Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Báo cáo khoa học: "MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ KHÁI NIỆM “NHÂN VỊ”" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.24 KB, 3 trang )


MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ KHÁI NIỆM “NHÂN VỊ”

ThS. NGUYỄN THỊ THANH HẢI
Bộ môn Những nguyên lý cơ bản của CNMLN
Khoa Lý luận chính trị
Trường Đại học Giao thông Vận tải

Tóm tắt: Bài báo tập trung làm rõ quan niệm “Nhân vị” trong triết học Thomas Aquino
(1225-1270)-1 nhà triết học Kyto giáo ở Tây Âu thời trung cổ. Từ đó thấy rõ giá trị của quan
điểm này đối với sự phát triển của tư tưởng nhân loại. Tác giả còn nêu lên một vài biểu hiện
của nhân vị trong cuộc sống hiện nay.
Summary: The journal jocus on bringging out the concept “ Nhân Vị” in philosophy of
Thomas Aquino (1225-1274) – a Christmas philosopher in Medieval Occident. Since then, this
point of view is found to be important to the development of manlcind. The author alos put
forward som expressino of “Nhân Vị” at present life.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
MLN-
KTVT
Hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã thoát
khỏi những nước kém phát triển và gia nhập
vào nhóm nước phát triển trung bình. Có được
những thành tựu này là nhờ đường lối đổi mới
đúng đắn của Đảng với giá trị đích thực của
nó là khai phóng được tiềm năng sáng tạo và
đổi mới của nhân dân ta. Tuy vậy, quá trình
chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa không thể tránh khỏi
những điểm vênh văn hoá nói chung và điểm


vênh giữa quan điểm truyền thống về cá nhân
- tập thể - xã hội đã hằn sâu vào nếp nghĩ,
cách ứng xử của nhân dân ta với quan điểm
mới về mối quan hệ này. Để khắc phục hiệu
quả những điểm vênh đó, việc tìm hiểu quan
điểm về “nhân vị” của các triết gia Đông, Tây
là một việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn.
II. NỘI DUNG
Có thể nói trong lịch sử nhân loại, ít khi
gặp một ý tưởng đã để lại ảnh hưởng sâu đậm
như quan điểm của Kitô giáo về nhân vị. Có
học giả còn đánh giá đây là một đóng góp độc
đáo của Kitô cho nhân loại bởi vì chúng ta ít
thấy nó trong văn hoá Hi Lạp, La Mã, Ấn Độ
hay Trung Hoa. Chẳng hạn, trong xã hội
phương Đông “con người là của gia đình, của
họ, của làng, nước. Bản thân họ không có gì là
của mình: thân thể là của cha mẹ cho, phân vị
là của vua cho, số mệnh là của trời cho. Có
được gì cũng là nhờ ơn Vua, ơn Trời. Giá trị
của nó được tính theo chỗ nó là con ai, thuộc
họ nào, làng nào, có chức sắc gì, chứ không
theo chỗ bản thân nó là gì. Trong xã hội tất cả
là thần dân của Vua, đều được xếp vào bậc
thang tước vị, rồi lại chia thành hạng cha chú
hay con cháu. Con người phải nhìn xuống,
nhìn lên trong cái thang trật tự trên dưới đó, tự



xác định vị trí của mình mà ăn mặc, nói năng,
đi đứng cho phải phép. Đó là con người chức
năng trong xã hội luân thường chứ không có
nhân cách độc lập”[2; 394 - 395].
Quan niệm “nhân vị” xuất hiện vào thế
kỷ IV-V ở Tây Âu. Đây là thời kỳ mà các nhà
tư tưởng Kitô giáo đang cố gắng tìm kiếm
quan niệm thích hợp để giải thích một vấn đề
thần học: Sự khác biệt và tính đồng nhất giữa
Ba ngôi Thiên Chúa. Làm thế nào để giải
thích một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba
ngôi khác nhau? Và họ đã nối kết hai từ có
gốc Hi Lạp: “Prosopon” và “Hypostasic” để
diễn tả sự khác biệt này.
Theo nguyên ngữ “Prosopon” là chiếc
mặt nạ các diễn viên dùng để tả diện mạo của
một nhân vật nào đó mà họ muốn trình bày. Từ
việc trình bày cái mặt nạ bên ngoài của một
nhân vật nào đó, từ này tiến dần đến chỗ diễn
tả vai trò và thực chất của chính nhân vật đó.
Tuy vậy, Prosopon chưa thể lột tả hết nội dung
của quan niệm ngôi vị mà người ta muốn diễn
tả nên phải bổ sung từ thứ hai là “Hypostasic”.
MLN-
KTVT
Hypostasic có nghĩa là bản thể, là yếu
tính. Từ này sử dụng như nguyên tắc nhất thể
hoá một ngôi vị, bổ sung cho quan niệm
Prosopon nói trên và cho phép trình bày một
Thiên Chúa duy nhất nhưng có ba ngôi vị.

Nhờ kết nối hai từ này các giáo phụ đã giải
quyết được một số khó khăn. Bởi lẽ việc đồng
nhất này cho thấy quan niệm ba Ngôi Thiên
Chúa không chỉ trình bày việc Ngài biểu lộ
cho nhân loại biết mà còn diễn tả phần nào
thần tính vừa duy nhất vừa mang tính khác
biệt và độc lập của Chúa Cha, Chúa con và
Chúa Thánh thần.
Giáo lý Ba Ngôi đặt nổi chiều kích tương
quan của quan niệm ngôi vị và cho phép nghĩ
đến một sự duy nhất của đời sống thần linh
được xây dựng trên mối tương quan thiết yếu
liên ngôi vị giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, trong
đó mỗi Ngôi đều là Thiên Chúa như nhau
nhưng vẫn duy trì nét cá biệt và sứ vụ riêng.
Như vậy, trong quan niệm nguyên thuỷ về
ngôi vị, các giáo phụ Hi Lạp đề cao chiều kích
tương quan. Nhưng khi du nhập sang phương
Tây thì các thần học gia thuộc văn hoá La
Tinh lại thường có khuynh hướng nhấn mạnh
đến chiều kích cá nhân cụ thể. Chẳng hạn
Severino Boezio (thế kỷ VI) đã hiểu quan
niệm nhân vị dưới góc độ cá thể này. Ông cho
rằng nhân vị là một bản thể cá biệt của lý tính.
(“Persona est rationalis naturae individua
Substantia” (Contra Eutichen et Nestorium,
c.4)). Với nghĩa như vậy, nhân vị là một hữu
thể cá biệt, tự tại có lý trí và bất khả thay thế.
Tuy vậy, quan niệm này của Boezio lại quá
nhấn mạnh tính cá thể, cá biệt của nhân vị mà

bỏ qua chiều kích tương quan.
Tiếp thu tư tưởng của Boezino, Thomas
Aquinô (một nhà triết học Kitô giáo thế kỷ
XIII) cũng định nghĩa nhân vị theo chiều
hướng đó nhưng đồng thời cũng cố gắng giải
thích bản thể tự tại của nó trong mối tương
quan. Theo Thomas Aquinô, chúng ta chỉ có
thể hiểu ý nghĩa sâu thẳm của nhân vị, nhất là
ngôi vị nơi Thiên Chúa ngang qua chiều kích
tương quan. Điều này chúng ta có thể tìm thấy
trong Tổng luận thần học của ông [qI - 2, vấn
đề từ 27 - 43, (mục 1, mục 2, mục 3, mục 4)].
Trong đó, Thomas Aquinô đã phân tích một
cách tỉ mỉ về vấn đề này và chỉ ra sự tương
quan thiết yếu Ba ngôi Thiên Chúa biểu hiện
một bản tính duy nhất. Sau khi phân tích ý kiến
khác nhau ấy, Thomas Aquinô kết luận: “Theo
những gì đã trình bày ở trên, phải nói hạn từ
nhân vị trực tiếp là tương quan và gián tiếp mới
là yếu tính”[3 ; qI - 2, vấn đề 29, mục 4].
Như vậy, nhân vị là một bản thể có tương
quan phẩm chất với người khác, cái khác (mối


tương quan này là thiết yếu) đồng thời nó là
một hữu thể tự tại, không thể phân chia, cá
biệt và độc nhất vô nhị. Nhân vị là một tạo vật
đẹp nhất và cao quý nhất bởi lẽ nó là một hữu
thể tự tại và có lý tính. Do đó, nó có vị trí cao
trong các loài thụ tạo và có một giá trị, một

phẩm giá bất khả xâm phạm.
Với những quan niệm như thế, có thể nói
Thomas Aquinô đã có những đóng góp lớn
cho lịch sử tư tưởng nhân loại, mở đường cho
việc khẳng định phẩm giá và bảo vệ phẩm giá
của các cá nhân con người.
Tuy nhiên, con đường giải phóng loài
người, khẳng định và bảo vệ phẩm giá của con
người một cách hiện thực thì triết học Kitô
giáo không vạch ra và nếu có thì đó cũng là
con đường sai lầm. Chỉ đến khi chủ nghĩa
Mác – Lênin ra đời thì con đường đó mới
đúng đắn, mới hiện thực. C.Mác đã phân tích
xã hội Tư bản chủ nghĩa một cách tỷ mỷ và
khoa học, tìm ra con đường giải phóng nhân
loại đó là con đường cách mạng vô sản. Chỉ
có xã hội xã hội chủ nghĩa mới tạo điều kiện
để mỗi một cá nhân có thể tự giải phóng mình,
phát huy hết năng lực của mình, vươn tới tự
do và khẳng định nhân vị.
MLN-
KTVT
Ở Miền nam Việt Nam trước đây, Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã từng đề
xướng chủ nghĩa nhân vị. Thậm chí họ đã
thành lập Đảng cần lao nhân vị. Đảng này
chịu ảnh hưởng học thuyết nhân vị của
E.Mounier – một nhà triết học Kitô giáo
người Pháp. Về thực chất đây không phải là
một trào lưu triết học mà chỉ là một công cụ

chống Cộng, chống chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đang tập
trung khả năng của toàn Đảng, toàn dân để
xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Xây dựng
nước Việt Nam giàu, mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh cũng chính là hướng tới
một xã hội vì con người, giải phóng con
người. Nhấn mạnh mối quan hệ giữa con
người và cộng đồng trong chiều kích khẳng
định nhân vị và phẩm giá của họ.
Trong cuộc sống hiện nay, hoặc quá đề
cao tự do cá nhân, coi thường tự do của người
khác, coi thường tổ chức, kỷ luật hoặc quá hạ
thấp mình, xu nịnh bề trên thì đều là những
biểu hiện sai lệch của quan niệm nhân vị.
Khẳng định địa vị của mình trong tập thể, trong
xã hội, có ý thức, sống đúng đạo lý và vươn tới
lý tưởng tốt đẹp đó là biểu hiện sâu sắc của
quan niệm này. Với nghĩa như vậy, nhân vị đã
trở thành nấc thang giá trị mà loài người đã đạt
được trên con đường phát triển của mình.
III. KẾT LUẬN
Tóm lại, nhân vị là một khái niệm có nội
hàm rất phong phú. Tuy nhiên, trong dòng
chảy tư tưởng của nhân loại, mỗi triết gia, mỗi
trường phái triết học tiếp cận khái niệm này ở
những chiều cạnh khác nhau. Chúng ta cần
hiểu nhân vị theo nghĩa, một mặt, nó khẳng
định con người với tư cách con người là phải

sống trong cộng đồng, có mối quan hệ xã hội,
tham gia tiếp nhận những di sản văn hóa do
thế hệ trước để lại. Mặt khác, con người phải
khẳng định phẩm giá của riêng mình, khẳng
định đời sống cá nhân như một hữu thể tự tại,
không phân chia và bất khả xâm phạm. Như
thế, mỗi một nhân vị mới có được sự phát
triển toàn diện. Đó vừa là mục đích vừa là bản
chất mà xã hội Việt Nam đang hướng tới.
Tài liệu tham khảo
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
X, NXB CTQG, HN, 2006.
[2]. Trần Đình Hượu. Đến hiện đại từ truyền
thống, NXB Văn hoá, in lần thứ 2, 1996.
[3]. Dịch giả Nguyễn Văn Liêm, Thosmat Aquino.
Tổng luận thần học, NXB Trẻ, HN, 2001♦

×