Gan,
lách và
thận
200-700g 2005-
2006

Nhóm nghiên cứu này đã nhận xét rằng, cá CVV là loài rất mẫn cảm với bệnh
Nocadiosis, bệnh này gây ra do một số loài khác nhau thuộc gống vi khuẩn Nocardia
spp. Vi khuẩn Nocardia spp được mô tả là trực khuẩn dạng sợi, phân nhánh, Gram(+)
và kháng acid. Vi khuẩn này đã được phân lập từ não, mang, gan, lách và thận của cá
CVV bị bệnh thu từ nhiều quốc gia khác nhau như: 10 mẫu ở Malaysia, 14 mẫu ở
Trung Quốc và Singapore. Bệnh Nocardiosis ở cá CVV và một số loài cá khác đã được
mô tả các dấu hiệu chính như sau: Một số nốt thương tổn xuất hiện ở da, mang và một
số nội tạng như gan, lách và thận xuất hiện các hạt trắng làm bụng cá trướng to.


19

























Từ cá bị bệnh, các tiêu bản phết đã được thực hiện với bệnh phẩm thu từ mang
và nhiều nội tạng khác nhau của cá bệnh và một loại vi khuẩn dài, phân nhánh, gram
dương, kháng acid đã được phát hiện trong mô của mang, gan, lách và thận cá bệnh.
Tuy nhiên, nhóm tác giả này cho biết chỉ có 55% trường hợp phân lập được vi khuẩn
này mặc dù các dấu hiệu bệnh lý thường biểu hiện giống nhau ở tất cả những trường
Hình 1.3: Cá hồng đỏ (Lutjanus erythopterus) bị bệnh nhiễm trùng hệ thống do vi
khuẩn Nocardia spp
a. Các hạt trắng tồn tại trong lách cá bị bệnh do vi khuẩn Nocardia;
b. Phồng rộp và xuất huyết ở đuôi cá bị nhiễm Nocardia

(

nh c
ủa Labrie, 2008
)

Hình 1.4 : A vi khuẩn N. seriolae bắt mầu Gram (+) dạng sợi phân nhánh khi nhuộm
Gram; B vi khuẩn N. seriolae bắt mầu hồng khi nhuộm Ziehl-Neelsen.(1000X)
(Ảnh của Labrie, 2008)
20
hợp. Bằng phương pháp mô học truyền thống kết hợp với thực hiện các phản ứng sinh
hóa, các tác giả đã xác định được tác nhân gây ra loài bệnh này ở nhiều loài cá như cá
CVV (Trachinotus blochii , cá hồng đỏ (Lutjanus erythopterus), cá mú là 2 loài vi
khuẩn Nocardia seriolae và N. asteriodes. Bằng thí nghiệm cảm nhiễm chủng vi khuẩn
Norcadia seriolae vào cá đuôi vàng khỏe, các nhà khoa học đã chứng minh rằng
Nocardia seriolae là tác nhân chính gây bệnh Nocardiosis ở các loài cá này. Theo nhóm
tác giả này, cá CVV nuôi ở nhiều quốc gia thuộc khu vực châu Á như Trung Quốc,
Malaysia, Singapore và Indonesia đều rất mẫn cảm với bệnh Nocardiosis [38].
Khi nghiên cứu về mô bệnh học ở các mẫu cá bị bệnh Nocardiosis, Kariya &
ctv.(1968); Austin và Austin (1999) thông báo rằng, bệnh nhiễm trùng hệ thống do vi
khuẩn Nocardia spp đã được đặc trưng bởi việc hình thành các vùng áp-xe ở biểu bì và
u hạt ở mang, gan, thận và lá lách của cá bệnh [38].



















Hình 1.5. Biến đổi mô bệnh học trong nội tạng ở cá chim vây vàng
(Trachinotus blochii) bị bệnh Nocardiosis (Nguồn Labrie, 2008)
a. Thương tổn dạng u hạt trong thận của cá bệnh với thuốc nhuộm
Modified Ziehl Neelsen (File Faraco-FF), lưu ý rằng vật chất kháng acid
tập trung ở vùng trung tâm của u hạt (màu hồng)
b. Các thương tổn dạng u hạt quan sát được trong mô tim của cá chim vây
vàng bị bệnh với thuốc nhuộm FF.
a

b

21
1.4. Tổng quan các loại bệnh khác ở cá đã được công bố có dấu hiệu chẩn đoán là
xuất hiện các hạt đốm trắng trong nội tạng của cá bệnh
1.4.1. Những nghiên cứu đã thông báo của thế giới.
Trong số các bệnh nhiễm khuẩn ở cá đã được công bố, có nhiều loại bệnh khác
nhau nhưng có chung biểu hiện bệnh lý giống như các mô tả về bệnh đốm trắng xuất
hiện trong nội tạng của cá CVV do cảm nhiễm vi khuẩn Nocardia đã trình bày ở mục 1.
Kudo & ctv.(1988) cho rằng bệnh Nocardiosis là một trong những bệnh quan
trọng nhất đã ảnh hưởng đến nghề nuôi cá đuôi vàng (Seriola quinqueradiata) ở Nhật

Bản. Tác nhân gây ra bệnh này là loài vi khuẩn Nocardia seriolae, một trực khuẩn
Gram dương, hình kháng axít và không di động [34].
Itano và Kawakami. (2002), đã kiểm tra độ nhạy kháng sinh của chủng vi khuẩn
Nocadia seriolae gây bệnh ở cá đuôi vàng cho thấy, Erythromycin (EM) có độ nhạy cao
với loài vi khuẩn này. Trong khi đó những kháng sinh khác như spiramycin (SPM),
chloramphenicol (CP), oxolinic acid (OX), và sulfamonomethoxine (SMM) lại bị vi
khuẩn này kháng [28,29].
Tuy nhiên, sự kiểm soát bệnh Nocardiosis ở cá nuôi vẫn có khả năng thực hiện
được nếu như có một lại vaccine hiệu quả được phát triển, để chống lại vi khuẩn gây
bệnh này. Kusuda và Nakagawa (1978) đã thử nghiệm một loại vaccine chống lại sự lây
nhiễm của N. seriolae. Các tác giả này đã xem xét mức độ hình thành kháng thể đặc
hiệu trong huyết thanh thông qua khả năng gây ngưng kết của huyết tương cá đã được
chủng ngừa bởi các tế bào vi khuẩn N. seriolae được bất hoạt bởi formalin (FKC) hoặc
được bất hoạt bởi nhiệt (HK). Kết quả cho thấy mức độ gây ngưng kết của huyết thanh
ở cá được chủng ngừa tăng hơn 1000 lần so với cá không chủng ngừa [36].
Mặt khác Shimahara & ctv. (2005), đã công bố rằng, cá đuôi vàng được chủng
ngừa với FKC hay hỗn hợp FKC với tá dược Freund không hoàn toàn (FKC-FIA) đã
không cho thấy khả năng bảo vệ nào sau khi bị cảm nhiễm vi khuẩn Nocardia, mặc dù
họ đã quan sát được sự gia tăng của hàm lượng kháng thể trong huyết thanh [55].
Mới đây, Salonius & ctv. (2005), đã xem xét tính hiệu quả của nhiều dòng
Nocardia khác nhau như là vaccine sống, để chống là bệnh Nocardiosis gây ra ở cá đuôi
22
vàng. Thêm vào đó, tác giả cũng tìm hiểu khả năng sống sót của cá được tiêm vaccine
sống sau đó bị cảm nhiễm bởi vi khuẩn N. seriolae [54].
Năm 2006, Itano & ctv đã nghiên cứu hiệu quả của vaccine sống từ các chủng vi
khuẩn N. soli, N. fluminea, N. uniformis tiêm vào cá đuôi vàng (Seriola quinqueradiata.
Để chống lại bệnh do Nocarsia seriolae gây ra ở cá đuôi vàng. Kết quả cho thấy loại
vaccine này có hiệu quả sinh ra các kháng thể chống lại bệnh do vi khuẩn Nocardia
serolae gây ra [29].
Năm 2005, Wang & ctv đã nghiên cứu bệnh do loài vi khuẩn Nocardia sp gây ra

ở loài cá có tên khoa học là Larimichthys crocea, nuôi tại Trung Quốc. Trong 16 tháng
nghiên cứu từ tháng 8 năm 2003, tác giả đã bắt gặp hiện tượng chết ở loài cá này
(Larimichthys crocea), cá bệnh có kích thước 25 – 30 cm. Các dấu hiệu bệnh lý trên cá
bệnh đã được mô tả là tương tự như dấu hiệu của bệnh Nocardiosis đã được mô tả ở cá
CVV. Đó là: xuất hiện các vết lo loét trên da và có các hạt trắng trong nội tạng cá. Các
hạt trắng có kích thước từ 0,1 – 0,2 cm nằm ở các cơ quan như thận, lách, và gan. Kết
quả phân lập trên môi trường TSA và quan sát trên tiêu bản lam nhuộm Lowenstein–
Jensen trên kính hiển vi quang học thấy vi khuẩn ở dạng sợi mảnh và phân nhánh. Tiến
hành thí nghiệm cảm nhiễm với chủng vi khuẩn đã phân lập được thấy tỷ lệ chết tích
lũy là 100%, sau đó phân lập lại xác định đó chính là tác nhân gây bệnh ở loài cá này.
Khi tiến hành chạy giải trình tự DNA và làm các phản ứng sinh hóa thông thường, các
tác giả đã xác định được vi khuẩn gây bệnh có trình tự DNA giống với vi khuẩn
Nocardia seriolae đến 99,9%. Và đây cũng là báo cáo đầu tiên nghiên cứu bệnh
Nocardiosis trên loài cá này (Larimichthys crocea) Hình 1.5 [57, 58].







23













Theo Wang & ctv. (2007), một loại bệnh đã xảy ra ở cá lóc (Ophiocephalus
argus Cantor) nuôi trong ao tại Trung Quốc. Tác nhân gây bệnh được xác định là do
vi khuẩn Nocardia sp gây ra. Bệnh này đã gây ra tỷ lệ chết tích lũy trong 30 ngày là
35% (180.000 trong tổng số 500.000 con) ở đàn cá đã ở kích cỡ lớn (30 – 35cm) và đã
nuôi được 18 tháng. Nhiều u hạt trắng có đường kính từ 0,1 – 0,5cm đã được tìm thấy
trong các nội quan của cá bệnh như: thận, lách và gan. Bệnh phẩm đã được phân lập vi
khuẩn trên môi trường Ogawa (môi trường trứng gà) và môi trường TSA ở nhiệt độ
26
0
C sau 5-7 ngày khuẩn lạc của loại vi khuẩn dạng sợi, nhỏ dài, phân nhánh, Gram (+)
đã được phát hiện. Khi dùng chủng vi khuẩn này để cảm nhiễm ngược trở lại cá lóc
khỏe đã gây chết cá sau một tuần cảm nhiễm. Bằng kỹ thuật sinh học phân tử (PCR) các
tác giả đã công bố rằng chủng vi khuẩn gây bệnh ở đàn cá lóc này có cấu trúc gen
tương tự (99,9%) như loài vi khuẩn Nocardia seriolae. Đây là thông báo đầu tiên về
bệnh Nocardiosis ở cá lóc (hình 1.6) [58].




Hình 1.7: Cá lóc (Ophiocephalus
argus ) bị nhiễm bệnh Nocardiosis
bộc lộ các hạt trắng trong thận của
cá bệnh (Ảnh của Wang, 2007)
Hình 1.6: Loài cá Larimichthys crocea
bị bệnh Nocardiosis với các hạt trắng
ở lách, thận của cá bệnh

(Ảnh của Wang, 2005)
24











Theo kết quả nghiên cứu Sheppard & ctv. (2010), bệnh do tác nhân vi khuẩn
Nocardiosis gây ra. Cá bệnh thường xuất hiện các dấu hiệu bệnh lý như: xuất hiện các
nốt phồng rộp lở loét trên thân, và các u xương dọc theo xương sống. Một số cá xuất
hiện các đốm trắng nhỏ trong nội tạng cá như gan, thận, lách và đường kính của hạt
trắng dao động trong khoảng 1-2 mm. Các hạt trắng này đôi khi còn bắt gặp trên màng
treo ruột và bóng hơi [56].
Trên cá hồi nuôi ở châu Âu, Bệnh Piscirickettsiosis gây ra bởi loài vi khuẩn
Piscirickettsia salmonis, một vi khuẩn gram âm, ký sinh nội bào bắt buộc, không thể
nuôi cấy trên môi trường tổng hợp, là vi khuẩn có nhiều hình dạng như hình cầu, hình
nhẫn, thường kết cặp. Vi khuẩn này được xếp vào nhóm gamma – proteobacteria thuộc
họ Piscirickettsiaceae. Bệnh này được thông báo xảy ra ở các loài cá thuộc họ cá hồi
(Samonideae) nuôi ở nhiều nơi trên thế giới như Chile, Ireland, Norway, Canada và có
thể gây chết tích lũy 10-90%. Cá hồi khi bị bệnh Piscirickettsiosis thường thể hiện một
số dấu hiệu chính như: xuất hiện những vết loét nông có xuất huyết hay một số điểm
trắng trên da, bụng sưng, giải phẫu nội tạng cho thấy lá lách và thận sưng to, gan có
nhiều u hạt trắng. Tuy nhiên, những u hạt màu trắng này không thấy được mô tả trên
thận và lá lách [52, 54].

Hình 1.8: Mang bết dính và hạt
trắng xuất hiện một loại cá đuôi
vàng (Seriola)
(Ảnh của Sheppard 2010)

Hình 1.9: Các hạt trắng xuất hiện
ở lách ở một loại cá đuôi vàng
(Seriola)
(Ảnh của Sheppard 2010)

25
Bệnh viêm thận do vi khuẩn (Bacterial kidney disease) gây ra bởi Renibacterium
salmoninarum – một vi khuẩn hình que ngắn hơi tròn (Coccobacillus) 0,5-1µm, Gram (-),
không sinh bào tử, không vận động, được xem là vi khuẩn có đời sống ký sinh bắt buộc
nên rất khó nuôi cấy trên môi trường tổng hợp, sau 3 tuần nuôi cấy ở 15-18
o
C mới mọc
thành khuẩn lạc màu trắng kem đường kính 2mm. Bệnh này có thể xảy ra trên cả cá hồi
nước ngọt và nước mặn (Oncorhynchus spp, Salmo sp). Giải phẫu cá bệnh cho thấy
thận, đôi khi cả gan và lá lách có hiện tượng sưng và xuất hiện các thể hạt màu trắng,
kem [51].
Giống Mycobacterium spp là vi khuẩn Gram (+), hình que, kháng acid cũng
được thông báo là tác nhân gây bệnh cho 151 loài cá nước ngọt và nước mặn (Nigrelli
và Volgel, 1963). Cá bị bệnh này cũng đã được mô tả với biểu hiện có các u dạng hạt
trắng xám ở trong hoặc trên các nội tạng đã bị sưng to như gan, thận và lá lách [5].
Ngoài vi khuẩn, ký sinh trùng thuộc nhóm thích bào tử trùng (Myxobolidae) khi
ký sinh ở các cơ quan nội tạng như gan, thận, lá lách của cá cũng tạo nên những đốm
trắng với nhiều kích thước khác nhau. Những đốm trắng này khi ép vỡ sẽ chảy ra dịch
trắng sữa, kiểm tra bằng kính hiển vi cho thấy dày đặc bọn ký sinh trùng này.
Edwardsiella tarda là vi khuẩn gây bệnh Edwardsiellosis, còn có một số tên gọi

khác cho vi khuẩn này là E. anguillimontifera, Paracolobactrum anguillimontifera.
Đây là vi khuẩn có thể gây bệnh trên nhiều loài khác nhau bao gồm cả động vật máu
lạnh, máu nóng, và người. Ở các loài cá khác nhau bệnh gây ra những dấu hiệu bệnh lý
không giống nhau. Khi cá nheo Mỹ (Ictalurus sp) bị bệnh gây ra do Edwardsiella
tarda có bộc lộ những đốm trắng nhỏ trên da ở phần đuôi, từ đó vết thương tổn có thể
tạo thành vết loét sâu vào trong cơ, kèm theo hiện tượng xuất huyết hoại tử lỏng với
mùi hôi đặc trưng do vi khuẩn có khả năng sinh H
2
S tạo ra. Tuy nhiên, ở cá trình nhật
bản (Anguilla japonica) khi bị bệnh này lại thường gây ra những u hạt sáng màu trong
các cơ quan nội tạng. Những u hạt màu trắng chứa đầy vi khuẩn xuất hiện ở mang, thận,
gan, lá lách của loài cá striped bass do nhiễm khuẩn Edwardsiella tarda cũng đã được
mô tả [22].

×