CNTT_C
B
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về dạy
và học. Với quan niệm thông thường dạy thế
nào thì học thế ấy nên khái niệm dạy sẽ kéo
theo khái niệm học.
Có quan niệm cho rằng dạy học là một
nghề trong xã hội hay dạy học là hoạt động
của thày giáo trên lớp. Cũng có quan niệm
cho rằng có việc học mới cần đến việc dạy
nên nhu cầu và cách học sẽ quyết định quá
trình dạy. Các quan niệm này đều nói về vai
trò của người giáo viên. Các quan niệm như
thế đều không đầy đủ. Khái niệm dạy, học
được tâm lý học sư phạm, giáo dục học đề cập
đến đến như những khái niệm xuất phát của
tâm lý học sư phạm và giáo dục của nhà
trường. Lịch sử văn hoá phương Đông thường
coi Khổng Tử là học giả đầu tiên của giáo
dục. Theo Nguyễn Văn Tiến: “Khổng Tử là
người đầu tiên đưa ra phương pháp giáo dục
khoa học Cách dạy của ông là gợi mở để
người học suy nghĩ, chứ không phải là giảng
giải nhiều lời”.
Có quan niệm cho rằng học là thu nhận
kiến thức của nhân loại và mục đích của việc
học là để “khai trí tiến đức” như cố nhân đã
dạy (Giáo Sư Nguyễn Ngọc Quang- bài Bản
chất quá trình dạy học - sách GD học đại học
- Hà Nội 2000). Quan niệm học đó sẽ tương
ứng với khái niệm “dạy là truyền thụ kiến
thức mà nhân loại đã tích luỹ được”. Ngoài ra
còn rất nhiều các quan niệm khác về quá trình
dạy và học. Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang
đã viết “học là quá trình tự giác, tích cực, tự
lực, chiếm lĩnh khái niệm khoa học (nội dung
học) dưới sự điều khiển sư phạm của giáo
viên. Trong quan niệm này chúng ta thấy rõ
học mà chỉ ghi chép những gì giáo viên nói thì
không phải là học, học phải tích cực, tự giác,
tự lực nếu không thì quá trình học sẽ không có
kết quả. Như vậy học là một hoạt động với đối
tượng, trong đó học sinh là chủ thể, khái niệm
khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Cũng
theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang:“Dạy là sự
điều khiển tối ưu hoá quá trình người học
chiếm lĩnh nội dung học, trong và bằng cách
BẢN CHẤT CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
VÀ MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA DẠY HỌC ĐẠI HỌC
ThS. PHẠM THỊ THU THUỶ
Bộ môn Anh văn
Khoa Khoa học cơ bản
Trường Đại học Giao thông Vận tải
Tóm tắt: Bài báo này trình bày tóm tắt bản chất của quá trình dạy học thông qua một số
quan niệm về dạy và học cũng như mối quan hệ giữa dạy và học để tạo thành một hệ thống
toàn vẹn ở đó các thành tố luôn tương tác với nhau, quy định lẫn nhau để tạo nên để tạo nên
một sự thống nhất biện chứng. Bài báo cũng đề cập đến một số nét đặc trưng của dạy học đại
học bao gồm mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, người dạy, người học cũng như phương
pháp dạy học ở bậc giáo dục đại học.
Summary: This article briefly presents the nature of teaching process via some teaching
and learning opinions as well as their relations to form a complete system where all elements
are interacted and defined each other to become a dialectical inity. The article also mentions
some typical features in tertiary teaching including the aim and content of training, teachers,
lerners as well as teaching method in tertiary education.
đó phát triển và hình thành nhân cách (năng
lực, phẩm chất)”. Nhân cách ở đây được hiểu
là tri thức, kĩ năng và thái độ.
Từ khái niệm dạy và học sẽ đưa tới khái
niệm dạy học. Dạy học là hai mặt của một quá
trình luôn luôn tác động qua lại, bổ sung cho
nhau, quyết định lẫn nhau thông qua hoạt
động cộng tác nhằm tạo cho người học khả
năng phát triển trí tuệ, góp phần hoàn thiện
nhân cách. Bản chất của quá trình dạy học là
một hệ thống toàn vẹn bao gồm ba thành tố cơ
bản là khái niệm khoa học (nội dung dạy học),
học và dạy.
a) Nội dung dạy học là nội dung của bài
học và là đối tượng lĩnh hội của người học; nó
là một trong hai yếu tố khách quan, quyết định
logic của bản thân quá trình dạy học về mặt
khoa học.
b) Hoạt động học là yếu tố khách quan
thứ hai quy định logic của quá trình dạy học
về mặt lý luận daỵ học; nghĩa là trình độ trí
dục và quy luật lĩnh hội người học có ảnh
hưởng quyết định đến việc tổ chức quá trình
dạy học; nó bao gồm hai chức năng thống
nhất với nhau: lĩnh hội và tự điều khiển nhận
thức.
CNTT
c) Hoạt động dạy gồm hai chức năng
truyền đạt và điểu khiển, luôn luôn tác động
và thống nhất với nhau. Dạy phải xuất phát từ
logic khoa học của khái niệm và logic sư
phạm của tâm lý học lĩnh hội.
_
CB
Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn, ở
đó các thành tố của nó luôn luôn tương tác với
nhau theo những quy luật riêng, thâm nhập
vào nhau, quy định lẫn nhau để tạo nên một sự
thống nhất biện chứng.
- Giữa dạy với học.
- Giữa truyền đạt với điều khiển trong dạy.
- Giữa lĩnh hội với tự điều khiển trong học.
Nội dung dạy học là điểm xuất phát của
dạy và lại là điểm kết thúc của học. Quá trình
dạy học là hoạt động cộng đồng hợp tác giữa
các chủ thể: thày - cá thể trò, trò - trò trong
nhóm, thày - nhóm trò. Sự tương tác theo kiểu
cộng đồng hợp tác giữa dạy và học là yếu tố
duy trì và phát triển sự thống nhất toàn vẹn
của quá trình dạy học, nghĩa là của chất lượng
dạy học. Dạy tốt, học tốt chính là bảo đảm
được ba phép biện chứng (ba sự thống nhất)
nói trên trong hoạt động cộng tác. Đó là sự
thống nhất của điều khiển, bị điều khiển và tự
điểu khiển, có sự đảm bảo liên hệ nghịch
thường xuyên bền vững.
Cái khác nhau của các quan niệm dạy học
nằm ở chỗ đã nhấn mạnh hơn yếu tố nào trong
các chức năng của dạy và học. Theo quan niệm
truyền thống nhấn mạnh chức năng truyền đạt
của việc dạy và chức năng lĩnh hội của việc học
mà chưa chú ý thích đáng chức năng điều khiển
quá trình nhận thức, quá trình lĩnh hội của người
học của việc dạy học và tính tích cực, chủ động
tự điều khiển quá trình nhận thức của người học
trong quá trình học của mình. Ngược lại theo
quan niệm về việc dạy học, người ta rất coi trọng
yếu tố điều khiển sư phạm của giáo viên, ở đây
vai trò của giáo viên đã có sự thay đổi, người giáo
viên phải biết gợi mở, hướng dẫn, dạy cho người
học cách tìm kiếm và xử lí thông tin, từ đó vận
dụng chúng. Tuy nhiên, muốn được như vậy cần
coi trọng môi trường cộng tác giữa việc dạy và
việc học và người học phải biết tự điều khiển quá
trình nhận thức của mình thông qua việc tích cực,
chủ động, tự lực chiếm lĩnh lấy nội dung học với
sự hỗ trợ của người dạy.
Trong hoạt động học, người ta đã thấy
được tính thống nhất của hai chức năng vừa
thu nhận kiến thức vừa kết hợp với sự tự điều
khiển kiến thức của mình. Để hoạt động học
thu được kết quả tốt người học không chỉ thu
nhận kiến thức mới mà còn phải tích cực, tự
điều khiển nhận thức của mình, tức là người
học phải tích cức, chủ động, sáng taọ tìm tòi
kiến thức mới. Có như vậy thì quá trình tự thu
nhận kiến thức của người học mới thu được
kết quả cao nhất. Và hoạt động học sẽ diễn ra
một cách tích cực.
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA DẠY
HỌC ĐẠI HỌC
Việc dạy và học ở đại học về cơ bản cũng
có những đặc điểm chung của một quá trình
dạy học, tuy nhiên nó có một số nét đặc trưng
của bậc giáo dục này.
Mục tiêu đào tạo của đại học là đào tạo
những con người có phẩm chất chính trị, đạo
đức, có kiến thức và kỹ năng tương xứng với
trình độ được đào tạo. Vì vậy mục tiêu năng
lực cho người học rất được coi trọng. Năng
lực người học hình thành tốt nhất trong quá
trình hoạt động nhận thức, nếu hoạt động tích
cực, tính chủ động sáng tạo của người học
được quan tâm thích đáng thì người học sẽ có
cơ hội hình thành năng lực phát hiện và giải
quyết vấn đề hơn là được thầy ‘đọc cho chép’.
Nội dung đào tạo ở đại học phải có tính
hiện đại và phát triển, đảm bảo cơ bản và
chuyên sâu. Nội dung đến với người học
không phải chỉ từ giáo viên mà còn thông qua
nhiều ‘kênh’ khác nên giáo viên có vai trò
giúp cho học sinh tìm kiếm, lựa chọn và xử lý
nội dung để biến tri thức về lĩnh vực khoa học
nào đó thành sở hữu của mình, từ đó sáng tạo
ra nội dung mới.
Giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng
để khuyến khích tính ham hiểu biết của người
học, rèn luyện độc lập khám phá trí tuệ, tăng
cường khả năng khả năng tổ chức và sử dụng
kiến thức giúp người học đạt được năng lực
học suốt đời qua việc tự giáo dục. Để đáp ứng
được nhu cầu của dạy và học, giáo viên đại
học cần phải có năng lực phẩm chất của một
nhà khoa học chân chính và một nhà sư phạm
tâm huyết.
CNTT_C
B
Người học ở đại học có những đăc điểm
đăc trưng là họ là những người trưởng thành cả
về thể chất, tâm lý và nhận thức. Do đó họ phải
được ứng xử như người lớn trong mọi hoạt
động. Sinh viên là người đã có định hướng về
nghề nghiệp gắn vời nhu cầu và lợi ích của họ.
Vậy nên dạy học làm sao để kích thích được
nguyện vong hướng nghiệp của họ. Sinh viên
hoàn toàn có khả năng tự học tập, nghiên cứu,
tuy nhiên khả năng đó được phát huy thế nào
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có cách
dạy của giáo viên. Theo quan niệm của
UNESCO sản phẩm đại học trong thời đại ngày
nay phải có năng lực trí tuệ, có khả năng sáng
tạo và thích ứng. Có khả năng hành động để có
thể lập nghiệp, có năng lực tự học, tụ nghiên cứu
để có thể học thuòng xuyên và phải có năng lực
quốc tế như ngoại ngữ, văn hóa toàn cầu để có
khả năng hội nhập. Để đáp ứng được những yêu
cầu trên thì sinh viên phải có cách học chủ động,
khả năng tự lực tìm kiếm, xử lý thông tin và
khát khao sáng tạo.
Để góp phần cho hoạt động dạy học đạt
kết quả tốt thì phương pháp dạy học phải tạo
điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng
tạo, rèn luyên kỹ năng thực hành, bồi dưỡ
năng lực tự học tập nghiên cứu. Như vậy cũng
như các bậc học khác, phương pháp dạy học ở
đại học phụ thuộc vào đặc điểm của nội dung,
bám sát mục tiêu dạy học, đặc điểm của sinh
viên. Khai thác các nguồn lưc sẵn có như thời
lượng, tài liệu, trang thiết bị, môi trường và
đặc biẹt là năng lực chuyên môn và khả năng
sư phạm của giáo viên.
III. KẾT LUẬN
Những năm gần đây đất nước ta đã phát
triển rất nhanh chóng, toàn xã hội và nền kinh
tế đã có nhiều thay đổi. Sự thay đổi đó đòi hỏi
các ngành các cấp có liên quan phải có những
thay đổi cải cách. Ngành giáo dục của chúng
ta cũng đã có những bước phát triển lớn lao để
đáp ứng được xu thế đi lên của thời đại. Đã có
nhiều phương hướng cải tiến để nâng cao hiệu
quả của quá trình dạy học.
Nền giáo dục nước ta hiện nay đang tiến
hành công cuộc đổi mới theo đường lối đổi
mới kinh tế xã hội toàn diện và sâu sắc. Giáo
dục đại học đang đứng trước yêu cầu lớn phải
phát triển nguồn nhân lực có học vấn đại học,
có khả năng lao động ở một trình độ mới phù
hợp với nhu cầu ứng dụng khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiên đại vào mọi lĩnh vực hoạt
động của xã hội nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế trong điều kiện đổi mới đất nước, phát triển
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Đứng trước yêu cầu ấy nề giáo dục Việt
nam cần có sự thay đổi phù hợp, đặc biệt phải
đổi mới quá trình dạy và học ở đại học theo
hướng phát huy tính chủ động tích cực, sáng
tạo của sinh viên.
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Ngọc Quang, 1998, N.N.Quang. Nhà SP,
Người góp phần đổi mới lý luận dạy học, NXB ĐHQG.
[2]. J.Piagert, 1999. Tâm lý và Giáo dục, NXB GD.
[3]. Nhiều tác giả, 2003, Sách giáo dục học đại
học, Tài liệu tập huấn
[4]. Nguyễn Văn Tiến và Những người khác,1999,
M. PowerPoint, NXB GD.
[5]. Allan C. và Thomas J, Các chiến lược để dạy
học có hiệu quả, NXB ĐHQG♦