Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tài liệu thi Nguyên lý Mác - Lênin 1 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.93 KB, 11 trang )

Câu1:Hàng hóa
là gì
Hàng hoá là sản
phẩm của lao
động có thể thoả
mãn nhu cầu nào
đó của con người
và đem trao đổi,
đem bán.
Hang hóa có thể
là vô hình như
sức lao động hay
hữu hình như sắt,
thép, xi măng.
Hai thuộc tính
của hang hóa
- Giá trị sử
dụng: Là công
dụng của vật
phẩm có thể đáp
ứng nhu cầu nào
đó của con người.
Giá trị sử dụng
của hàng hoá do
thuộc tính tự
nhiên của vật quy
định không phụ
thuộc vào hình
thái xã hội mà nó
tồn tại. Giá trị sử
dụng của hàng


hoá có đặc điểm
là giá trị sử dụng
cho người khác,
cho xã hội đồng
thời nó mang nội
dung của giá trị
trao đổi. Giá trị sử
dụng chỉ được
thực hiện trong
việc sử dụng hay
tiêu dùng nó. Khi
chưa tiêu dùng,
giá trị sử dụng chỉ
ở trạng thái khả
năng. Để giá trị
sử dụng có khả
năng biến thành
giá trị sử dụng
hiện thực, nó phải
được tiêu dùng.
Điều này nói lên
ý nghĩa quan
trọng của tiêu
dùng đối với sản
xuất.
- Giá trị: Để
hiểu được giá trị
hàng hoá phải bắt
đầu từ giá trị trao
đổi. Giá trị trao

đổi là tỷ lệ về số
lượng giữa 2 giá
trị sử dụng khác
nhau. Thí dụ: 1m
vải = 5kg thóc.
Trong tỉ lệ đó, số
lượng của những
hàng hóa trao đổi
với nhau, giá trị
trao đổi của hàng
hóa được biểu
hiện ra.

Nếu hai vật
thể khác nhau có
thể trao đổi được
với nhau thì giữa
chúng phải có cơ
sở chung nào đó.
Cái chung đó
không thể là công
dụng, vì công
dụng của chúng
hoàn toàn khác
nhau. Các hàng
hóa khác nhau chỉ
có một thuộc tính
chung làm cho
chúng có thể so
sánh với nhau

trong khi trao đổi,
đó là các hàng
hóa đều là các sản
phẩm của lao
động. Cơ sở cho
hai hàng hoá trao
đổi được với nhau
là lao động xã hội
hao phí vào việc
sản xuất ra những
hàng hóa đó.
Thực chất của
trao đổi hàng hóa
cho nhau là trao
đổi lao động ẩn
giấu trong các
hàng hóa đó.
Như vậy,
lao động hao phí
để tạo ra hàng hóa
kết tinh trong
hàng hóa là cơ sở
chung của trao
đổi được gọi là
giá trị hàng hóa.
Giá trị hàng hoá
là hao phí lao
động xã hội của
người sản xuất
hàng hoá kết tinh

trong hàng hoá.
Nó phản ánh mối
quan hệ giữa
những người sản
xuất hàng hoá gắn
liền với kinh tế
hàng hoá. Nó là
một phạm trù lịch
sử. Giá trị trao đổi
chỉ là hình thức
biểu hiện của giá
trị. Giá trị là nội
dung là cơ sở của
giá trị trao đổi.
Các nhân tố ảnh
hưởng đến giá cả
thị trường: Giá
trị thị trường, Giá
trị của tiền, Cung
cầu hàng hóa,
Cạnh tranh
Câu2:Hàng hóa
là gì?
phân tich lượng
giá trị hàng hóa
Hàng hoá là sản
phẩm của lao
động có thể thoả
mãn nhu cầu nào
đó của con người

và đem trao đổi,
đem bán.
Hang hóa có thể
là vô hình như
sức lao động hay
hữu hình như sắt,
thép, xi măng.
Giá trị của hàng
hóa là do lao
động xã hội, lao
động trừu tượng
của người sản
xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng
hóa. Vậy, lượng
giá trị của hàng
hóa được đo bằng
lượng lao động
tiêu hao để sản
xuất ra hàng hóa
đó. Lượng lao
động tiêu hao ấy
được tính bằng
thời gian lao
động.
Lượng giá trị của
hàng hóa không
phải do mức hao
phí lao động cá
biệt hay thời gian

lao động cá biệt
quy định, mà nó
được đo bởi thời
gian lao động xã
hội cần thiết.
Thời gian lao
động xã hội cần
thiết là thời gian
lao động cần để
sản xuất ra một
hàng hóa nào đó
trong những điều
kiện sản xuất bình
thường của xã hội
với một trình độ
trang thiết bị
trung bình, với
một trình độ
thành thạo trung
bình và một
cường độ lao
động trung bình
trong xã hội đó.
Chỉ có lượng lao
động xã hội cần
thiết, hay thời
gian lao động xã
hội cần thiết để
sản xuất ra một
hàng hóa, mới

quyết định đại
lượng giá trị của
hàng hóa ấy.
+Những yếu tố
ảnh hưởng đến
lượng giá trị của
một đơn vị hàng
hóa
Tất cả những yếu
tố ảnh hưởng tới
thời gian lao động
xã hội cần thiết
đều ảnh hưởng tới
lượng giá trị của
hàng hóa. Chúng
ta xem xét ba yếu
tố cơ bản: năng
suất lao động,
cường độ lao
động và mức độ
giản đơn hay
phức tạp của lao
động.
- Năng suất lao
động là sức sản
xuất của lao động.
Nó được đo bằng
lượng sản phẩm
sản xuất ra trong
một đơn vị thời

gian hoặc lượng
thời gian lao động
hao phí để sản
xuất ra một đơn vị
sản phẩm.
Năng suất lao
động tăng lên có
nghĩa là cũng
trong một thời
gian lao động,
nhưng khối lượng
hàng hóa sản xuất
ra tăng lên làm
cho thời gian lao
động cần thiết để
sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa
giảm xuống. Do
đó, khi năng suất
lao động tăng lên
thì giá trị của một
đơn vị hàng hóa
sẽ giảm xuống và
ngược lại. Như
vậy, giá trị của
hàng hóa tỷ lệ
nghịch với năng
suất lao động.
- Cường độ lao
động là đại lượng

chỉ mức độ hao
phí sức lao động
trong một đơn vị
thời gian. Nó cho
thấy mức độ khẩn
trương, nặng nhọc
hay căng thẳng
của lao động.
Cường độ lao
động tăng lên tức
là mức hao phí
sức cơ bắp, thần
kinh trong một
đơn vị thời gian
tăng lên, mức độ
khẩn trương, nặng
nhọc hay căng
thẳng của lao
động tăng lên.
Nếu cường độ lao
động tăng lên thì
số lượng (hoặc
khối lượng) hàng
hóa sản xuất ra
tăng lên và sức
hao phí lao động
cũng tăng lên
tương ứng, vì vậy
giá trị của một
đơn vị hàng hóa

vẫn không đổi.
Tăng cường độ
lao động thực
chất cũng như kéo
dài thời gian lao
động cho nên hao
phí lao động trong
một đơn vị sản
phẩm không đổi.
- Mức độ phức
tạp của lao động
cũng ảnh hưởng
nhất định đến
lượng giá trị của
hàng hóa. Theo
mức độ phức tạp
của lao động, có
thể chia lao động
thành lao động
giản đơn và lao
động phức tạp.
Lao động giản
đơn là lao động
mà một người lao
động bình thường
không cần phải
trải qua đào tạo
cũng có thể thực
hiện được. Lao
động phức tạp là

lao động đòi hỏi
phải được đào
tạo, huấn luyện
mới có thể tiến
hành được.
-Trong cùng một
thời gian, lao
động phức tạp tạo
ra nhiều giá trị
hơn lao động giản
đơn. Lao động
phức tạp thực
chất là lao động
giản đơn được
nhân lên.
Câu 3
Nội dung yêu
cầu của quy luật
giá trị
Quy luật giá trị
là quy luật kinh tế
của sản xuất hàng
hoá. Nó quyết
định các phương
pháp và các
nguyên tắc đo
lường phân phối,
kích thìch lao
động xã hội trong
các điều kiện của

sản xuất hàng
hoá. Ở đâu có sản
xuất hàng hoá thì
ở đó có quy luật
giá trị hoạt động.
Theo quy luật giá
trị việc sản xuất
hàng hoá và trao
đổi hàng hoá phải
dựa trên cơ sở
hao phí lao động
xã hội cần thiết,
trao đổi phải dựa
trên cơ sở ngang
giá
-) Tác động của
quy luật giá trị
Trong nền sản
xuất hàng hóa,
quy luật giá trị có
ba tác động sau:
- Điều tiết sản
xuất và lưu thông
hàng hóa.
Quy luật giá trị
điều tiết sản xuất
hàng hóa được
thể hiện trong hai
trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu

như một mặt hàng
nào đó có giá cả
cao hơn giá trị,
hàng hóa bán
chạy và lãi cao,
những người sản
xuất sẽ mở rộng
quy mô sản xuất,
đầu tư thêm tư
liệu sản xuất và
sức lao động. Mặt
khác, những
người sản xuất
hàng hóa khác
cũng có thể
chuyển sang sản
xuất mặt hàng
này, do đó, tư liệu
sản xuất và sức
lao động ở ngành
này tăng lên, quy
mô sản xuất càng
được mở rộng.
+ Thứ hai, nếu
như một mặt hàng
nào đó có giá cả
thấp hơn giá trị,
sẽ bị lỗ vốn. Tình
hình đó buộc
người sản xuất

phải thu hẹp việc
sản xuất mặt hàng
này hoặc chuyển
sang sản xuất mặt
hàng khác, làm
cho tư liệu sản
xuất và sức lao
động ở ngành này
giảm đi, ở ngành
khác lại có thể
tăng lên.
Còn nếu như mặt
hàng nào đó giá
cả bằng giá trị thì
người sản xuất có
thể tiếp tục sản
xuất mặt hàng
này.
Như vậy, quy luật
giá trị đã tự động
điều tiết tỷ lệ
phân chia tư liệu
sản xuất và sức
lao động vào các
ngành sản xuất
khác nhau, đáp
ứng nhu cầu của
xã hội.
Tác động điều tiết
lưu thông hàng

hóa của quy luật
giá trị thể hiện ở
chỗ nó thu hút
hàng hóa từ nơi
có giá cả thấp hơn
đến nơi có giá cả
cao hơn, và do đó,
góp phần làm cho
hàng hóa giữa các
vùng có sự cân
bằng nhất định.
- Kích thích cải
tiến kỹ thuật, hợp
lý hoá sản xuất,
tăng năng suất lao
động, hạ giá
thành sản phẩm.
Các hàng hóa
được sản xuất ra
trong những điều
kiện khác nhau,
do đó, có mức
hao phí lao động
cá biệt khác nhau,
nhưng trên thị
trường thì các
hàng hóa đều phải
được trao đổi theo
mức hao phí lao
động xã hội cần

thiết.
- Phân hóa những
người sản xuất
hàng hóa thành
giàu, nghèo.
Những người sản
xuất hàng hóa nào
có mức hao phí
lao động cá biệt
thấp hơn mức hao
phí lao động xã
hội cần thiết, khi
bán hàng hóa theo
mức hao phí lao
động xã hội cần
thiết (theo giá trị)
sẽ thu được nhiều
lãi, giàu lên, có
thể mua sắm thêm
tư liệu sản xuất,
mở rộng sản xuất
kinh doanh, thậm
chí thuê lao động
trở thành ông chủ.
Ngược lại, những
người sản xuất
hàng hóa nào có
mức hao phí lao
động cá biệt lớn
hơn mức hao phí

lao động xã hội
cần thiết, khi bán
hàng hóa sẽ rơi
vào tình trạng
thua lỗ, nghèo đi,
thậm chí có thể
phá sản, trở thành
lao động làm
thuê.
Đây cũng chính là
một trong những
nguyên nhân làm
xuất hiện quan hệ
sản xuất tư bản
chủ nghĩa, cơ sở
ra đời của chủ
nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật
giá trị vừa có tác
động tích cực,
vừa có tác động
tiêu cực. Do đó,
đồng thời với việc
thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát
triển, nhà nước
cần có những biện
pháp để phát huy
mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực

của nó, đặc biệt
trong điều kiện
phát triển nền
kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần
theo định hướng
xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện
nay
Liên hệ tác động
của quy luật giá
trị Đây là một tác
dụng rất lớn của
quy luật giá trị,
nhờ có tác dụng
này mà nền knih
tế nước ta có thể
đi đúng hướng.
Hiện nay, xu
hướng của nước
ta cũng như của
các nước phát
triển trên thế giới
là tăng các ngành
dịch vụ, giảm tỷ
trọng ở các ngành
công nghiệp và
nông nhiệp. Đó
cũng một phần là
do quy luật giá

trị; tại vì hiện nay,
đời sống của nhân
dân ta đã được cải
thiện, kô còn là ăn
no mặc ấm nữa
mà là ăn ngon
mặc đẹp. Do vậy,
sự ra đời của các
ngành dịch vụ là
tất yếu như là bảo
hiểm ( ngành
mình đang
học Bây giờ
hiện các ngành
kinh tế đang là
tiêu điểm của các
học sinh lớp 12
chứ không còn là
các ngành khối kỹ
thuật nữa. Và quy
luật giá trị còn
giúp lưu thông
hàng hóa. điều
này ta có thể thấy
khá rõ vaò thời
điểm hiện nay,
không ít các
doanh nghiệp
đem hàng hóa của
mình ra nước

ngoài để chào
hàng; qua đó có
thể tìm được các
ôối tác nước
ngoài để làm ăn
lâu dài, và tất
nhiên, hàng hóa
bán cho tây bao
giờ cũng có rất
nhiều giá trị thặng

"Kích thích cải
tiến kỹ thuật, hợp

hóa "
Đây cũng là một
điều rất quan
trọng để phát triển
kinh tế. Thử hỏi
nếu như ta không
đầu tư vào máy
móc kỹ thuật thì
làm sao có thể
cạnh tranh với các
nước có nền khoa
học kt phát triển
như nhật, mỹ. Ví
dụ như hồi xưa,
để là 1m vải, ta
cần 1/10 ngày,

thfi hiên jnay vói
1/10 ngày, ta có
thể làm ra 100m
vải. Đó là nhờ
thành tựu của
khao học kỹ
thuật. Và với việc
tăng năg suất lao
động thì sẽ dẫn
đến việc giảm
lượng giá trị hàng
hóa
=> giá sẽ giảm và
ta có thể bán được
nhiều hàng hơn.
Nhưng điều này
cũng có mặt trái
của nó là khi đã
có mày móc thfi
những người công
nhân sẽ đi đâu ?
Ngyaf xưa để làm
công việc này cần
10 người, nay cần
1 người, vậy 9
người kia sẽ đi
đâu -> họ sẽ bị sa
thải-> thất nghiệp
tăng nhanh
Nhưng mặt trái

của quy luật giá
trị là: lựa chọn tự
nhiên và phân hóa
giàu nghèo.
Người giàu, họ có
tiền => mua tư
liệu sản xuất, mở
rôọg sản
xuất hao
phí lao động cá
biệt < hao phí lao
động xã hội cần
thiết=> bán được
nhiều hàng hơn=>
giàu hơn. Và
ngược lại.
Điều này làm cho
nhiều người dùng
mọi cách để
chiếm đoạt công
nghệ, không từg
thủ đoạn triệt hạ
đối phương nhằm
mục đích lợi
nhuận
Hiểu biết của
mình còn nông
cạn và là lần đầu
học, mong mọi
người góp ý để

làm phong phú
thêm bài viết
này .
Câu 4*Bản chất:
Tiền tệ là hàng
hoá đặc biệt được
tách ra làm vật
ngang giá chung
cho tất cả các
hàng hoá, là sự
thể hiện chung
của giá trị; đồng
thời, tiền tệ biểu
hiện mối quan hệ
sản xuất giữa
những người sản
xuất hàng hoá.
Bản chất của tiền
tệ được thể hiện
qua các chức
năng của nó.
Theo C. Mác tiền
tệ
có 5 chức năng:
- Thước đo giá
trị. Tiền tệ dùng
để biểu hiện và đo
lường giá trị của
các hàng hoá.
Muốn đo lường

giá trị của các
hàng hoá, bản
thân tiền tệ phải
có giá trị. Vì vậy,
tiền tệ
làm chức năng
thước đo giá trị
phải là tiền vàng.
Để đo lường giá
trị hàng hoá
không
cần thiết phải là
tiền mặt mà chỉ
cần so sánh với
lượng vàng nào
đó một cách
tưởng
tượng. Sở dĩ có
thể làm được như
vậy, vì giữa giá trị
của vàng và giá
trị của hàng hoá
trong thực tế đã
có một tỷ lệ nhất
định. Cơ sở của tỷ
lệ đó là thời gian
lao động xã hội
cần thiết hao phí
để sản xuất ra
hàng hoá đó. Giá

trị hàng hoá được
biểu hiện bằng
tiền
gọi là giá cả hàng
hoá. Do đó, giá cả
là hình thức biểu
hiện bằng tiền của
giá trị hàng
hoá. Giá cả hàng
hoá do các yếu tố
sau đây quyết
định:
+ Giá trị hàng
hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ ảnh hưởng của
quan hệ cung -
cầu hàng hoá.
Để làm chức năng
thước đo giá trị
thì bản thân tiền
tệ cũng phải được
đo lường.
Do đó, phải có
đơn vị đo lường
tiền tệ. Đơn vị đó
là một trọng
lượng nhất định
của kim
loại dùng làm tiền

tệ. ở mỗi nước,
đơn vị tiền tệ này
có tên gọi khác
nhau. Đơn vị tiền
tệ
và các phần chia
nhỏ của nó là tiêu
chuẩn giá cả. Tác
dụng của tiền khi
dùng làm tiêu
chuẩn giá cả
không giống với
tác dụng của nó
khi dùng làm
thước đo giá trị.
Là thước
đo giá trị, tiền tệ
đo lường giá trị
của các hàng hoá
khác; là tiêu
chuẩn giá cả, tiền
tệ đo
lường bản thân
kim loại dùng làm
tiền tệ. Giá trị của
hàng hoá tiền tệ
thay đổi theo sự
thay đổi của số
lượng lao động
cần thiết để sản

xuất ra hàng hoá
đó. Giá trị hàng
hoá
tiền tệ (vàng) thay
đổi không ảnh
hưởng gì đến
"chức năng" tiêu
chuẩn giá cả của
nó,
mặc dù giá trị của
vàng thay đổi như
thế nào. Ví dụ,
một USD vẫn
bằng 10 xen.
- Phương tiện
lưu thông: Với
chức năng làm
phương tiện lưu
thông, tiền làm
môi
giới trong quá
trình trao đổi
hàng hoá. Để làm
chức năng lưu
thông hàng hoá ta
phải có
tiền mặt. Trao đổi
hàng hoá lấy tiền
làm môi giới gọi
là lưu thông hàng

hoá.
Công thức lưu
thông hàng hoá
là: H- T - H, khi
tiền làm môi giới
trong trao đổi
hàng hoá đã làm
cho hành vi bán
và hành vi mua có
thể tách rời nhau
cả về thời gian và
không gian. Sự
không nhất trí
giữa mua và bán
chứa đựng mầm
mống của khủng
hoảng
kinh tế.
Trong lưu thông,
lúc đầu tiền tệ
xuất hiện dưới
hình thức vàng
thoi, bạc nén. Dần
dần nó được thay
thế bằng tiền đúc.
Trong quá trình
lưu thông, tiền
đúc bị hao mòn
dần
và mất một phần

giá trị của nó.
Nhưng nó vẫn
được xã hội chấp
nhận như tiền đúc
đủ
giá trị.
Như vậy, giá trị
thực của tiền tách
rời giá trị danh
nghĩa của nó. Sở
dĩ có tình
trạng này vì tiền
làm phương tiện
lưu thông chỉ
đóng vai trò chốc
lát. Người ta đổi
hàng
lấy tiền rồi lại
dùng nó để mua
hàng mà mình
cần. Làm phương
tiện lưu thông,
tiền
không nhất thiết
phải có đủ giá trị.
Lợi dụng tình
hình đó, khi đúc
tiền nhà nước tìm
cách giảm bớt
hàm lượng kim

loại của đơn vị
tiền tệ. Giá trị
thực của tiền đúc
ngày
càng thấp so với
giá trị danh nghĩa
của nó. Thực tiễn
đó dẫn đến sự ra
đời của tiền giấy.
Bản thân tiền giấy
không có giá trị
mà chỉ là dấu hiệu
của giá trị và
được công nhận
trong phạm vi
quốc gia.
- Phương tiện cất
trữ. Làm phương
tiện cất trữ, tức là
tiền được rút khỏi
lưu thông
đi vào cất trữ. Sở
dĩ tiền làm được
chức năng này là
vì: tiền là đại biểu
cho của cải xã
hội dưới hình thái
giá trị, nên cất trữ
tiền là một hình
thức cất trữ của

cải. Để làm chức
năng phương tiện
cất trữ, tiền phải
có đủ giá trị, tức
là tiền vàng, bạc.
Chức năng cất trữ
làm cho tiền trong
lưu thông thích
ứng một cách tự
phát với nhu cầu
tiền cần thiết cho
lưu thông. Nếu
sản xuất tăng,
lượng hàng hoá
nhiều thì tiền cất
trữ được đưa vào
lưu
thông. Ngược lại,
nếu sản xuất
giảm, lượng hàng
hoá lại ít thì một
phần tiền vàng rút
khỏi lưu thông đi
vào cất trữ.
- Phương tiện
thanh toán. Làm
phương tiện thanh
toán, tiền được
dùng để trả nợ,
nộp thuế, trả tiền

mua chịu hàng
Khi sản xuất và
trao đổi hàng hoá
phát triển đến
trình độ nào đó tất
yếu nảy sinh việc
mua bán chịu.
Trong hình thức
giao dịch này
trước
tiên tiền làm chức
năng thước đo giá
trị để định giá cả
hàng hoá. Nhưng
vì là mua bán
chịu nên đến kỳ
hạn tiền mới được
đưa vào lưu thông
để làm phương
tiện thanh toán.
Sự phát triển của
quan hệ mua bán
chịu này một mặt
tạo khả năng trả
nợ bằng cách
thanh toán khấu
trừ lẫn nhau
không dùng tiền
mặt. Mặt khác,
trong việc mua

bán chịu
người mua trở
thành con nợ,
người bán trở
thành chủ nợ. Khi
hệ thống chủ nợ
và con nợ
phát triển rộng
rãi, đến kỳ thanh
toán, nếu một
khâu nào đó
không thanh toán
được sẽ
gây khó khăn cho
các khâu khác,
phá vỡ hệ thống,
khả năng khủng
hoảng kinh tế
tăng
lên.
- Tiền tệ thế giới.
Khi trao đổi hàng
hoá vượt khỏi
biên giới quốc gia
thì tiền làm
chức năng tiền tệ
thế giới. Với chức
năng này, tiền
phải có đủ giá trị,
phải trở lại hình

thái ban đầu của
nó là vàng. Trong
chức năng này,
vàng được dùng
làm phương tiện
mua bán hàng,
phương tiện thanh
toán quốc tế và
biểu hiện của cải
nói chung của xã
hội.
Tóm lại: 5 chức
năng của tiền
trong nền kinh tế
hàng hoá quan hệ
mật thiết với
nhau. Sự phát
triển các chức
năng của tiền
phản ánh sự phát
triển của sản xuất
và lưu
thông hàng hoá.
Câu 5
Sức lao động là
các hoạt động của
con người được
sử dụng trong sản
xuất để sản xuất
ra hàng hoá. hàng

hoá ở đây được
nhìn nhận ở nhiều
hình thức:
- Có thể là các sản
phẩn có thể cầm
nắm như quàn áo,
thức ăn, điện
thoại,
- Các sản phẩm
chỉ có thể nghe
nhìn như: các bài
hát, chương trình
Tivi, các trận thi
đấu thể thao
Sức lao động là
năng lực làm việc
của 1 người
người có sức lao
động phải được tự
do về thân thể.
Sức lao động chỉ
có thể xuất hiện
trên thị trường
với tư cách là
hàng hóa, khi nó
được bản thân
người có sức lao
động đem bán. Để
có điều kiện này
người lao động

phải có quyền sở
hữu sức lao động
của mình, có
quyền định đoạt
năng lực của
mình. Những
người nô lệ, nông
nô không có
quyền tự do về
thân thể, không
thể đem bán sức
lao động của
mình.
2. người lao động
bị tước đoạt hết tư
liệu sản xuất.
Người chủ sức
lao động không
còn bất cứ hàng
hóa nào để bán
ngoài sức lao
động tồn tại trong
cơ thể sống của
mình. Điều này
chỉ xuất hiện khi
người lao động
không còn bất cứ
thứ tư liệu sản
xuất tối thiểu nào
để vật hóa sức lao

động của mình,
thành hàng hóa.
2/ Cũng giống
như hàng hóa
khác, hàng hóa
SLĐ có 2 thuộc
tính: giá trị và giá
trị sử dụng.
- Giá trị của hàng
hóa SLĐ cũng
bằng lượng LĐ
XH cần thiết để
sx và tái sx ra nó.
Nhưng việc sx và
tái sx ra SLĐ phải
đc thực hiện bằng
cách tiêu dùng
cho cá nhân. Vì
vậy, lượng hàng
hóa SLĐ bằng
lượng giá trị
những tư liệu cần
thiết về vật chất
và tinh thần để
nuôi sống người
công nhân và gia
đình của họ cùng
với chi phí đào
tạo công nhân
theo yêu cầu của

sx. Giá trị hàng
hóa SLĐ phụ
thuộc vào điều
kiện lịch sử cụ thể
của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ
nhất định.
- Giá trị sử dụng
của hàng hóa
SLĐ là công dụng
của nó để thỏa
mãn nhu cầu tiêu
dùng SLĐ của
nhà TB.Khác với
hàng hóa thông
thường, hàng hóa
SLĐ khi đc sử
dụng sẽ tạo ra
một lượng giá trị
mới lớn hơn giá
trị bản thân nó.
Đó chính là
nguồn gốc giá trị
thặng dư
Liên hệ:
Đối với nước ta,
việc phát triển thị
trường sức lao
động nhằm tạo
thêm việc làm,

nâng cao thu nhập
cho người lao
động và quản lý
mối quan hệ giữa
người có sức lao
động và người sử
dụng lao động, từ
đó nâng cao năng
suất lao động, tạo
nhiều của cải vật
chất cho xã hội.
Từ 1993 đến nay,
Nhà nước đã đẩy
mạnh cải cách
chính sách tiền
lương, nhờ đó
mức lương tối
thiểu được pháp
luật hóa và nâng
cao theo thị
trường. Thu nhập
của người lao
động trong các
loại hình doanh
nghiệp được cải
thiện. Tuy nhiên,
vấn đề giá cả
hàng hóa sức lao
động ở Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn

chế, bất cập, tác
động trực tiếp đến
đời sống của
người lao động và
ảnh hưởng lan toả
đến mọi mặt của
đời sống xã hội.
Do vậy, chúng ta
hãy cùng nhau
nhìn lại thực trạng
giá cả hàng hóa
sức lao động thời
gian qua để từ đó
có giải pháp hữu
hiệu cho thời gian
tiếp theo, tạo
động lực để thị
trường này phát
triển vững mạnh.
Câu 6: trình bày
phương pháp giá
trị thặng dư? Tại
sao nói giá trị
thặng dư siêu
nghạch là biến
tướng của giá trị
thặng dư tương
đối ? ý nghĩa của
việc nghiên cứu
các vấn đề trên

của nước ta hiện
nay?
Hai phương pháp
sản xuất giá trị
thặng dư
Mục đích của các
nhà tư bản là sản
xuất ra giá trị
thặng dư tối đa, vì
vậy, các nhà cittư
bản dùng nhiều
phương pháp để
tăng tỷ suất và
khối lượng giá trị
thặng dư. Khái
quát có hai
phương pháp để
đạt được mục
đích đó là sản
xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và
sản xuất giá trị
thặng dư tương
đối.
a) Sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn
phát triển đầu tiên
của sản xuất tư
bản chủ nghĩa,

khi kỹ thuật còn
thấp, tiến bộ
chậm chạp thì
phương pháp chủ
yếu để tăng giá trị
thặng dư là kéo
dài ngày lao động
của công nhân.
Giá trị thặng dư
được sản xuất ra
bằng cách kéo dài
ngày lao động
trong điều kiện
thời gian lao động
tất yếu không
thay đổi, nhờ đó
kéo dài thời gian
lao động thặng dư
gọi là giá trị thặng
dư tuyệt đối.
Các nhà tư bản
tìm mọi cách kéo
dài ngày lao
động, nhưng ngày
lao động có
những giới hạn
nhất định. Giới
hạn trên của ngày
lao động do thể
chất và tinh thần

của người lao
động quyết định.
Vì công nhân phải
có thời gian ăn,
ngủ, nghỉ ngơi,
giải trí để phục
hồi sức khoẻ.
Việc kéo dài ngày
lao động còn vấp
phải sự phản
kháng của giai
cấp công nhân.
Còn giới hạn dưới
của ngày lao động
không thể bằng
thời gian lao động
tất yếu, tức là thời
gian lao động
thặng dư bằng
không. Như vậy,
về mặt kinh tế,
ngày lao động
phải dài hơn thời
gian lao động tất
yếu, nhưng không
thể vượt quá giới
hạn về thể chất và
tinh thần của
người lao động.
Trong phạm vi

giới hạn nói trên,
độ dài của ngày
lao động là một
đại lượng không
cố định và có
nhiều mức khác
nhau. Độ dài cụ
thể của ngày lao
động do cuộc đấu
tranh giữa giai
cấp công nhân và
giai cấp tư sản
trên cơ sở tương
quan lực lượng
quyết định. Cuộc
đấu tranh của giai
cấp công nhân đòi
ngày lao động
tiêu chuẩn, ngày
làm 8 giờ đã kéo
dài hàng thế kỷ.
b) Sản xuất giá trị
thặng dư tương
đối
Việc kéo dài ngày
lao động bị giới
hạn về thể chất và
tinh thần của
người lao động và
vấp phải cuộc đấu

tranh ngày càng
mạnh mẽ của giai
cấp công nhân.
Mặt khác, khi sản
xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển
đến giai đoạn đại
công nghiệp cơ
khí, kỹ thuật đã
tiến bộ làm cho
năng suất lao
động tăng lên
nhanh chóng, thì
các nhà tư bản
chuyển sang
phương thức bóc
lột dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao
động, bóc lột giá
trị thặng dư tương
đối.
Giá trị thặng dư
được tạo ra bằng
cách rút ngắn thời
gian lao động tất
yếu trong điều
kiện độ dài của
ngày lao động
không đổi, nhờ đó
kéo dài tương ứng

thời gian lao động
thặng dư, được
gọi là giá trị thặng
dư tương đối.
Làm thế nào để
có thể rút ngắn
được thời gian lao
động tất yếu?
Thời gian lao
động tất yếu có
quan hệ với giá trị
sức lao động.
Muốn rút ngắn
thời gian lao động
tất yếu phải giảm
giá trị sức lao
động. Muốn hạ
thấp giá trị sức
lao động phải
giảm giá trị
những tư liệu sinh
hoạt thuộc phạm
vi tiêu dùng của
công nhân. Điều
đó chỉ có thể thực
hiện được bằng
cách tăng năng
suất lao động
trong các ngành
sản xuất ra những

tư liệu sinh hoạt
thuộc phạm vi
tiêu dùng của
công nhân hay
tăng năng suất lao
động trong các
ngành sản xuất ra
tư liệu sản xuất để
sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt
đó.
Nếu trong giai
đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản, sản
xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối là
phương pháp chủ
yếu, thì đến giai
đoạn tiếp sau, khi
kỹ thuật phát
triển, sản xuất giá
trị thặng dư tương
đối là phương
pháp chủ yếu.
Lịch sử phát triển
của lực lượng sản
xuất và của năng
suất lao động xã
hội dưới chủ
nghĩa tư bản đã

trải qua ba giai
đoạn: hợp tác
giản đơn, công
trường thủ công
và đại công
nghiệp cơ khí, đó
cũng là quá trình
nâng cao trình độ
bóc lột giá trị
thặng dư tương
đối. Hai phương
pháp sản xuất giá
trị thặng dư nói
trên được các nhà
tư bản sử dụng
kết hợp với nhau
để nâng cao trình
độ bóc lột công
nhân làm thuê
trong quá trình
phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
Dưới chủ nghĩa tư
bản, việc áp dụng
máy móc không
phải là để giảm
nhẹ cường độ lao
động của công
nhân, mà trái lại
tạo điều kiện để

tăng cường độ lao
động. Ngày nay,
việc tự động hoá
sản xuất làm cho
cường độ lao
động tăng lên,
nhưng dưới hình
thức mới, sự căng
thẳng của thần
kinh thay thế cho
cường độ lao
động cơ bắp.
Giá trị thặng dư
siêu ngạch
Cạnh tranh giữa
các nhà tư bản
buộc họ phải áp
dụng phương
pháp sản xuất tốt
nhất để tăng năng
suất lao động
trong xí nghiệp
của mình nhằm
giảm giá trị cá
biệt của hàng hoá
thấp hơn giá trị xã
hội của hàng hoá,
nhờ đó thu được
giá trị thặng dư
siêu ngạch.

Xét từng trường
hợp, thì giá trị
thặng dư siêu
ngạch là hiện
tượng tạm thời,
xuất hiện và mất
đi. Nhưng xét
toàn bộ xã hội tư
bản thì giá trị
thặng dư siêu
ngạch là hiện
tượng tồn tại
thường xuyên.
Theo đuổi giá trị
thặng dư siêu
ngạch là khát
vọng của nhà tư
bản và là động
lực mạnh nhất
thúc đẩy các nhà
tư bản cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá
sản xuất, tăng
năng suất lao
động, làm cho
năng suất lao
động xã hội tăng
lên nhanh chóng.
C. Mác gọi giá trị
thặng dư siêu

ngạch là hình
thức biến tướng
của giá trị thặng
dư tương đối, vì
giá trị thặng dư
siêu ngạch và giá
trị thặng dư tương
đối đều dựa trên
cơ sở tăng năng
suất lao động
(mặc dù một bên
là dựa vào tăng
năng suất lao
động cá biệt, còn
một bên dựa vào
tăng năng suất lao
động xã hội).
Sự khác nhau
giữa giá trị thặng
dư siêu ngạch và
giá trị thặng dư
tương đối còn thể
hiện ở chỗ giá trị
thặng dư tương
đối do toàn bộ
giai cấp các nhà
tư bản thu được.
Xét về mặt đó, nó
thể hiện quan hệ
bóc lột của toàn

bộ giai cấp tư sản
đối với toàn bộ
giai cấp công
nhân làm thuê.
Giá trị thặng dư
siêu ngạch chỉ do
một số các nhà tư
bản có kỹ thuật
tiên tiến thu được.
Xét về mặt đó, nó
không chỉ biểu
hiện mối quan hệ
giữa tư bản và lao
động làm thuê,
mà còn trực tiếp
biểu hiện mối
quan hệ cạnh
tranh giữa các nhà
tư bản.
Từ đó, ta thấy
rằng giá trị thặng
dư siêu ngạch là
động lực trực
tiếp, mạnh nhất
thúc đẩy các nhà
tư bản cải tiến kỹ
thuật, áp dụng
công nghệ mới
vào sản xuất,
hoàn thiện tổ

chức lao động và
tổ chức sản xuất
để tăng năng suất
lao động, giảm
giá trị của hàng
hoá.
Câu 8: trình bày
quá trình hình
thành lợi nhuận
bình quân, giá cả
sản xuất và sự
chuyển hóa giá
trị hàng hóa
thành giá cả sản
suất
Trong xã hội có
nhiều ngành sản
xuất khác nhau,
với những điều
kiện sản xuất
không giống
nhau, lợi nhuận
thu được và tỷ
suất lợi nhuận
cũng sẽ không
giống nhau. Điều
này dẫn đến việc
cạnh tranh giữa
các ngành. Đó là
sự cạnh tranh

giữa các xí nghiệp
tư bản kinh doanh
trong các ngành
sản xuất khác
nhau, nhằm mục
đích tìm nơi đầu
tư có lợi hơn.
Chính vì điều này
mà dẫn đến việc
các nhà tư bản di
chuyển từ các
ngành lợi nhuận ít
sang những ngành
có lợi nhuận cao
hơn.
Sự tự do di
chuyển tư bản từ
ngành này sang
ngành khác làm
thay đổi tỷ suất
lợi nhuận ngành
và dẫn đến hình
thành tỷ suất lợi
nhuận ngành
ngang nhau. Đó là
tỷ suất lợi nhuận
chung hay tỷ suất
lợi nhuận bình
quân.
Tỷ suất lợi nhuận

bình quân là “con
số trung bình” của
tất cả các tỷ suất
lợi nhuận khác
nhau hay là tỷ số
phần trăm giữa
tổng giá trị thặng
dư và tổng tư bản
XH.
Khi hình thành tỷ
xuất lợi nhuận
bình quân, ta có
thể tính được lợi
nhuận bình quân
của từng ngành.
Đây là lợi nhuận
bằng nhau của tư
bản bằng nhau
đầu tư vào những
ngành khác nhau.
Nó chính là lợi
nhuận mà nhà tư
bản thu được căn
cứ vào tổng tư
bản đầu tư, nhân
với tỷ suất lợi
nhuận bình quân,
không quan tâm
đến cấu thành hữu
cơ của nó. Sự

xuất hiện của lợi
nhuận bình quân
đã biến quy luật
giá trị thặng dư
trở thành quy luật
lợi nhuận bình
quân (Tổng lợi
nhuận bình quân
bằng tổng giá trị
thặng dư).
2. Trong nền sản
xuất tư bản chủ
nghĩa, sự hình
thành tỷ suất lợi
nhuận bình quân
đã làm giá trị
hàng hoá chuyển
thành giá cả sản
xuất. Giá cả sản
xuất là giá cả
bằng chi phí sản
xuất cộng với lợi
nhuận bình quân.
Giá trị là cơ sở
của giá cả sản
xuất. Giá cả sản
xuất là phàm trù
kinh tế tương
đương với giá cả,
là cơ sở của giá cả

trên thị trường, nó
điều tiết giá cả thị
trường, giá cả thị
trường xoay
quanh giá cả sản
xuất. Lúc này,
quy luật giá trị đã
biểu hiện ra thành
quy luật giá cả
sản xuất (Tổng
giá cả sản xuất
bằng tổng giá trị).
Câu 9 trình bày
đặc điểm kinh tế
cơ bản của chủ
nghĩa tư bản độc
quyền:1. Sự tập
trung sản xuất và
các tổ chức độc
quyền
a. Sự tập trung
sản xuất: là quá
trình thay thế các
xí nghiệp nhỏ, bố
trí phân tán bằng
cách xí nghiệp
lớn có đông công
nhân và làm ra
một khốI lượng
sản phẩm lớn.

Chính sự tích tụ
và tập trung tư
bản đã dẫn tớI sự
tích tụ và tập
trung sản xuất.
Nguyên nhân cụ
thể:
+ Đầu thế kỉ 20
trong các nước tư
bản sự cạnh tranh
diễn ra hết sức
gay gắt dẫn đến:
- 1 số nhà tư bản
có ưu thế về vốn
và kĩ thuật chiến
thắng và thôn tính
các xí nghiệp nhỏ
- Xuất hiện xu thế
thành lập các
công ty cổ phần
+ Đầu thế kỉ 20
do KHKT phát
triển nên đòi hỏI
vốn lớn để ứng
dụng được vào
sản xuất
+ Trong khủng
hoảng kinh tế chỉ
những xí nghiệp
lớn đủ khả năng

tồn tạI
+ Sự phát triển hệ
thống tín dụng tạo
điều kiện cho tập
trung sản xuất
Sự tập trung sản
xuất phát triển
đến một mức độ
nhất định sẽ làm
hình thành các tổ
chức độc quyền –
liên minh giữa
các nhà tư bản để
nắm phần lớn
việc sản xuất và
tiêu thụ 1 số loạI
hàng hóa nào đó
nhằm thu lợI
nhuận cao.
Các hình thức tập
trung sản xuất:
công ti cổ phần và
xí nghiệp liên
hiệp
b. Các tổ chức
độc quyền
Các hình thức tổ
chức độc quyền
cơ bản: cartel,
syndicate, trust,

consortium
Độc quyền và
cạnh tranh là 2
mặt trái ngược
nhau song ở các
nước đế quốc khi
xuất hiện các tổ
chức độc quyền
thì không thủ tiêu
được cạnh tranh
mà lạI làm cạnh
tranh gay gắt hơn
- Sự tồn tạI của
các tổ chức độc
quyền vẫn dựa
trên cơ sở của chế
độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu
sản xuất
- Ở các nước đế
quốc vẫn còn tồn
tạI các xí nghiệp
nhỏ chưa bị thôn
tính vào các tổ
chức độc quyền
- Trong các nước
đế quốc vẫn còn
sản xuất hàng hóa
của nông dân và

thợ thủ công
3 loạI cạnh tranh
trong chủ nghĩa
đế quốc: giữa các
tổ chức độc quyền
vớI nhau, giữa
các tổ chức độc
quyền vớI các xí
nghiệp ngoài độc
quyền, và ngay
trong nộI bộ từng
tổ chức độc quyền
2. Tư bản tài
chính và đầu sỏ
tài chính
a. Vai trò mới của
tư bản ngân hàng
Trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản
độc quyền, khi
trong công nghiệp
diễn ra tích tụ và
tập trung sản xuất
thì trong ngân
hàng cũng có tích
tụ và tập trung tư
bản, làm hình
thành nên các
ngân hàng lớn
cạnh tranh vớI

nhau – các tổ
chức độc quyền
trong ngân hàng.
Do nắm được
lượng tư bản tiền
tệ lớn, các ngân
hàng có khả năng
chi phốI nhiều
họat động kinh tế-
xã hội.
b. Tư bản tài
chính
Tư bản tài chính
là một loạI tư bản
được hình thành
trên cơ sở sự xâm
nhập lẫn nhau
giữa tư bản công
nghiệp và tư bản
ngân hàng. Tư
bản ngân hàng
vớI vai trò và địa
vị mớI của mình,
đã cử ngườI tham
gia vào các tổ
chức độc quyền
công nghiệp để
theo dõi việc sử
dụng vốn vay. Để
hạn chế sự chi

phốI của ngân
hàng, các nhà tư
bản công nghiệp
cũng can thiệp
vào họat động của
tư bản ngân hàng
bằng cách mua cổ
phiếu hoặc thành
lập ngân hàng cho
riêng mình. 2 quá
trình thâm nhập
ấy gắn kết vớI
nhau, làm cho tư
bản công nghiệp
và tư bản ngân
hàng dần trở nên
đồng nhất vớI
nhau, hình thành
nên tư bản tài
chính. Các nhóm
tư bản tài chính
có tiềm lực đủ
mạnh trở thành
các đầu sỏ tài
chính ( hay còn
gọI là tài phiệt ),
thực hiện thao
túng đờI sống
kinh tê- chính trị
ở các nước tư

bản.
3. Xuất khẩu tư
bản
a. Xuất khẩu hàng
hóa
Xuất khẩu hàng
hóa là thủ đoạn để
các nước tư bản
tiến hành bóc lột
các nước chậm
phát triển thông
qua trao đổI
không ngang giá
b. Xuất khẩu tư
bản
Xuất khẩu tư bản
cũng là xuất khẩu
giá trị ra nước
ngoài nhưng được
tiến hành dướI
hình thức đầu tư
tư bản ra nước
ngoài để bóc lột
giá trị thặng dư và
một số nguồn lợI
khác ở các nước
nhập khẩu tư bản.
Đây thực chất là
công cụ để các
tập đoàn tư bản

bóc lột các nước
chậm phát triển.
Xuất khẩu tư bản
là một tất yếu
trong thờI kì chủ
nghĩa tư bản độc
quyền vì:
Đầu thế kỉ 20 một
số nước tư bản đã
tích lũy được một
lượng vốn khổng
lồ mà nếu đầu tư
trong nước thì sẽ
thu được lợI
nhuận ít hơn so
vớI nếu đầu tư ở
nước ngoài
Các nước lạc hậu
về kinh tế thì
thiếu vốn nhưng
giá nhân công
thấp và nguyên
liệu lạI dồI dào
Các nước tương
đốI phát triển có
nhu cầu về vốn để
đổI mớI trang
thiết bị kĩ thuật
Những hình thức
xuất khẩu tư bản:

- Xuất khẩu tư
bản sản xuất:
nước xuất khẩu tư
bản đầu tư vốn để
xây mớI hoặc
mua lạI xí nghiệp,
đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng
- Xuất khẩu tư
bản cho vay:
nước xuất khẩu tư
bản cho chính phủ
hoặc tư nhân vay
tiền hoặc hàng
hóa, vật tư
4. Sự phân chia
thế giớI về kinh tế
Trong thờI kì tư
bản tự do cạnh
tranh, lượng hàng
hóa sản xuất ra
chưa lớn. Song
đến thờI chủ
nghĩa tư bản độc
quyền, lượng
hàng hóa được
sản xuất đã tăng
chóng mặt, làm
nảy sinh nhu cầu
về thị trường và

nguyên liệu ngoài
nước. Mặt khác,
hàng hóa đem bán
ở nước ngoài thu
được lợI nhuận
lớn hơn so vớI
hàng hóa đem bán
trong nước. Do
tầm quan trọng
của thị trường bên
ngoài, giữa các
nước đế quốc
diễn ra cuộc cạnh
tranh gay gắt để
giành giật thị
trường thế giớI,
hình thành nên
những thỏa thuận
có tính chất lũng
đoạn giữa các tổ
chức độc quyền
trong việc sản
xuất và tiêu thụ
một số loạI hàng
hóa, tạo nên
những tổ chức
độc quyền quốc tế
- liên minh giữa
các tổ chức độc
quyền lớn của các

nước để phân chia
thị trường thế
giớI, độc chiếm
nguồn nguyên
liệu, quy định quy
mô sản xuất của
từng tổ chức, định
ra giá cả độc
quyền nhằm thu
lợI nhuận độc
quyền cao.
5. Sự phân chia
thế giớI về lãnh
thổ
Sự phân chia thế
giớI về mặt lãnh
thổ là hệ quả tất
yếu của sự phân
chia thế giớI về
kinh tế, biểu hiện
ở việc các nước
đế quốc xâm
chiếm và thuộc
địa hóa những
nước chậm phát
triển hòng độc
chiếm nguồn
nguyên liệu, thị
trường tiêu thụ
hàng hóa và địa

điểm lập căn cứ
quân sự.
Quá trình phát
triển của chủ
nghĩa tư bản ở các
nước nói chung
diễn ra không
đều; có những
nước tư bản ra
đờI sau nhưng
kinh tế lạI phát
triển vượt bậc,
muốn đấu tranh
để phân chia lạI
thế giới. Phương
pháp phổ biến là
chiến tranh.
Câu 10
nguyên nhân
hình thành và
bản chất của chủ
nghĩa tư bản độc
quyền
Nguyên nhân
Thứ nhất, tích tụ
và tập trung tư
bản càng lớn thì
tích tụ và tập
trung tư bản càng
cao, do đó đẻ ra

những cơ cấu
kinh tế to lớn đòi
hỏi một sự điều
tiết xã hội đối với
sản xuất và phân
phối, một sư kế
hoạch hóa tập
trung từ một trung
tâm. Nói cách
khác sự phát triển
hơn nữa của trình
độ xã hội lực
lượng sản xuất đã
đến yêu cầu
khách quan là nhà
nước phải đại
biểu cho toàn bộ
xã hội quản lý
nền kinh tế.
Thứ hai, sự phát
triển của phân
công lao động xã
hội đã làm xuất
hiện một số ngành
mà các tổ chức
độc quyền tư bản
không thể hoặc
không muốn kinh
doanh đầu tư vì
vốn đầu tư lớn,

thu hồi vốbn
chậm, ít lợi
nhuận, nhất là các
ngành thuộc kết
cấu hạ tầng,
GTVT…
Thứ ba, sự thống
trị của độc quyền
đã làm sâu sắc
thêm sự đối
kháng giữa giai
cấp tư sản với gia
cấp vô sản và
nhân dân lao
động. Nhà nước
phải có những
chính sách xoa
dịu những mâu
thuẩn đó, như trợ
cấp thất nghiệp,
điều tiết thu nhập
quốc dân, phá
triển phúc lợi xã
hội…
Thứ tư, cùng với
xu thế quốc tế hóa
đời sống kinh tế,
sự bành trướng
của các liên minh
độc quyền quốc tế

vẫn vấp phải
những hàng rào
quốc gia dân tộc
và xung đốt lợi
ích với các đối
thủ trên thị
trường. Tình hình
đó đòi hỏi phải có
sự điều tiết các
quan hệ chính trị
và quan hệ kinh
tế; nhà nước tư
sản có vai trò
quan trọng trong
việc giải quyết
các quan hệ đó.
Bản chất
Chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà
nước là nấc thang
phát triển của chủ
nghĩa tư bản độc
quyền, là sự kết
hợp sức mạnh của
các tổ chức độc
quyền tư nhân với
sức mạnh của nhà
nước tư bản thành
một thiết chế và
thể chế thống nhất

nhằm phục vụ lợi
ích của các tổ
chức độc quyền
và cứu nguy cho
chủ nghĩa tư bản
Ở đây nhà nước
tư bản xuất hiện
như một chủ sở
hữu tư bản, một
nhà tư bản xã hội,
đồng thời lại là
người quản lý xã
hội bằng pháp
luật với bộ máy
bạo lực to lớn.
Như vậy chủ
nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước
là một quan hệ
kinh tế, chính trị,
xã hội, chứ không
chỉ là một chính
sách trong giai
đoạn độc quyền
của chủ nghĩa tư
bản.
Câu 11:tại sao
nói: sản xuất giá
trị thặng dư -
quy luật kinh tế

tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản.
Nêu sự hoạt
động của quy
luật giá trị thặng
dư trong giai
đoạn chủ nghĩ tư
bản độc quyền
Giá trị thặng dư là
một trong những
khái niệm trung
tâm của kinh tế
chính trị Mác -
Lênin. Các Mác
đã nghiên cứu và
đưa ra một số
công thức tính
toán xung quanh
khái niệm này
trong các tác
phẩm viết về kinh
tế chính trị của
ông. Nó được sử
dụng để khẳng
định lao động
thặng dư của công
nhân bị các nhà tư
bản lấy đi, là nền
tảng cho sự tích
lũy tư bản.

Học thuyết về giá
trị thặng dư
Học thuyết giá trị
thặng dư là phát
minh quan trọng
thứ hai sau biện
luận duy vật lịch
sử của Marx. Nội
dung chính của
học thuyết phát
biểu rằng sản xuất
và chiếm hữu giá
trị thặng dư là
hình thức đặc biệt
trong chủ nghĩa tư
bản về sản xuất
và chiếm hữu sản
phẩm thặng dư,
nghĩa là hình thức
cao nhất của sự
tha hóa con người
đối với hoạt động
của mình, đối với
sản phẩm từ hoạt
động đó, đối với
chính mình, đối
với người khác.
Trong học thuyết
này Marx đưa ra
công thức T-H-T’

(tiền-hàng hóa-
tiền) để minh họa
cho sự biến đổi
của vốn (tư bản)
dạng tiền sang
dạng hàng hóa và
cuối cùng quay
trở lại dạng tiền ở
mức cao hơn mức
ban đầu một
lượng ΔT (nghĩa
là T’=T+ ΔT).
Bởi tất cả giá trị
được tạo thành
trong quá trình
biến đổi thông
qua sản xuất hàng
hóa là do lao
động (theo
Thuyết giá trị về
lao động), mà chủ
yếu là lao động
của người làm
thuê, nên giá trị
thặng dư ΔT cũng
là giá trị do lao
động kết tinh.
Tuy nhiên, giá trị
này không được
chia đều cho

những người trực
tiếp làm ra nó, mà
thuộc quyền sở
hữu của chủ tư
bản.
Khác với công
thức H-T-H (hàng
hóa-tiền-hàng
hóa) phản ánh
chức năng trung
gian của tiền
trong trao đổi,
công thức T-H-T’
phản ánh sự luân
chuyển và tự phát
triển của tư bản.
Tư bản dưới dạng
tiền trở thành một
chủ thể tự thân,
đối lập với sức
lao động, bóc lột
sức lao động để
nuôi lớn mình lên.
Marx chỉ ra rằng
đó là quy luật vận
động của phương
thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Theo công thức
đã dẫn thì tư bản

có khả năng lớn
lên vô giới hạn.
Tuy nhiên Marx
cũng chỉ ra giới
hạn nhất định của
phát triển tư bản
do chi phối của
quy luật lợi nhuận
trung bình. Lợi
nhuận trung bình
xảy ra do sự cạnh
tranh tư bản giữa
các ngành kinh tế
khác nhau. Mặc
khác, do khả năng
chi trả trong thị
trường cho nhu
cầu tiêu dùng là
có hạn, nên điều
đó cũng kìm hãm
tốc độ vận động
của tư bản.
Hình thức cao
nhất của sự phát
triển tư bản là cho
vay lãi. Chủ nhân
của tư bản vay lãi
có cảm giác rằng
tiền đẻ ra tiền và
công thức vận

động của tư bản
biến thành T-T’.
Định nghĩa giá trị
thặng dư
Giá trị thặng dư
được Marx xem
là phần chênh
lệch giữa giá trị
hàng hóa và số
tiền nhà tư bản bỏ
ra. Trong quá
trình kinh doanh,
nhà tư bản bỏ ra
tư bản dưới hình
thức tư liệu sản
xuất gọi là tư bản
bất biến và bỏ ra
tư bản để thuê
mướn lao động
gọi là tư bản khả
biến. Tuy nhiên,
người lao động đã
đưa vào hàng hóa
một lượng giá trị
lớn hơn số tư bản
khả biến mà nhà
tư bản bỏ ra. Phần
dư ra đó gọi là giá
trị thặng dư.
Có thể lấy một ví

dụ như sau để giải
thích: Giả sử một
người lao động
trong một giờ làm
ra được giá trị sản
phẩm là 1000
đồng. Đến giờ thứ
hai trở đi, trên cơ
sở sức lao động
đã bỏ ra ở giờ thứ
nhất, người lao
động đó sẽ làm ra
được 1100 đồng.
Số tiền chênh lệch
đó chính là giá trị
thặng dư sức lao
động.
Các nhân tố ảnh
hưởng đến giá trị
thặng dư
* Năng suất lao
động
* Thời gian lao
động
* Cường độ lao
động
* Công nghệ sản
xuất
* Thiết bị, máy
móc

* Vốn
Câu10
Câu 12 sứ mệnh
lịch sử của giai
cấp công nhân?
Những điều kiện
khách quan quy
định sứ mệnh
lich sử của giai
cấp công nhân?
Trong thời đại xã
hội nào, những
người lao động
sản xuất trong các
ngành sản xuất
công nghiệp, dịch
vụ công nghiệp
hay những người
công nhân đều có
vai trò sáng tạo
chân chính ra lịch
sử và là những
người giữ vai trò
quyết định sáng
tạo công cụ sản
xuất, gía trị thặng
dư và chính trị xã
hội. Chủ nghĩa xã
hội khoa học là
một trong ba bộ

phận cấu thành
của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã
nghiên cứu một
cách toàn diện về
các quy luật chính
trị xã hội của quá
trình phát sinh,
hình thành và
phát triển của các
hình thái kinh tế
xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Trong
đó, chủ nghĩa xã
hội khoa học đã
tập chung nghiên
cưú những
nguyên tắc căn
bản, những điều
kiện, con đường,
hình thức,
phương pháp đấu
tranh của giai cấp
công nhân để thực
hiện chuyển biến
từ chủ nghĩa tư
bản sang chủ
nghĩa xã hội.
Từ vai trò to lớn
của giai cấp công

nhân, việc khẳng
định sứ mệnh lịch
sử của giai cấp
công nhân có ý
nghĩa quan trọng
cả về lý luận lẫn
thực tiễn.
Trước sự khủng
hoảng và sụp đổ
của chủ nghĩa xã
hội ở Đông Âu và
Liên xô, nhiều
người đã bộc lộ
sự dao động và
hoài nghi về sứ
mệnh lịch sử của
giai cấp công
nhân. Bọn cơ hội
xét lại và các thế
lực chống cộng có
cơ hội mới để phủ
nhận sứ mệnh lịch
sử của giai cấp
công nhân, vai trò
lãnh đạo của
Đảng cộng sản và
chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn
mới hiện nay,
công cuộc công

nghiệp hoá, hiện
đại hoá đang diễn
ra trên toàn thế
giới, chủ nghĩa xã
hội đang ở trong
thời kỳ thoái trào,
thời đại ngày nay
vẫn đang là thời
đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn
thế giới còn đang
có nhiều biến
động, tiêu cực
thì vấn đề làm
sáng tỏ sứ mệnh
lịch sử của giai
cấp công nhân
được đặt ra trở
nên bức thiết hơn
bao giờ hết, cả
trên hai phương
diện: lý luận và
thực tiễn.
Sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công
nhân là một phạm
trù cơ bản nhất
của chủ nghĩa xã

hội khoa học, do
đó nó đã được
C.Mác -
Ph.Ăngghen và
Lênin nghiên cứu
và phát triển hết
sức hoàn thiện
trong trong quá
trình phát triển
của lịch sử thế
giới. Xét trên
phương diện lịch
sử, những nhận
định và lý luận
của các ông về
giai cấp công
nhân có tác dụng
to lớn và đúng
đắn.Còn đối với
nước ta, vấn đề
trên được Đảng ta
rất chú trọng. Vì
thế, sứ mệnh lịch
sử của giai cấp
công nhân không
chỉ thể hiện rõ
trong các văn kiện
đại hội đại biểu
toàn quốc, mà đây
còn là một trong

những đề tài
nghiên cứu khoa
học của nhiều nhà
lý luận, nhà
nghiên cứu lịch
sử, và của nhiều
thế hệ công nhân,
sinh viên.
Sự tác động của
sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công
nhân không chỉ
ảnh hưởng tới sự
chuyển biến của
lịch sử thế giới là
thay đổi từ hình
thái kinh tế này
sang hình thái
kinh tế khác, thay
đổi từ chế độ kinh
tế này sang chế
độ kinh tế khác
mà còn làm thay
đổi tình hình kinh
tế chính trị xã hội
trên toàn thế giới,
nó tác động tới
quá trình sản xuất
cụ thể, tới bộ mặt
phát triển của thế

giới.
Như vậy, vấn đề
đặt ra là: sứ mệnh
lịch sử của giai
cấp công nhân là
gì? Nội dung,
điều kiện khách
quan quy định là
gì? Trên phương
diện lý luận và
thực tiễn, nó được
thể hiện ra sao?
Và để củng cố và
tăng cường sự
lãnh đạo của giai
cấp công nhân
cần phải tiến hành
những biện pháp
gì?
Diều kiện lịch
sử Luận thuyết về
sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công
nhân đã được C.
Mác và Ph. Ăng
ghen trình bày sâu
sắc trong Tuyên
ngôn của Đảng
Cộng sản. Trong
tác phẩm này các

ông đã chỉ rõ các
điều kiện khách
quan quy định sứ
mệnh lịch sử của
giai cấp công
nhân.
- Do địa vị kinh tế
- xã hội khách
quan, giai cấp
công nhân là giai
cấp gắn với lực
lượng sản xuất
tiên tiến nhất dưới
chủ nghĩa tư bản.
Và, với tính cách
như vậy, nó là lực
lượng quyết định
phá vỡ quan hệ
sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Sau
khi giành chính
quyền, giai cấp
công nhân, đại
biểu cho sự tiến
bộ của lịch sử, là
người duy nhất có
khả năng lãnh đạo
xã hội xây dựng
một phương thức
sản xuất mới cao

hơn phương thức
sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
- Giai cấp công
nhân, con đẻ của
nền sản xuất công
nghiệp hiện đại,
được rèn luyện
trong nền sản xuất
công nghiệp tiến
bộ, đoàn kết và tổ
chức lại thành
một lực lượng xã
hội hùng mạnh.
Bị giai cấp tư sản
áp bức, bóc lột
nặng nề, họ là giai
cấp trực tiếp đối
kháng với giai
cấp tư sản, và xét
về bản chất họ là
giai cấp cách
mạng triệt để nhất
chống lại chế độ
áp bức, bóc lột tư
bản chủ nghĩa.
Điều kiện sinh
hoạt khách quan
của họ quy định
rằng, họ chỉ có

thể tự giải phóng
bằng cách giải
phóng toàn xã hội
khỏi chế độ tư
bản chủ nghĩa.
Trong cuộc cách
mạng ấy, họ
không mất gì
ngoài xiềng xích
và được cả thế
giới về mình.
- Địa vị kinh tế -
xã hội khách quan
không chỉ khiến
cho giai cấp công
nhân trở thành
giai cấp cách
mạng triệt để nhất
mà còn tạo cho họ
khả năng làm việc
đó. Đó là khả
năng đoàn kết
thống nhất giai
cấp, khả năng đạt
tới sự giác ngộ về
địa vị lịch sử của
khả năng hành
động chính trị để
từng bước đạt
mục tiêu cách

mạng. Đó là khả
năng đoàn kết các
giai cấp khác
trong cuộc đấu
tranh chống tư
bản. Đó là khả
năng đi đầu trong
cuộc đấu tranh
của toàn thể dân
lao động và của
dân tộc vì sự
nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ
quốc. Đó là khả
năng đoàn kết
toàn thể giai cấp
vô sản và các dân
tộc bị áp bức trên
quy mô quốc tế
theo chủ nghĩa
quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới
đã chứng minh
những kết luận C.
Mác, Ph. ăngghen
và V.I. Lênin về
sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công
nhân là đúng đắn.
Tuy nhiên, cuộc

đấu tranh của giai
cấp công nhân
nhằm hoàn thành
sứ mệnh lịch sử
của mình không
phải diễn ra một
cách bằng phẳng,
thuận buồm xuôi
gió.
Phong trào đấu
tranh của giai cấp
công nhân tuy
đang đứng trước
những thử thách
hết sức nặng nề,
nhưng xem xét
toàn cảnh của sự
phát triển xã hội,
giai cấp công
nhân, lực lượng
sản xuất tiến bộ
vẫn đang chuẩn bị
những tiền đề
khách quan cho
thực hiện sứ
mệnh lịch sử của
mình dù có trải
qua những bước
thăng trầm, quanh
co, nhưng nó vẫn

tiếp tục diễn ra
theo quy luật
khách quan của
lịch sử.
Đúng là ở những
nước tư bản phát
triển, đời sống
của một bộ phận
không nhỏ trong
giai cấp công
nhân đã được cải
thiện, có thu nhập
cao; một bộ phận
công nhân ở các
nước trên đã có
mức sống "trung
lưu hóa", song
điều đó không có
nghĩa là công
nhân ở các nước
ấy không còn bị
bóc lột hoặc bị
bóc lột không
đáng kể.
Một thực tế đã,
đang và còn tồn
tại ngày càng sâu
sắc ở các nước tư
bản phát triển, đó
là sự bất công, bất

bình đẳng và thu
nhập càng cách xa
giữa giai cấp tư
sản với giai cấp
công nhân và
quần chúng lao
động. Dù có cố
gắng tìm cách
"thích nghi" và
mọi biện pháp
xoa dịu nhưng
giai cấp tư 35
sản không thể
khắc phục được
mâu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư
bản. Thực tế,
cuộc đấu tranh
của giai cấp công
nhân vẫn diễn ra
ở các nước tư bản
chủ nghĩa dưới
nhiều hình thức
phong phú, với
những nội dung
khác
Câu 14 cách
mạng xã họi chủ
nghĩa là gì?
Trinh` bay` mục

tiêu động lực và
nội dung của
CMXHCN
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một
cuộc cách mạng
nhằm thay thế chế
độ cũ, nhất là chế
độ tư bản chủ
nghĩa, bằng chế
độ xã hội chủ
nghĩa, trong cuộc
cách mạng đó,
giai cấp công
nhân là người
lãnh đạo và cùng
với quần chúng
nhân dân lao động
khác xây dựng
một xã hội công
bằng, dân chủ,
văn minh.
Theo nghĩa hẹp:
cách mạng xã hội
chủ nghĩa được
hiểu là một cuộc
cách mạng chính
trị được kết thúc
bằng việc giai cấp
công nhân cùng

với nhân dân lao
động giành được
chính quyền, thiết
lập nên nhà nước
chuyên chính vô
sản- nhà nước của
giai cấp công
nhân và quần
chúng nhân dân
lao động.
Theo nghĩa rộng:
cách mạng xã hội
chủ nghĩa là quá
trình cải biến một
cách toàn diện
trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống
xã hội từ kinh tế,
chính trị, văn hóa,
tư tưởng, v.v. để
xây dựng thành
công chủ nghĩa xã
hội và cuối cùng
là chủ nghĩa cộng
sản. Như vậy,
theo nghĩa rộng,
cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa
bao gồm cả việc
giành chính

quyền về tay giai
cấp công nhân,
nhân dân lao động
và cả quá trình
giai cấp công
nhân cùng với
quần chúng nhân
dân lao động tiến
hành cải tạo xã
hội cũ, xây dựng
xã hội mới trên tất
cả các lĩnh vực
đời sống xã hội,
tới khi xây dựng
thành công chủ
nghĩa xã hội thì
cuộc cách mạng
này mới kết thúc.
1. Mục tiêu
của cách mạng
xã hội chủ nghĩa
Cách mạng dân
chủ tư sản với
khẩu hiệu tự do,
bình đẳng, bác ái
đã tập hợp quần
chúng nhân dân
lao động trong
cuộc đấu tranh lật
đổ giai cấp quí

tộc, phong kiến.
Nhưng khi giai
cấp tư sản giành
được chính
quyền, thì mọi
quyền tự do, dân
chủ của quần
chúng nhân
dânlao động
không được tôn
trọng. Tự do
trong chế độ tư
bản chủ nghĩa là
tự do bóc lột của
giai cấp tư sản, tự
do bán sức lao
động của người
công nhân; tự do
bóc lột của nước
giàu với nước
nghèo, tự do
thống trị của nước
lớn với nước nhỏ,
v.v
Giải phóng con
người, giải phóng
xã hội là mục tiêu
của giai cấp công
nhân, của cách
mạng xã hội chủ

nghĩa, cho nên có
thể nói chủ nghĩa
xã hội mang tính
nhân văn, nhân
đạo sâu sắc. Chủ
nghĩa xã hội
không chỉ dừng
lại ở ý thức, ở
khẩu hiệu giải
phóng con người,
mà từng bước
thực hiện việc
giải phóng con
người "trên thực
tế, biến con người
từ vương quốc
của tất yếu sang
vương quốc tự
do", tạo nên một
thể liên hiệp
"trong đó sự phát
triển tự do của
mỗi người là điều
kiện cho sự phát
triển tự do của tất
cả mọi người"1.
Khi chúng ta nói
mục tiêu là cái
đích cần đạt tới,
do vậy, những

mục tiêu khả thi
nêu trên từng
bước biến thành
hiện thực thông
qua quá trìnhlao
động nhiệt tình
của quần chúng
nhân dân lao
động, thông qua
những biện pháp
tổ chức xã hội
một cách khoa
học trên tất cả các
lĩnh vực đời sống
xã hội của nhà
nước xã hội chủ
nghĩa, dưới sự
lãnh đạo của đảng
cộng sản.
Mục tiêu giai
đoạn thứ nhất của
cách mạng xã hội
chủ nghĩa là giành
lấy chính quyền
về tay giai cấp
công nhân và
nhân dân lao
động.
Mục tiêu giai
đoạn thứ hai của

cách mạng xã hội
chủ nghĩa là "xoá
bỏ mọi chế độ
người bóc lột
người nhằm đưa
lại đời sống ấm
no cho toàn
dân"2. Khi mà
"xoá bỏ tình trạng
người bóc lột
người thì tình
trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc
khác cũng sẽ bị
xoá bỏ"3.
2. Nội dung của
cách mạng xã
hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa được
tiến hành trên tất
cả các lĩnh vực
của đời sống xã
hội.
Trên lĩnh vực
chính trị: đưa
quần chúng nhân
dân lao động từ
địa vị nô lệ, làm
thuê, bị áp bức,

bóc lột trở thành
người làm chủ
nhà nước, làm
chủ xã hội, bằng
lao động sản xuất,
bằng cuộc đấu
tranh xoá bỏ
những cái xấu của
xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới
về mọi mặt làm
cho xã hội ngày
càng phát triển,
mức sống của
nhân dân ngày
càng nâng lên.
Muốn thực hiện
được những nội
dung nêu trên,
giai cấp công
nhân cùng với
nhân dân lao
động, dưới sự
lãnh đạo của đảng
cộng sản, dùng
bạo lực cách
mạng đập tan bộ
máy nhà nước của
giai cấp tư sản,
"giai cấp vô sản

mỗi nước trước
hết phải giành lấy
chính quyền, phải
tự vươn lên thành
giai cấp dân
tộc"1
Bước tiếp theo,
giai cấp công
nhân phải không
ngừng nâng cao
trình độ tri thức
về mọi mặt cho
quần chúng nhân
dân lao động, tạo
ra những điều
kiện cần thiết để
ngày càng mở
rộng dân chủ cho
nhân dân, thu hút
quần chúng nhân
dân lao động
tham gia vào công
việc quản lý nhà
nước, quản lý xã
hội, làm cho nhà
nước thực sự là
của dân, do dân,
vì dân.
Quá trình xây
dựng nền dân chủ

xã hội chủ nghĩa,
quá trình nhân
dân thực hiện
quyền làm chủ về
chính trị cũng là
quá trình đấu
tranh gay go
quyết liệt giữa cái
cũ và cái mới,
giữa cá nhân và
tập thể, giữa chủ
nghĩa cách mạng
và phản cách
mạng, v.v
Trên lĩnh vực
kinh tế: những
cuộc cách mạng
trước đây về thực
chất là cách mạng
chính trị. Chúng
kết thúc bằng việc
lật đổ ách thống
trị của giai cấp
này, thay thế bằng
sự thống trị của
giai cấp khác.
Cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa,
thực chất, là có
tính chất kinh tế.

Việc giành được
chính quyền về
tay giai cấp công
nhân, nhân dân
lao động mới là
bước đầu. Nhiệm
vụ trọng tâm, có ý
nghĩa quyết định
cho sự thắng lợi
của cách mạng xã
hội chủ nghĩa là
phải phát triển
kinh tế, không
ngừng nâng cao
năng suấtlao
động, cải thiện
đời sống nhân
dân.
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa trong
lĩnh vực kinh tế,
trước hết, phải
thay đổi vị trí, vai
trò của người lao
động đối với tư
liệu sản xuất, thay
chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản
chủ nghĩa bằng
chế độ sở hữu xã

hội chủ nghĩa
dưới những hình
thức thích hợp;
thực hiện những
biện pháp cần
thiết gắn ngườilao
động với tư liệu
sản xuất.
Trên cơ sở lực
lượng sản xuất
phát triển, năng
suất lao động
ngày càng tăng
cao, từng bước
cải thiện đời sống
nhân dân lao
động, nâng cao
chất lượng sức
khoẻ, năng lực
của người lao
động. Mặt khác,
dưới chủ nghĩa xã
hội, tìm mọi cách
phát huy tính tích
cực xã hội, khả
năng sáng tạo của
người lao động để
ngày càng nâng
cao năng suất lao
động, hiệu quả

công tác làm cho
nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa ngày
càng phát triển
góp phần chiến
thắng chủ nghĩa
tư bản.
2. Dưới chủ
nghĩa xã hội, có
điều kiện đưa tiến
bộ khoa học vào
sản xuất, góp
phần nâng cao
năng suất lao
động, tạo ra nhiều
của cải xã hội
phục vụ quần
chúng nhân dân
lao động, vì có sự
thống nhất về lợi
ích giữa cá nhân,
tập thể và xã hội.
Chủ nghĩa xã hội
thực hiện phân
phối theo lao
động, do vậy,
năng suất lao
động, hiệu quả
công tác là thước
đo đánh giá sự

đóng góp của mỗi
người cho xã hội.
Năng suất lao
động, hiệu suất
công tác là biểu
hiện cụ thể của
lòng yêu nước, ý
thức giai cấp, ý
thức dân tộc của
mỗi người ở trong
xã hội.
Trên lĩnh vực tư
tưởng - văn hoá:
Trong các xã hội
trước đây, giai
cấp bóc lột nắm
tư liệu sản xuất
vật chất, họ cũng
nắm luôn công cụ
thống trị về mặt
tinh thần. Dưới
chủ nghĩa xã hội,
giai cấp công
nhân và quần
chúng nhân
dânlao động đã là
những người làm
chủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu
của xã hội, do

vậy, cũng là
những sáng tạo ra
những giá trị tinh
thần của xã hội.
Ngườilao động là
người sáng tạo,
làm phong phú
thêm những giá
trị văn hoá tinh
thần của xã hội,
đồng thời cũng là
những người
hưởng thụ những
giá trị văn hoá
tinh thần đó.
Trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc
và nâng cao các
giá trị văn hoá
truyền thống của
dân tộc, tiếp thu
các giá trị văn hoá
tiên tiến của thời
đại, cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực văn hoá
thực hiện việc
giải phóng những
ngườilao động về
mặt tinh thần

thông qua việc
xây dựng từng
bước thế giới
quan và nhân sinh
quan mới cho
người lao động,
hình thành những
con người mới xã
hội chủ nghĩa,
giàu lòng yêu
nước, thương dân,
có bản lĩnh chính
trị, nhân văn,
nhân đạo, có hiểu
biết và biết giải
quyết đúng đắn
mốiquan hệ cá
nhân, gia đình và
xã hội , có năng
lực làm chủ xã
hội.
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa diễn ra
đồng thời trên các
lĩnh vực và các
lĩnh vực đó có
quan hệ mật thiết,
tác động, thúc đẩy
lẫn nhau.
Nhìn chung, cách

mạng xã hội chủ
nghĩa là một quá
trình cải biến toàn
diện xã hội cũ
thành xã hội mới,
trong đó công
cuộc cải tạo kết
hợp chặt chẽ với
công cuộc xây
dựng mà xây
dựng là chủ yếu.
Cải tạo đóng vai
trò như một
phương tiện phục
vụ cho mục tiêu
xây dựng xã hội
mới, ngược lại,
công cuộc xây
dựng xã hội mới
tạo ra những điều
kiện có ý nghĩa
quyết định để
triển khai công
cuộc cải tạo.
3. Động lực của
cách mạng xã
hội chủ nghĩa
"Tất cả những
phong trào lịch
sử, từ trước đến

nay, đều là do
thiểu số thực
hiện, hoặc đều
mưu lợi ích cho
thiểu số. Phong
trào vô sản là
phong trào độc
lập của khối đại
đa số, mưu lợi ích
cho khối đại đa
số"1.
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa với
mục đích giải
phóng giai cấp
công nhân, nhân
dân lao động ra
khỏi tình trạng áp
bức bóc lột, do
vậy, thu hút được
sự tham gia của
giai cấp công
nhân và các tầng
lớp nhân dân lao
động khác.
Giai cấp công
nhân ngày càng
tăng về số lượng,
nâng cao về chất
lượng, ngày càng

giác ngộ về lợi
ích giai cấp của
mình thông qua
sự lãnh đạo của
đảng cộng sản,
cho nên là động
lực cơ bản, chủ
yếu của cuộc cách
mạng xã hội chủ
nghĩa. Vai trò
động lực và vai
trò lãnh đạo của
giai cấp công
nhân là yếu tố
hàng đầu bảo đảm
cho sự thắng lợi
của cuộc cách
mạng xã hội chủ
nghĩa. Thực tế
lịch sử đã chỉ ra
rằng, khi nào và ở
đâu phong trào
công nhân vững
mạnh, sự lãnh đạo
của giai cấp công
nhân sáng suốt thì
cách mạng thắng
lợi, những lực
lượng phản động
quốc tế bị đẩy lùi.

ở đâu và khi nào
phong trào công
nhân suy yếu, sự
lãnh đạo của giai
cấp công nhân
giảm sút thì
phong trào cách
mạng sẽ gặp khó
khăn.
Giai cấp nông dân
có nhiều lợi ích
cơ bản thống nhất
với lợi ích của
giai cấp công
nhân, do vậy, giai
cấp này trở thành
động lực cách
mạng to lớn trong
cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình
đấu tranh giành
chính quyền, giai
cấp công nhân chỉ
giành thắng lợi
khi giai cấp nông
dân đitheo giai
cấp công nhân,
làm cho sức mạnh
của cách mạng

tăng lên. Trước
đây, C. Mác đã
chỉ ra, nếu giai
cấp công nhân
không thực hiện
được bài đồng ca
cách mạng với
giai cấp nông dân
thì bài đơn ca của
giai cấp công
nhân sẽ trở thành
bài ai điếu.
Trong quá trình
xây dựng chủ
nghĩa xã hội cũng
vậy, giai cấp công
nhân chỉ có thể
hoàn thành được
sứ mệnh lịch sử
khi đại đa số giai
cấp nông dân
đitheo giai cấp
công nhân, cùng
giai cấp công
nhân xây dựng xã
hội mới ngày
càng tốt đẹp trên
tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội.
Sự tham gia đông

đảo của giai cấp
nông dân vào
cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa
là điều kiện đảm
bảo sự lãnh đạo
của đảng, là cơ sở
xây dựng chính
quyền nhà nước
vững mạnh, xây
dựng một xã hội
quyền lực thuộc
về nhân dân. Giai
cấp nông dân là
lực lượngquan
trọng trong sự
phát triển kinh tế
của đất nước,
cùng với giai cấp
công nhân xây
dựng nền kinh tế
ngày càng phát
triển - điều kiện
đảm bảo cho sự
thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội đối
với chủ nghĩa tư
bản.
3.
Trong thời đại

khoa học công
nghệ, lượng giá
trị lao động chất
xám ngày càng
chiếm tỉ lệ cao
trong sản phẩm
hàng hoá, thì vai
trò động lực phát
triển xã hội của trí
thức lại càng cao.
Ngày nay, không
một sản phẩm nào
trong công
nghiệp, trong
nông nghiệp lại
không gắn với
khoa học công
nghệ.
Vai trò trí thức
ngày càng tăng
trong xã hội. Trí
thức ngày càng có
ý nghĩa to lớn với
sự phát triển đất
nước, nhưng trí
thức không bao
giờ trở thành lực
lượng lãnh đạo
cách mạng, vì họ
không đại biểu

cho bất cứ một
phương thức sản
xuất nào, không
có hệ tư tưởng
độc lập. Trí thức
phục vụ cho giai
cấp nào thì mang
ý thức hệ của giai
cấp đó. Trí thức
trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa
thì theo ý thức hệ
của giai cấp công
nhân - chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Báo cáo tổng kết
20 năm đổi mới
(1986-2006) của
Đảng đã chỉ rõ:
Để đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới,
phải tạo lập và
phát huy các động
lực của nó, có
như vậy mới giải
phóng được lực
lượng sản xuất,
giải phóng con
người.
- Phát huy sức

mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trên
nền tảng liên
minh giai cấp
công nhân, giai
cấp nông dân và
đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đây là
nguồn sức mạnh
và là động lực
chủ yếu bảo đảm
thắng lợi bền
vững của sự
nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ
quốc.
- Phát huy dân
chủ xã hội chủ
nghĩa vừa là mục
tiêu vừa là động
lực của công cuộc
đổi mới.
- Kết hợp hài hoà
lợi ích xã hội, tập
thể và cá nhân,
quan tâm lợi ích
thiết thân của con
người.
- Trong sự nghiệp

đổi mới, cần quan
tâm tới các động
lực khác rất quan
trọng, như phát
triển văn hoá, xây
dựng con người,
thi đua xã hội chủ
nghĩa, kể cả
động lực tinh thần
(tinh thần yêu
nước, yêu chủ
nghĩa xã hội,
ý chí vươn lên, tự
lực tự cường,
khoa học - công
nghệ ). Bản thân
đổi mới cũng là
một động lực của
sự phát triển.
Câu 15 trình bày
tính tất yếu
khách quan , nội
dung và nguyên
tắc của liên minh
giữa giai cấp
công nhân với
giai cấp nông
dân và các tầng
lớp lao động
khác trong cách

mạng xã hội chủ
nghĩa
Tính tất yếu của
liên minh giữa
giai cấp công
nhân với nông
dân
và trí thức
- Khi tổng kết
thực tiễn phong
trào công nhân ở
châu Âu, nhất là ở
Anh,
Pháp cuối thế kỷ
XIX, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã
khái quát thành lý
luận về
liên minh công,
nông và các tầng
lớp lao động
khác. Các ông đã
chỉ ra
nguyên nhân chủ
yếu của thất bại
trong các cuộc
đấu tranh là do
giai cấp
công nhân không
tổ chức được mối

liên minh với
"người bạn đồng
minh tự
nhiên" của mình
là giai cấp nông
dân. Do vậy,
trong các cuộc
đấu tranh
này, giai cấp công
nhân luôn đơn
độc và cuộc cách
mạng vô sản này
đã trở
thành "bài ca ai
điếu".
Trong điều kiện
đã phát triển cao
của chủ nghĩa tư
bản (chủ nghĩa đế
quốc), V.I. Lênin
đã vận dụng và
phát triển lý luận
của C.Mác,
Ph.Ăngghen
về tổ chức liên
minh công, nông
và các tầng lớp
lao động khác
trong Cách
mạng xã hội chủ

nghĩa Tháng
Mười Nga (1917).
Trong thời kỳ đầu
của
thời kỳ quá độ,
không chỉ có liên
minh công, nông
mà còn liên minh
với
các tầng lớp lao
động khác. Ngay
cả trong chuyên
chính vô sản, V.I.
Lênin
khẳng định:
"Chuyên chính vô
sản là một hình
thức đặc biệt của
liên minh
giai cấp giữa giai
cấp vô sản, đội
tiên phong của
những người lao
động, với
đông đảo những
tầng lớp lao động
không phải vô sản
(tiểu tư sản, tiểu
chủ,
nông dân, trí thức,

v.v.)"1. Chủ
nghĩa Mác -
Lênin xác định
trong thời kỳ
quá độ không chỉ
liên minh giữa
các giai cấp mà
bỏ qua các tầng
lớp lao
động khác mà
ngược lại, rất cần
phải liên minh với
họ để thực hiện
mục
tiêu chung do giai
cấp công nhân
lãnh đạo.
- Trong một nước
nông nghiệp đại
đa số dân cư là
nông dân thì vấn
đề
giai cấp công
nhân liên minh
với họ là điều tất
yếu. V.I. Lênin
đặc biệt lưu
ý mối liên minh
công, nông trong
các giai đoạn xây

dựng chủ nghĩa
xã hội:
"Nguyên tắc cao
nhất của chuyên
chính là duy trì
khối liên minh
giữa giai
cấp vô sản và
nông dân để giai
cấp vô sản có thể
giữ được vai trò
lãnh đạo
và chính quyền
nhà nước"2. Qua
mối liên minh
này, lực lượng
đông đảo
nhất trong xã hội
là nông dân, công
nhân được tập
hợp về mục tiêu
chung
là xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vì
lợi ích của toàn
thể dân tộc. Đây
là điều
kiện để giai cấp
công nhân giữ vai
trò lãnh đạo. Đó

chính là tính tất
yếu về
mặt chính trị - xã
hội, là yếu tố tiên
quyết.
Liên minh công -
nông - trí thức là
nhu cầu giữ vững
vai trò lãnh đạo
của giai cấp công
nhân, nhu cầu tự
giải phóng của
nông dân và nhu
cầu
phát triển của trí
thức.
Câu 16 trình bày
tính tất yếu
khách quan , đặc
điểm, thực chất
và nội dung của
thời kỳ quá độ
từ CNTB lên
CNXH
Tính tất yếu của
thời kỳ quá độ
từ CNTB lên
CNXH vì các lý
do:
-Chủ nghĩa xã hội

và CNTB khác
nhau về chất.
-Các quan hệ xã
hội của CNXH
không tự phát
sinh trong lòng
CNTB, chúng là
kết quả của quá
trính xây dựng và
cải tạo XHCN.
-Công cuộc xây
dựng XHCN là
một công việc
mới mẻ, khó khăn
và phức tạp, phải
có thời gian để
giai cấp công
nhân tưng bước
làm quen với
những việc đó
Đặc điểm và
thực chất của
thời kỳ quá độ
từ CNTB lên
CNXH:
-Thời kỳ quá độ
từ CNTB lên
CNXH là sự tồn
tại những yếu tố
của XH cũ bên

cạnh những nhân
tố mới của CNXH
trong mối quan hệ
vừa thống nhất
vừa đấu tranh với
nhau trên tất cả
các lĩnh vực của
đời sống kinh tế -
xã hội.
+ Trên lĩnh vực
kinh tế: thời kỳ
quá độ là thời kỳ
tất yếu tồn tại một
nền kinh tế nhiều
thành phần trong
một hệ thống kinh
tế quốc dân thống
nhất.
+ Trên lĩnh vực
chính trị: Thời kỳ
này bao gồm: G/C
cn, g/c nông dân,
tầng lớp trí thức,
những người sản
xuất nhỏ, tầng lớp
tư sản. Các g/c
này vừa hợp tác
vừa đâu tranh với
nhau.
+ Trong lĩnh vực

tư tưởng: Bên
cạnh tư tưởng
XHCN còn tồn tại
tư tưởng tư sản,
tâm lý tiểu nông.
Trên lĩnh vực văn
hóa cũng tồn tại
yếu tố văn hóa cũ
và mới, chúng
thường xuyên đấu
tranh với nhau.
Thực chất của
thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNXH
là thời kỳ diễn ra
cuộc đấu tranh
g/c. G/c tư sản bị
đánh đổ không
còn là g/c thống
trị và những thế
lực chống
pháCNXH với g/c
công nhân và
quần chúng nhân
dân lao động.
Nội dung thời kỳ
quá độ lên
CNXH:
Trong lĩnh vực
kinh tế: thực hiện

việc sắp xếp, bố
trí lại các lực
lượng sản xuất
hiện có trong xã
hội, cải tạo quan
hệ sản xuất cũ,
xây dựng quan hệ
sản xuất mới theo
hướng tạo ra sự
phát triển cân đối
của nên fkinh tế,
bảo đảm phục vụ
ngày càng tốt đời
sống nhân dân lao
động.
-Trong lĩnh vực
chính trị: Xây
dựng hệ thống
chính trị XHCN
vững mạnh.
-Trong lĩnh vực
tư tưởng – văn
hóa: tuyên
truyền , phổ biến
những tư tưởng
khoa học và cách
mạng của g/c
công nhân trong
toàn xã hội, xây
dựng văn hóa mới

XHCN, tiếp thu
tinh hoa của các
nền văn hóa trên
thế giới.
- Trong lĩnh vực
xã hội: Khắc phục
những tệ nạn do
xã hội cũ để lại,
khắc phục sự
chênh lệch phát
triển giữa các
vùng, các tầng lớp
trong XH, xây
dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa
người với người
theo nục tiêu lý
tưởng là tự do của
người này là điều
kiện, tiền đề cho
sự tự do của
người khác.
Câu 17 trình bày
đặc điểm thực
chất và nội dung
của thời kì quá
độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ
nghĩa xã hội
Đặc điểm và

thực chất của
thời kỳ quá độ
từ CNTB lên
XHCN:
- Thời kỳ quá độ
từ CNTB lên
CNXH là sự tồn
tại những yếu tố
của xã hội cũ bên
cạnh những yếu
tố mới của CNXH
trong mối qua hệ
vừa thống nhất
vừa đấu tranh với
nhau trên tất cả
các lĩnh vực của
đời sống xã hội
+Trên lĩnh vực
kinh tế: thời kỳ
quá độ là thời kỳ
tất yếu tồn tại một
nền kinh tế nhiều
thành phần trong
một hệ thống kinh
tế quốc dân thống
nhất.
+ Trên lĩnh vực
chính trị: Thời kỳ
này bao gồm: g/
cn, g/c nông dân,

tầng lớp trí thức,
những người sản
xuất nhỏ, tầng lớp
tư sản, các g/c
này vừa hợp tác
vừa đấu tranh với
nhau
+ Trên lĩnh vực tư
tưởng: Bên cạnh
tư tưởng XHCn
còn tồn tại tư
tưởng tư sản, tiểu
tư sản, tâm lý tiểu
nông. Trên lĩnh
vực văn hóa cũng
tồn tại yếu tố văn
hóa cũ và mới,
chúng thường
xuyên đấu tranh
với nhau.
- Thực chất
của thời kỳ quá
độ từ CNTB lên
CNXH là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu
tranh g/c. G/c tư
sản bị đánh đổ
không còn là g/c
thống trị và
những thế lực

chống pháCNXH
với g/c công nhân
và quần chúng
nhân dân lao
động.
Nội dung thời kỳ
quá độ lên
CNXH:
Trong lĩnh vực
kinh tế: thực hiện
việc sắp xếp, bố
trí lại các lực
lượng sản xuất
hiện có trong xã
hội, cải tạo quan
hệ sản xuất cũ,
xây dựng quan hệ
sản xuất mới theo
hướng tạo ra sự
phát triển cân đối
của nên fkinh tế,
bảo đảm phục vụ
ngày càng tốt đời
sống nhân dân lao
động.
-Trong lĩnh vực
chính trị: Xây
dựng hệ thống
chính trị XHCN
vững mạnh.

-Trong lĩnh vực
tư tưởng – văn
hóa: tuyên
truyền , phổ biến
những tư tưởng
khoa học và cách
mạng của g/c
công nhân trong
toàn xã hội, xây
dựng văn hóa mới
XHCN, tiếp thu
tinh hoa của các
nền văn hóa trên
thế giới.
- Trong lĩnh vực
xã hội: Khắc phục
những tệ nạn do
xã hội cũ để lại,
khắc phục sự
chênh lệch phát
triển giữa các
vùng, các tầng lớp
trong XH, xây
dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa
người với người
theo nục tiêu lý
tưởng là tự do của
người này là điều
kiện, tiền đề cho

sự tự do của
người khác.
Những đặc
trưng cơ bản xã
hội XHCN:
- Cơ sở vật
chất kỹ thuật của
CNXH là nền sản
xuất công nghiệp
hiên đại.
- Xã hội XHCN
đã xóa bỏ chế độ
tư hữu TBCN,
thiết lập chế độ
công hữu về tư
liệu sx.
- Xã hội XHCn
tạo ra cách tổ
chức lao động và
kỷ luật lao động
mới.
- Nhà nước
XHCn mang bản
chất g/c cn, tính
nhân văn rộng rãi
và tính dân tộc
sâu sắc, thực hiện
quyền lực và lợi
ích của ND.
- Xã hội XHCN là

chế độ đã giải
phóng con người
thoát khỏi áp bức
bóc lột, thực hiện
công bằng, bình
đẳng, tiến bộ xã
hội, tạo những
điều kiện cơ bản
để con người phát
triển toàn diện.
Câu 18
Thế nào là văn
hóa và nền văn
hóa. Trình bày
nội dung và
phương thức xây
dựng nền văn
hóa xã hội chủ
nghĩa
Khái niệm văn
hóa và nền văn
hóa:
Văn hóa là toàn
bộ những giá trị
vật chất và tinh
thần do con người
sáng tạo ra bằng
lao động và hoạt
động thực tiễn
trong quá trình

lịch sử của mình,
biểu hiện ở trình
độ phát triển xã
hội trong từng
thời kỳ lịch sử
nhất định.
Văn hóa vật chất
là năng lực sáng
tạo của con người
được biểu hiện và
kết tinh trong sản
phẩm vật chất.
Văn hóa tinh thần
là tất cả các tư
tưởng, lý luận và
giá trị được sáng
lập ra trong đời
sống tinh thần và
hoạt động tinh
thần của con
người.
Nền văn hóa là
biểu hiện cho toàn
bộ nội dung, tính
chất của văn hóa,
được hình thành
và phát triển trên
cơ sở kinh tế
chính trị của mỗi
thời kỳ lịch sử

trong đó có ý thức
hệ của g/c thống
trị chi phối
phương hướng
phát triển quyết
định hệ thống
chính sách, pháp
luật quản lý các
hoạt động văn
hóa.
Khái niệm văn
hóa XHCN:
Nền văn hóa
XHCN là nền văn
hóa được xây
dựng và phát triển
trên nền tảng hệ
tư tưởng của g/c
cn, do ĐCS lãnh
đạo nhằm thỏa
mãn nhu cầu
không ngừng tăng
lên về đời sống
văn hóa tinh thân
của ND, đưa ND
lao động thực sự
trở thành chủ thể
sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa.
Nội dung cơ bản

của nền văn hóa
XHCN:
- Xây dựng nền
văn hóa XHCN
gồm các nội dung
sau:
+ Cần phải nâng
cao dân trí, hình
thành đội ngũ trí
thức của XH mới.
+Xây dựng con
người mới, phát
triển toàn diện.
+Xây dựng lối
sống mới XHCN.
+ Xây dựng gia
đình văn hóa
XHCN.
Phương thức xây
dựng nền văn
hóa XHCN:
Để thực hiện
được những nội
dung chính của
nền văn hóa
XHCN, cần thực
hiện các phước
thức sau:
+ Giữ vững và
tăng cường vai trò

chủ đạo của hệ tư
tưởng g/c cn
trong đời sống
tinh thần của XH.
+ Không ngừng
tăng cường sự
lãnh đạo của ĐCS
và vai trò quản lý
của Nhà nước
XHCN đối với
hoạt động văn
hóa.
+ Xây dựng nền
văn hóa XHCN
phải theo phương
thức kết hợp giữa
việc kế thừa
những giá trị
trong di sản văn
hóa dân tộc với
tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn
hóa của nhân loại.
+ Tổ chức và lôi
cuốc quần chúng
ND vào các hoạt
động và sáng tạo
văn hóa.
Câu 19 Dân tộc
là gì? Trình bày

những nguyên lý
cơ bản của CN
Mác – Lê Nin
trong việc giải
quyết vấn đề dân
tộc?
Khái niệm dân
tộc:
Hiện nay, khái
niệm dân tộc
được hiểu theo
nhiều nghĩa, trong
đó có hai nghĩa
phổ biến:
- Dân tộc là khái
niệm để chỉ cộng
đồng người cụ thể
nào đó có những
mối liên hệ chặt
chẽ, bền vững, có
sinh hoạt kinh tế
chung, có ngôn
ngữ chung của
cộng đồng và
trong sinh hoạt
văn hóa, có
những nét đặc thù
so với những
cộng đồng khác,
xuất hiện sau

cộng đồng bộ lạc,
sự kế thừa và phát
triển từ những
nhân tố tộc người
ở các cộng đồng
bộ lạc, bộ tộc và
thể hiện thành ý
thức tự giác của
các thành viên
trong cộng đồng
đó.
- Dân tộc là khái
niệm dùng để chỉ
cộng đồng người
ổn định, bền
vững, hợp thành
ND của một quốc
gia, có lãnh thổ
chung, nền kinh
tế thống nhấtm
quốc ngữ chung,
có truyền thống
đấu tranh chung
trong quá trình
đấu tranh dựng
nước và giữ nước.
Những nguyên
tắc cơ bản của
CN Mác- Lê Nin
trong việc giải

quyết vấn đề dân
tộc:
- Các dân tộc
hoàn toàn bình
đẳng: Quyền bình
đẳng dân tộc là
quyền thiêng
liêng của mỗi dân
tộc trong mối
quan hệ với các
dân tộc khác.
- Các dân tộc
được quyền tự
quyết: Quyền dân
tộc tự quyết là
quyền làm chủ
của mỗi dân tộc
đối với vận mệnh
dân tộc mình,
quyền dân tộc tự
quyết bao gồm
quyền tự do độc
lập về chính trị,
tách ra thành lập
một quốc gia dân
tộc độc lập vì lợi
ích của các dân
tộc, đồng thời bao
gồm quyền tự
nguyện liên hiệp

với các dân tộc
khác trên cơ sở
bình đẳng cùng có
lợi để phát triển
quốc gia – dân tộc
- Liên hiệp công
nhân tất cả các
dân tộc: tạo nên
sức mạnh để g/c
cn & pt dân tộc có
thể giành thắng
lợi.
Liên hiệp công
nhân các dân tộc
là cơ sở vững
chắc để đoàn kết
các tầng lớp ND
thuộc các dân tộc
khác nhau trong
cuộc đấu tranh vì
độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội.
Câu 20 Tôn giáo
là gì? Trình bày
nhưng nguyên
tắc cơ bản của
CN Mác- Lê Nin
trong việc giải
quyết vấn đề tôn
giáo?

Khái niệm tôn
giáo:
Tôn giáo là một
hiện tượng xã hội
phản ánh sự bế
tắc, bất lực của
con người trước
tự nhiên và XH.
Tôn giáo ra đời
bởi nhiều nguồn
gốc khác nhau,
song cơ bản là từ
các nguồn gốc
kinh tế - XH, văn
hóa, chính trị thay
đổi.
Các nguyên tắc
cơ bản của CN
Mác – Lê Nin
trong việc giải
quyết vấn đề tôn
giáo:
- Khắc phục dần
những ảnh hưởng
tiêu cực của tôn
giáo trong đời
sống xã hội phải
gắn liền với quá
trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng

xã hội mới. Đó là
yêu cầu khách
quan của sự
nghiệp xây dựng
XHCN.
- Khi tín ngưỡng
tôn giáo còn là
nhu cầu tinh thần
của một bộ phận
quần chúng ND
thì NN XHCN
cần tôn trọng và
đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng và
quyền tự do
không tín ngưỡng
của mọi công dân.
- Thực hiện đoàn
kết giữa những
người theo với
những người
không theo một
tôn giáo nào, giữa
những người theo
các tôn giáo khác
nhau để xây dựng
và bảo vệ Tổ
quốc. Nghiêm
cấm mọi hành vi
chia sẻ vì lấy lý

do tín ngưỡng tôn
giáo.
- Phân biện rõ hai
mặt chính trị và
tư tưởng trong
việc giải quyết
vấn đề tôn giáo.
- Phải có quan
điểm lịch sử cụ
thể khi giải quyết
vấn đề tôn giáo.

×