Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Đánh giá sự tương quan giữa tính bền cấu trúc và các đặc tính đất trồng rau màu ở Đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.02 KB, 50 trang )

MỞ ĐẦU
Đất là một tài nguyên vô giá mà tự nhiên đã ban tặng cho con người để sinh tồn và
phát triển. Đất là tư liệu sản xuất, là đối tượng lao động, là vật mang được đặc thù bởi
tính chất độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có được – đó là độ phì nhiêu (Lê Văn
Khoa, 2004).
Đất được hình thành, phát triển và thoái hóa theo thời gian dưới tác động của điều
kiện tự nhiên và các hoạt động của con người (Wada, 2000).
Ngoài ra do dân số tăng nhanh do đó để đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước và
xuất khẩu thì việc áp dụng mô hình thâm canh tăng vụ ngày càng tăng dần trong khi
nguồn dưỡng chất trong đất thì có hạn.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lương thực trọng điểm của cả nước. Là
nơi được xem là có mức độ đa dạng hóa cao trong sản xuất nông nghiệp với diện tích
3.993.132 ha, sản xuất khoảng 50% tổng sản lượng lúa của cả nước. và đóng góp
khoảng 85% lượng gạo xuất khẩu của cả nước (Tôn Thất chiểu, 1991).
Tuy nhiên, trong những năm gần đây nhu cầu lương thực thực phẩm ngày càng tăng
trọng khá mạnh. Do đó, ngày càng có nhiều mô hình thâm canh tăng vụ để đáp ứng nhu
cầu lương thực trong nước và xuất khẩu.
Các mô hình thâm canh tăng vụ trên đất trồng lúa, đất trồng lúa kết hợp trồng màu
hoặc chuyên canh cây màu và việc không sử dụng phân hữu cơ cũng làm cho đất ngày
càng bị thoái hóa nghiêm trọng. Đất bị chai cứng, mất cấu trúc, trở nên nén dẽ dẫn đến
hạn chế sự phát triển của rễ cây trồng cạn, giảm lượng nước hữu dụng, giảm sự thoáng
khí trong đất từ đó ảnh hưởng đến năng suất cây trồng (Brady, 2002).
Các nghiên cứu về sự thoái hóa đất về vật lý, hóa học, sinh học ở Đồng bằng sông
Cửu Long cho thấy các vùng đất thâm canh 2-3vụ lúa /năm, trên đất chuyên màu và trên
các vườn cây ăn trái nhiều năm tuổi bước đầu nghiên cứu cho thấy sự giảm hàm lượng
chất hữu cơ, độ nén dẽ cao, hệ số thấm của nước thấp (Võ Thị Gương, 2004).
Theo Foley (1994), đối với các loại đất bị thoái hóa về mặt lý học, hoá học, mất cấu
trúc do hoạt động canh tác thì dưới tác động của mưa và việc tưới tiêu làm cho tập hợp
đất bị phân rã thành nhiều phần tử nhỏ hơn làm đóng váng và kết cứng bề mặt canh tác
khi đất khô. Từ đó làm tăng sự xói mòn, giảm tính thấm gây chảy tràn và rửa trôi dinh
dưỡng....



Còn theo Ramos (2003), thì ở Mỹ và Tây Ban Nha đã có một vài tác giả nghiên
cứu về mối quan hệ giữa tác động của mô hình mưa và tính bền cấu trúc lên sự xói mòn
của đất dốc. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long đến nay vẫn chưa có nghiên cứu đánh
giá một cách đầy đủ về tính bền cấu trúc và sự tương quan giữa tính bền cấu trúc với các
đặc tính của đất trồng rau màu. Vì vậy, đề tài “Đánh giá sự tương quan giữa tính bền
cấu trúc và các đặc tính đất trồng rau màu ở Đồng bằng sông Cửu Long” được
thực hiện nhằm giải quyết vấn đề trên.

CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Tầm quan trọng của rau màu đối với nền kinh tế xã hội
1.1.1 Gía trị dinh dưỡng
Rau màu là loại thực phẩm rất cần thiết cho mọi người trong đời sống hàng
ngày. Rau cũng là loại thực phẩm không thể thay thế. Bởi lẽ, cây rau cung cấp rất nhiều
chất dinh dưỡng quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người như: Protein, lipit,
vitamin, muối khoáng và nhiều chất quan trọng khác. Cây rau chứa hàm lượng vitamin
và khoáng chất hơn hẳn một số cây trồng khác. Có thể nói rau là thành phần quan trọng
trong mỗi bữa ăn hàng ngày của mỗi người. Chất khoáng từ rau màu chủ yếu là Canxi
(Ca), photpho (P), sắt (Fe),... chúng có tác dụng điều hòa, cân bằng kiềm toan trong
máu, là những chất cần thiết cho cấu tạo máu và xương.
Rau thuộc về nhóm cây hàng năm: cà, ớt, cà chua, cây họ đậu...Cây hai năm như
rau chân vịt, hành tây, tỏi, cải... và cây thân thảo lâu năm như măng...được trồng làm
thực phẩm.
Giá trị dinh dưỡng của các loại rau rất phong phú và đặc biệt quan trọng đối với
đời sống của loài người (Tạ Thu Cúc, 2005).

1.1.2. Ý nghĩa kinh tế
- Rau là loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao. Giá trị sản xuất của 1ha rau gấp
2-3 lần so với 1ha lúa. Hiệu quả lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào trình độ người sản xuất,

công nghệ sản xuất, kinh nghiệm và chủng loại rau màu. Nhìn chung, cây rau, màu có
thời gian sinh trưởng ngắn, có thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, do đó làm tăng sản
lượng trên đơn vị diện tích.
- Rau là loại cây lương thực. Như khoai tây được coi là một trong năm cây lương
thực trên thế giới sau lúa, ngô, mỳ, mạch. Khoai tây là nguồn tinh bột chủ yếu của nhiều
nước. Một vài loài cây trồng có hàm lượng cao cũng được sử dụng như lương thực:
khoai, củ từ...
- Rau là loại hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao. Đây là mặt hàng xuất khẩu quan
trọng, thu ngoại tệ mạnh của nhiều nước trên thế giới.
- Rau là nguyên liệu chế biến thực phẩm phong phú và quan trọng.

a. Giá trị y học
Rau chẳng những có giá trị dinh dưỡng mà chúng còn được sử dụng như những
cây dược liệu quý như: tỏi, hành hoa, gừng...
Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu và phát hiện
ra những khả năng kỳ diệu của một số loại rau trong phòng ngừa và trị một số bệnh nan
y. Trước hết là tỏi sau đó là các loại hành tây...

b. Giá trị xã hội
Khi ngành sản xuất rau màu được phát triển nhanh chóng và vững chắc sẽ góp
phần làm tăng thu nhập cho người lao động, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng. Đồng thời đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước.
Khi sản xuất rau màu được coi là một nghề, những khu chuyên canh rau màu
được mở rộng sẽ có điều kiện để sắp xếp lao động một cách hợp lý, giải quyết việc làm
cho nông dân trong những lúc nông nhàn.
Phát triển ngành sản xuất rau màu còn có điều kiện để hỗ trợ đối với ngành
khác trong nông nghiệp như cung cấp thức ăn và chất xanh cho chăn nuôi... (Tạ Thu
Cúc, 2005).
1.2. Kỷ thuật canh tác rau màu
Muốn trồng rau đạt năng suất cao, sản phẩm có giá trị hàng hóa cao, người trồng

rau nhất thiết phải nắm vững những biện pháp kỹ thuật cơ bản của nghề trồng rau. Nó
bao gồm một hệ thống liên hoàn các biện pháp kỹ thuật như làm đất, gieo hạt, bón phân,
tưới nước, phòng trừ sâu bệnh đến kỹ thuật thu hái.
1.2.1. Thời kỳ vườn ươm
Đặc điểm nổi bậc của nghề trồng rau là hầu hết hạt giống đều phải được ươm
trước khi đưa ra ruộng sản xuất đại trà.
Mặt khác, hầu hết các loại hạt giống rau, màu đều rất nhỏ, nên phải qua gieo ươm.
Khi gieo trên diện tích nhỏ sẽ thuận tiện cho quá trình chăm sóc (Phạm Hồng Cúc và
ctv, 2001).
Ngoài kỹ thuật gieo ươm truyền thống (gieo ngoài đất trồng), hiện nay còn có
nhiều cách gieo ươm đạt hiệu quả cao như gieo trong bầu, gieo hạt vào khai, gieo hạt

trong nhà lưới... làm như vậy sẽ hạn chế được tác động của khí hậu thời tiết khắc nghiệt
như nhiệt độ cao, mưa bão, ngập lụt... Mặt khác, ở thời kỳ 1-3 lá thật, hệ rễ yếu, khả
năng hút nước và chất dinh dưỡng kém, diện tích lá nhỏ nên quang hợp kém. Ở
thời kỳ vườn ươm, chúng ta cần chăm sóc hết sức cẩn thận, tỉ mỉ hồi phục cây trồng đạt
tiêu chuẩn cao (Tạ Thu Cúc, 2005).
1.2.2. Thời vụ gieo trồng
Rau màu là loại cây trồng rất mẫn cảm với sự thay đổi của điều kiện khí hậu thời
tiết như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, yêu cầu thời vụ rất nghiêm ngặt. Thời vụ không
thích hợp làm giảm năng suất và chất lượng (Tạ Thu Cúc, 2005).
Hơn nữa rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn, nên có yêu
cầu thời tiết khắt khe. Đảm bảo thời vụ là đảm bảo điều kiện tự nhiên tương tự như
những điều kiện của chính quê hương của loài rau màu đó để cho cây sinh trưởng và
phát triển thuận lợi nhất (Nguyễn Văn Thắng và ctv, 1999).
Nói chung, các loại rau mùa Đông có yêu cầu cường độ ánh sáng và thời gian
chiếu sáng tương đối ngắn (8-12 giờ) các loại rau mùa Hè lại yêu cầu ánh sáng có cường
độ mạnh và thời gian chiếu sáng dài (12-14 giờ/ ngày) (Nguyễn Văn Thắng và ctv,
1999)
Do đó, việc bố trí mùa vụ cũng như sắp xếp các cây trồng xen, gối cần tạo được

chế độ ánh sáng thích hợp để cây rau sinh trưởng (Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996).
Theo Trần Thị Ba và ctv, 1999 ở Đồng bằng sông Cửu Long có bốn vụ gieo trồng
chính:
- Đông Xuân gieo trồng từ tháng 10- tháng 11 dương lịch thu hoạch vào tháng 12-
tháng 1 dương lịch.
- Xuân Hè gieo trồng từ tháng 12- tháng 1 dương lịch thu hoạch vào tháng 4-tháng
5 dương lịch.
- Hè Thu gieo trồng từ tháng 4- tháng 5 dương lịch thu hoạch vào tháng 7 dương
lịch.
- Thu Đông gieo trồng từ tháng 8- tháng 9 dương lịch thu hoạch vào tháng 12-
tháng 1 dương lịch.

1.2.3. Làm đất
Bộ rễ các loài rau nói chung là ăn nông ở tầng mặt trong phạm vi 25-30 cm, do vậy
tính chịu hạn, chịu úng rất kém và lại dễ bị nhiễm sâu bệnh (Mai Thị Phương Anh và
ctv, 1996).
Mặc dù đất nào cũng có thể trồng được rau, nhưng tốt nhất là chọn những chân đất
cát pha thịt nhẹ hoặc thịt trung bình có tầng canh tác 20-30cm (Trịnh Thị Thu Hương,
2003).
Theo Trần Thị Ba và ctv (1999), đất trồng rau màu phải có lý – hóa tính tốt: Đất tơi
xốp, nhiều mùn, pH thích hợp (5,5-7), đất thịt nhẹ, thịt pha cát. Nếu là đất cát rời rạc,
giữ nước kém cần bón thêm sét, bùn ao, phơi ải kết hợp với phân hữu cơ. Nếu là đất sét
nặng khó thoát nước khó cày bừa cần bón thêm phân hữu cơ.
Tuy nhiên, tuỳ theo loại đất mà cách làm đất khác nhau; cày sâu, bừa kỹ giúp rễ
phát triển, nhưng không nên làm đất quá nhuyễn vì đất dễ bị lèn mặt sau này (Nguyễn
Bảo Vệ và ctv, 2005).
Theo Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996 thì có hai cách làm đất:
a. Làm đất vườn ươm:
Vườn ươm là nơi cây con sinh trưởng đầu tiên, nó có vai trò quan trọng quyết định
chất lượng giống do đó ảnh hưởng đến năng suất phẩm chất sau này.

Đất vườn ươm nên chọn loại đất nhẹ, tầng canh tác có thể không sâu nhưng chế độ
tưới tiêu tốt.
b. Ruộng sản xuất:
Bộ rễ loại rau nói chung là ăn nông ở tầng đất mặt trong phạm vi 25-30cm, do vậy
tính chịu hạn, chịu úng rất kém và lại hay bị nhiễm sâu bệnh, cho nên đất trồng rau nhất
thiết phải được chuẩn bị cẩn thận. Đất trồng rau cũng không đòi hỏi phải quá nhuyễn vì
nếu các kết tập đất quá nhỏ sẽ lấp hết các khoảng trống chứa khí cần thiết trong lòng
luống rau. Nói chung lớp đất trên mặt luống chỉ nên làm với kích thước 1-3 hoặc 5cm.
1.2.4. Nhu cầu nước cho rau màu

Rau là loại cây rất cần nước, đồng thời lại rất sợ úng.
Hàm lượng nước trong cây rau rất lớn, chiếm từ 75-95%, vì vậy có thể nói nước là
nguyên nhân hạn chế lớn nhất đến năng suất, chất lượng cây rau hơn bất kì yếu tố nào
khác.
Nếu thiếu nước cây rau sinh trưởng kém, thấp, còi cọc, dẫn đến năng suất và chất
lượng giảm. Nếu thừa nước cây sinh trưởng mềm yếu, nồng độ đường và các chất hòa
tan giảm. Mặt khác, nước dư thừa trong các bộ phận làm cho cây rau - màu trở nên non,
mềm dễ bị hư hỏng (Dương Hồng Dật, 2003).
Nước là thành phần cơ bản cấu tạo nên chất nguyên sinh, các quá trình trao đổi
chất trong cây như: quá trình tổng hợp và phân giải chất hữu cơ, quá trình quang hợp, sự
vận chuyển vật chất trong cây (Bùi Hiếu và ctv, 2000); là dung môi hòa tan các chất,
duy trì độ căng tế bào, làm cho cây ở trạng thái cân bằng, nước còn có tác dụng quan
trọng trong quá trình điều chỉnh sự đóng mở của khí khổng, sự giãn mở và lớn lên của lá
(Tạ Thu Cúc, 2005).
Có thể dùng công thức sau để xác định lượng nước tưới cho rau màu (Tạ Thu Cúc,
2005).
m = 100*H*A(B-R)
Trong đó:
m: lượng nước cần tưới (m
3

/ha).
H: độ sâu (m).
A: tỷ trọng đất (tấn/m
3
).
B: độ ẩm đồng ruộng (% đất khô tuyệt đối).
R: độ ẩm đất (% đất khô tuyệt đối khi tưới).
1.2.5. Nhu cầu phân bón
Rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn nhưng lại cho một
khối lượng sản phẩm (năng suất, sản lượng) rất cao, từ 20-60 tấn/ha. Do vậy cây rau
màu đòi hỏi phải được bón nhiều phân và đất trồng rau phải là đất tương đối tốt (Mai
Thị Phương Anh, 1999).
Nguyên tắc chung khi bón phân cho rau là cần bón phối hợp phân hữu cơ và vô cơ,
bón đúng liều lượng, cân đối và đúng thời kì.

Bón phân hóa học vào đất sẽ làm thay đổi tính chất lý- hóa học của đất, đặc biệt
làm thay đổi hóa tính của đất (Tạ Thu Cúc, 2005).
Tất cả các loại rau màu đều cần dinh dưỡng rất lớn, do vậy nó cần phải cung cấp
đầy đủ dinh dưỡng trong quá trình sinh trưởng, sự cung cấp này phụ thuộc vào lượng
dinh dưỡng có trong đất và nguồn phân bón bổ sung (Nguyễn Văn Hòa, 2006).
Ngoài ra, đối với loại đất nhẹ, tơi xốp thì có thể tăng cường bón đạm vô cơ, giảm
khối lượng phân hữu cơ. Đối với đất nặng, chặt thì cần tăng cường bón phân hữu cơ
giàu đạm là chủ yếu, đồng thời kết hợp với phân vô cơ để tăng hiệu quả của phân bón.
Khi xác định liều lượng phân bón cần phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế, chú ý đến
lượng NO
3
-
trong sản phẩm khi bón các dạng đạm từng chủng loại, hàm lượng N, P, K
trong sản phẩm và trong đất, chất dinh dưỡng bị giữ lại trong đất hoặc bị rửa trôi (Tạ
Thu Cúc, 2005).

Bên cạnh đó, phân chuồng là loại phân bón tương đối đầy đủ các thành phần dinh
dưỡng mà cây rau màu yêu cầu. Phân chuồng có tỷ lệ mùn cao, có tác dụng cải tạo đất,
giữ nhiệt và khí cho tầng đất mặt, loại dinh dưỡng trong phân chuồng có tác dụng từ từ
nên việc bón phân vô cơ bổ sung là biện pháp cần thiết, và phải hài hòa với lượng phân
chuồng đã bón thì mới cho năng suất cao, phẩm chất tốt, đảm bảo không có lượng
nitrate dư thừa trong cây quá nhiều ngoài ngưỡng cho phép (Mai Thị Phương Anh,
1996).
Có hai cách bón phân cho rau màu:
 Bón lót: thường dùng với phân chuồng và phân vô cơ chậm tan như lân, kali và
vôi (cung cấp cho cả quá trình sinh trưởng của cây) và một phần lượng phân đạm cung
cấp cho rau màu ở giai đoạn cây con (khoảng 1/4-1/3 lượng phân đạm cần thiết).
 Bón thúc: là cách bón bổ sung vào những giai đoạn cây cần dinh dưỡng nhất để
sinh trưởng, phát triển và tạo sản phẩm. Bón thúc thường dùng các loại phân dễ hòa tan,
dễ tiêu như phân chuồng ngâm ủ, phân bắc nước giải ngâm mục, phân đạm và kali.
Biện pháp bón phân ngoài rễ là biện pháp đang được sử dụng. Đó là phương
pháp bón phân lên lá - sử dụng các loại phân đã được tổng hợp, với ưu điểm là tiết kiệm
phân và hiệu quả cao. Tuy nhiên chỉ áp dụng tốt trong trường hợp đã được bón đầy đủ
phân chuồng và các phân đa lượng khác (Mai Thị Phương Anh, 1996).

Bảng 1. Lượng các nguyên tố dinh dưỡng chính và lượng cần bón cho
một tấn sản phẩm (kg/ha) (theo Mai Thị Phương Anh, 1996).
Loại rau Thời gian
sinh trưởng
Lượng cây lấy đi Lượng cần bón
N P K N P K
Cải bắp
Xà lách
cuốn
Rau bina
Cà rốt

Cà chua
Dưa chuột
120
60
60
120
150
100
100
3,5
2,2
3,6
3,2
2,6
1,7
3,0
1,3
0,8
1,8
1,3
0,4
1,4
1,2
4,3
5,0
5,2
5,0
3,6
2,6
4,0

5
2,5
4
3,2
4,5
3,5
7
5
2,5
4
3
4,5
2,5
5
6
6
7
5
5
4
5
1.2.6. Phòng trừ sâu bệnh
So với các loại cây trồng chuyên canh khác, rau màu là loại cây trồng có nhiều sâu
bệnh hơn cả. Do nó là cây ngắn ngày, lại ít có những trợ thủ tự nhiên để làm thiên địch
đối với các loại sâu bệnh hại. Mặt khác, chúng được gieo trồng suốt bốn mùa trong năm
do đó sâu bệnh dễ tồn tại, tiềm năng, ẩn náo tạo điều kiện cho sâu bệnh thích nghi
(Nguyễn Văn Thắng, 1999).
Theo Phạm Hồng Cúc và ctv (2001), cho rằng nếu áp dụng các biện pháp phòng trừ
sâu bệnh hữu hiệu thì năng suất rau màu có tăng thêm 30%.
Theo Trần Thị Ba và ctv (1999), có nhiều biện pháp phòng trừ sâu bệnh như: khử

hạt giống, cải thiện môi trường, luân canh, xen canh, sử dụng giống kháng, sử dụng
thiên địch, tạo hình và dùng thuốc hóa học.
1.2.7. Thu hoạch
Rau là loại cây trồng ngắn ngày lại có hàm lượng nước cao, sử dụng chủ yếu là sản
phẩm tươi. Do vậy thu hoạch rau màu phải đúng lứa, đúng kỳ mới đảm bảo chất lượng.
Không nên thu hoạch quá non hay quá già, nếu thu non giảm năng suất sản phẩm từ 20-
30% đối với các loại rau ăn quả chín nếu thu quá già hàm lượng chất dinh dưỡng hay
chất lượng sản phẩm giảm (Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996).

1.3. Ảnh hưởng của việc canh tác rau màu đến môi trường
1.3.1. Ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích đất nông nghiệp trên 2 triệu ha,
hàng năm cung cấp trên hai phần ba tổng sản lượng lương thực. Do đó, để sản xuất sản
lượng lương thực lớn cho cả nước nông dân đã sử dụng một phần lớn thuốc bảo vệ thực
vật, không chỉ riêng trên cây lương thực mà tất cả các loại cây trồng tại ĐBSCL đều sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật với liều lượng cao (Nguyễn Thị Thu Cúc, 1998).
Trong thực tế, tình trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học một cách
tùy tiện, liên tục, quá liều đã gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con
người, môi trường nước, không khí, đặc biệt là môi trường đất (Hoàng Xuân Thực,
2005).
Mặt khác, việc thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng thì nó đòi hỏi một
lượng lớn phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Nếu sử dụng đúng liều và đúng cách
thì ít ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người. Thuốc bảo vệ thực vật là chế
phẩm có nguồn gốc từ hóa chất, thực vật, động vật, vi sinh vật và các chế phẩm khác
dùng để phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật. Đặc điểm của thuốc bảo vệ thực
vật là chúng đều có khả năng gây ô nhiễm cho đất và hoạt tính của chúng sẽ là chất độc
cho con người và động vật (Lê Huy Bá, 2000).
Thuốc bảo vệ thực vật gồm thuốc trừ sâu, trừ nấm, côn trùng, tuyến trùng, diệt cỏ,
kích thích..., là các hợp chất hóa học hữu cơ hay vô cơ. Trong đất nó làm cho cơ lý tính
đất giảm sút, khả năng diệt khuẩn cao nên đồng thời cũng diệt nhiều vi sinh vật có ích

trong đất. Đặc biệt, trên các vùng đất có trình độ thâm canh cao thường có sâu bệnh
nhiều nên phải sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật. Trong quá trình sử dụng
thuốc thì lượng nước tưới hay mưa làm cho các loại thuốc này ngấm dần vào đất (Võ
Thị Gương, 2003).
Theo Raynet et al (1996) cho biết việc sử dụng nông dược một cách thường xuyên,
liên tục với liều lượng lớn đã làm giảm sự phong phú về loài và số lượng quần thể của
các loài vi sinh vật trong đất.
1.3.2. Ảnh hưởng của việc sử dụng phân hóa học đối với môi trường đất
Mặc dù có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn nhưng cây rau màu lại đòi hỏi
một lượng dinh dưỡng rất lớn. Do vậy, để tăng năng suất người ta thường bón một
lượng phân hóa học lớn chủ yếu là đạm, lân, kali. Nhưng trong đó phân đạm được dùng

với liều lượng nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng chính là nguyên nhân chủ yếu gây ô
nhiễm môi trường đất, nhất là khi chúng ta không sử dụng đúng với liều lượng khuyến
cáo, dẫn đến hiện tượng đất bị chua hóa, hàm lượng các chất vôi giảm, kết cấu đất kém,
hoạt động của các vi sinh vật trong đất giảm, có sự tích động nitrat kim loại nặng một số
vùng.
Sự lạm dụng hoặc sử dụng phân bón không đúng cách dĩ nhiên có thể tạo các ảnh
hưởng bất lợi cho đất như gây mặn cho đất, kém thoát thủy và tưới thừa (Ngô Ngọc
Hưng và ctv, 2004).
Khi cung cấp đạm cây chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30%, số còn lại bị rửa trôi,
phần thì nằm trong đất. Nếu cây trồng được bón phân đầy đủ sẽ tạo ra hệ thống rễ nhiều
hơn và lượng dư thừa thực vật được phân hủy sẽ góp phần cải thiện cấu trúc đất, hàm
lượng hữu cơ và khả năng giữ nước, và do dó nó cải thiện độ phì nhiêu đất. Ngược lại
lượng phân hóa học được bón vào đất không được cây trồng hút hoàn toàn. Một số
lượng dưỡng chất được giữ lại trong đất và tiếp tục cung cấp cho cây trồng vụ sau, một
số bị chảy tràn hoặc rửa trôi do mưa (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
Khi tích lũy các hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho đất về mặt cơ lý tính, đất
nén chặt, độ trương co kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà trở nên chai cứng, vi
sinh vật ít đi và bị hóa chất hủy diệt (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999).

1.4. Các tính chất vật lý đất trên đất trồng rau màu
1.4.1 Thành phần cơ giới
Thành phần cơ giới là tỷ lệ giữa các cấp hạt cát, thịt, sét trong đất (Henry D.Foth,
1990).
Theo Trần Kông Tấu (2005), thành phần cơ giới (còn gọi là thành phần cấp hạt)
của đất là hàm lượng phần trăm (%) của những nguyên tố cơ học có kích thước khác
nhau khi đoàn lạp đất ở trong trạng thái bị phá hủy.
Thành phần cơ giới khác nhau sẽ dẫn đến sự khác nhau về tỷ trọng, dung trọng đất,
tính kết dính, khả năng hấp phụ trao đổi ion và khả năng dự trữ dinh dưỡng trong đất
(Mai văn Quyền và ctv, 2005).
Đất có thành phần cơ giới nặng, giàu cấp hạt sét làm cho khả năng giữ nước của
đất tốt, hấp phụ được nhiều chất dinh dưỡng, có khả năng chống rửa trôi. Ngược lại, đối
với những loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo cấp hạt sét, chủ yếu là cấp hạt thô,

khả năng giữ nước, hấp thu những chất dinh dưỡng kém, độ thấm cao, các chất dinh
dưỡng dễ bị rửa trôi...có thể nói thành phần cơ giới là một trong những yếu tố quyết
định độ phì nhiêu của đất (Trần Kông Tấu, 2005).
Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong cấp hạt nhỏ nhiều nên đất sét tốt hơn đất cát.
Ở đất có tỉ lệ hạt nhỏ, về cơ bản là giàu dinh dưỡng là do khả năng giữ dinh dưỡng của
nó tốt hơn đất có tỉ lệ cát cao. Tuy nhiên, nếu đất sét không được bổ sung dinh dưỡng và
không có biện pháp bảo vệ thì vẫn bị thoái hóa (Trần Trọng Nghĩa, 2004).
Về tính chất vật lý nước và cơ lý đất cho thấy khi kích thước hạt giảm đã làm
giảm tốc độ thấm nước, tăng tính mao dẫn, tăng tính trương co, tăng lượng hút ẩm lớn
nhất và tăng sức dính cực đại. Thành phần và tính chất hóa lý của các cấp hạt khác nhau
thì khác nhau đã dẫn đến sự thay đổi quan trọng về tính chất trong đất khi có các tỉ lệ
cấp hạt khác nhau (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
Theo Lê Văn Khoa (2004), thì sự suy thoái về cấu trúc thường xảy ra ở các vùng có
vũ lượng cao, thường hay ngập lũ, bơm tưới nhiều trong canh tác, đất dễ bị gley giả và
hệ thống thoát nước kém.
Đối với đất có tỷ lệ sét cao, hàm lượng chất hữu cơ thấp và thời gian canh tác càng

lâu thì tình trạng nén dẽ của đất dễ dàng xảy ra (Võ Thị Gương, 2004).
1.4.2. Phân loại đất theo thành phần cơ giới
Việc phân loại đất theo thành phần cơ giới có ý nghĩa rất quan trọng nhất là việc
ứng dụng trong sản xuất. Nông dân khi canh tác trên đất đã biết phân ra: cát, cát pha
thịt, đất sét,…vì mỗi loại như vậy lại thích hợp cho mỗi loại cây trồng nhất định.
Trên thế giới có rất nhiều bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới nhưng có các
dạng phân loại: theo Mỹ, Liên Xô (cũ), và quốc tế (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).

Bảng 2. Phân loại đất theo thành phần cơ giới của Liên Xô (cũ)
(Theo N.A.Kasinsky)
Tên gọi % Sét vật lý % Cát vật lý
Đất
potzon
Đất đỏ
vàng thảo
nguyên
Đất mặn Đất
potzon
Đất đỏ
vàng thảo
nguyên
Đất mặn
Đất cát rời
Đất cát dính
Đất cát pha
0-5
5-10
10-20
0-5
5-10

10-20
0-5
5-10
10-25
100-95
95-90
90-80
100-95
95-90
90-80
100-95
95-90
90-85
Đất thịt nhẹ
Đất thịt trung bình
Đất thịt nặng
20-30
30-40
40-50
20-30
30-45
45-60
15-20
20-30
30-40
80-70
70-60
60-50
80-70
70-55

55-40
85-80
80-70
70-60
Đất sét nhẹ
Đất sét trung bình
Đất sét nặng
50-65
65-80
>80
60-75
75-85
>85
40-50
50-65
>65
50-35
35-20
<20
40-25
25-15
<15
60-50
50-35
<35
Hình 1. Tam giác sa cấu theo USDA/ Soil Taxonomy (Mỹ)

Bảng 3. Bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới của quốc tế (Nguyễn Thế Đặng
và ctv, 1999).
Loại đất % Trọng lượng

Cát
2-0.02mm
Bụi
0.02-0.002mm
Sét
0.002-0.0002mm
Cát 1.Đất cát 85-100 0-5 0-15
Thịt 1. Đất cát pha
2. Đất thị pha cát
3. Đất thịt nhẹ
55-85
40-54
0-55
0-45
30-45
45-100
0-15
0-15
0-15
Thịt nặng 5.Đất thịt trung bình
6.Đất thịt nặng
7.Đất sét nặng
55-85
30-55
0-40
0-30
20-45
45-75
15-25
15-25

15-25
Sét 8.Đất sét pha cát
9.Đất sét pha thịt
10.Đất sét trung bình
11.Đất sét
12.Đất sét nặng
55-75
0-30
10-55
0-55
0-35
0-20
45-75
0-45
0-55
0-35
25-45
25-45
25-45
45-65
65-100
1.4.3.Tính chất các loại đất có thành phần cơ giới khác nhau
Thành phần cơ giới đất ảnh hưởng lớn đến tính chất đất và cây trồng. Khi tỷ lệ các
cấp hạt có kích thước khác nhau, ở mỗi loại đất, mỗi tầng đất khác nhau, sẽ tác động
trực tiếp đến tính chất đất là khác nhau và từ đó ảnh hưởng đến cây trồng.
 Đất cát:
Hình 2. Sự sắp xếp các hạt cát

Cấp
hạt gọi

Tên
Do có cấp hạt cát chiếm đa số nên đất cát có tính chất đặc trưng sau:
- Thành phần cơ giới thô (nhẹ), khe hở giữa các hạt lớn nên thoát nước dễ, thấm
nước nhanh nhưng giữ nước kém (dễ bị khô hạn).
- Thoáng khí, vi sinh vật háo khí hoạt động mạnh làm cho quá trình khoáng hóa
chất hữu cơ và mùn xảy ra mãnh liệt. Vì vậy đất cát thường nghèo mùn.
- Đất cát nóng nhanh, lạnh nhanh gây bất lợi cho cây trồng và vi sinh vật.
- Đất cát khi khô rời rạc nên dễ cày bừa, ít tốn công, rễ cây phát triển dễ nhưng cỏ
mọc cũng nhanh. Khi đất cát gặp mưa to hay do nước tưới sẽ bị bí chặt.
- Đất cát chứa ít keo, dung tích hấp thu thấp, làm cho khả năng giữ nước kém. Khi
bón phân quá nhiều sẽ làm cây bị lốp đổ và mất dinh dưỡng do rửa trôi.
Do đặc điểm như vậy nên khi sử dụng đất cần hết sức lưu ý, như nên bón phân chia
làm nhiều lần, vùi sâu. Đất cát nên ưu tiên trồng cây lấy củ như: khoai lang, khoai tây,
lạc...
Để cải tạo đất cát cần tăng lượng sét trong đất bằng biện pháp cày sâu lật sét, bón
bùn ao, tưới nước phù sa mịn và bón phân hữu cơ.
 Đất sét:
Hình 3. Sự sắp xếp các hạt sét
Đặc trưng của đất sét thể hiện ở các mặt sau:
- Đất sét khó thấm nước nhưng giữ nước tốt. Biên độ nhiệt độ đất sét thấp hơn đất
cát.
- Đất sét kém thoáng khí, hay bị glây. Chất hữu cơ phân giải chậm nên đất sét tích
lũy mùn nhiều hơn đất cát. Mặt khác, sét - mùn là phức chất bền vững nên cũng tăng
khả năng tích lũy.
- Đất sét mà nghèo chất hữu cơ thì có sức cản lớn, cứng chặt, làm đất khó và khi bị
hạn thì sẽ nứt nẻ làm đứt rễ cây trong đất.

- Đất sét chứa nhiều keo nên về cơ bản có dung tích hấp thu lớn, giữ nước, giữ
phân tốt nên ít bị rửa trôi (nhìn chung đất sét chứa nhiều dinh dưỡng hơn đất cát).
Nhưng nhiều khi đất sét giữ quá chặt dinh dưỡng nên cây trồng không hút được.

Đất sét khi khi thác sử dụng nên lưu ý bón phân hữu cơ và vôi. Nếu đất quá sét thì
có thể bón cát, hay tưới nước phù sa thô.
 Đất thịt:
Hình 4. Sự sắp xếp các hạt thịt
Đất thịt mang tính chất trung gian giữa đất sét và đất cát. Tùy theo tỷ lệ cát và sét
trong đất thịt mà sẽ thiên về hướng có tỷ lệ lớn.
Nhìn chung đất thịt nhẹ và đất thịt trung bình có chế độ nước, nhiệt, không khí
điều hòa thuận lợi cho quá trình lý hóa xảy ra trong đất. Mặt khác, cày bừa, làm đất
cũng nhẹ nhàng. Đa số cây trồng sinh trưởng và phát triển thuận lợi hơn trên loại đất
này. Vì vậy nông dân thường ưa thích đất thịt nhẹ và thịt trung bình.
1.4.4. Tính bền cấu trúc đất
1.4.4.1. Khái niệm
Cấu trúc đất là sự sắp xếp các phần tử đất lại với nhau trong tính bền đoàn lạp.
Tính bền của đất là sự liên kết của các hạt đất rất nhỏ, chúng được giữ chặt bởi chất hữu
cơ, oxid sắt, carbonat, sét, hay khoáng silicat (Raymond W. Miller et al, 2001).
Tính bền của đất được xem như là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
chất lượng đất đai. Tính bền của đất có thể tác động mạnh mẽ đến đặc tính đất cả về hoá
học và lý học (Lê Văn Khoa, 2003).
Tính bền của tập hợp các phần tử đất là đặc tính cấu trúc quan trọng của đất. Nó đo
lường mức độ chịu đựng của đất dưới tác động của mưa, các lực cơ giới khi cày bừa
hoặc khi tưới nước (Trần Bá Linh, 2004).
Cấu trúc của đất bị tác động mạnh mẽ bởi hoạt động của sinh vật trong đất và sự
thay đổi trong hình thức quản lý sử dụng đất (Danniel Hillel, 1982).

Đất có thành phần cơ giới trung bình và nặng (đất thịt trung bình, thịt nặng, đất sét)
ở mức độ khá lớn phụ thuộc vào cấu trúc của chúng vì cấu trúc quyết định tới chế độ
sinh học, chế độ không khí, chế độ nước nói riêng và chế độ dinh dưỡng cho đất. (Trần
Kông Tấu, 2005; Chu Thị Thơm và ctv, 2006).
Ở Việt Nam, đối với những loại đất có thành phần cơ giới nặng thì độ bền đoàn
lạp trong nước thể hiện khá cao 84-99 %. Hệ số cấu trúc theo Fageler thay đổi từ 24-92

%. Đất xám bạc màu phát triển trên phù sa cổ có độ bền trong nước kém nhất, chỉ 5 %.
Đất nâu đỏ trên bazan (Ferralsols) có tính chất cấu trúc tốt nhất, chúng có quan hệ chặt
chẽ với hàm lượng sắt tổng số và sắt di động, có hàm lượng mùn cao (4,8 %) và dung
tích hấp hấp phụ của đất Ferralsols cũng cao hơn cả (14 mgdl/100g đất) (Trần Kông Tấu
và ctv, 2000).
Ở những vùng trồng lúa có thể rất hữu ích khi xác định sức bền cơ học của đất đa
cấu trúc và đất chưa thành thục vì các loại đất đó thường có tính chống chịu rất kém.
Sức bền cơ học không chỉ thay đổi theo độ xốp mà còn theo lượng chất hữu cơ, hàm
lượng sét và các tác nhân ximăng hoá hiện diện (Trần Kim Tính, 2003).
1.4.4.2. Nguồn gốc phát sinh cấu trúc đất
 Sự lắng kết tương hỗ của những chất keo:
Những phần tử keo đất trong dung dịch phần lớn các trường hợp đều mang điện
tích và có thế hiệu giữa những điện tích trái dấu của lớp ion cố định (lớp mây mixen bên
trong) và những lớp ion bù gây nên thế điện động hoặc còn gọi là thế vị dzeta (ξ) của
những phần tử hạt (Trần Kông Tấu, 2005).
 Keo tụ của những chất keo dưới ảnh hưởng của chất điện ly:
Nhiều tác giả cho rằng khi có những cấu tử của chất hữu cơ dạng axit humic,
với sự tham gia của các cation canxi, sắt (Fe
3+
) vào quá trình keo tụ thì sẽ hình thành tạo
được những cấu trúc rất tốt. Chúng có độ bền cơ học, độ bền trong nước và có một độ
xốp thích hợp, ở những mẫu tốt nhất độ xốp của đoàn lạp đạt đến 50%. Đây là những
cấu trúc có chất lượng cao và rất quí về phương diện sản xuất nông nghiệp (Trần Kông
Tấu, 2005).
 Vai trò của các quá trình hóa học, lý học, sinh học trong việc tạo và nâng cao độ
bền cơ học, độ bền trong nước của những đoàn lạp:

a .Về phương diện hóa học
Ở một số khu vực có chế độ nước thay đổi, khi thì bị khô hạn, khi thì bị ngập ướt,
quá trình khử phát triển và xuất hiện ở những khu vực đất bị ngập nước. Sắt có hóa trị

hai hòa tan trong nước được hình thành, những dạng này cùng với dung dịch đất sẽ tẩm
ướt những đoàn lạp. Về mùa khô, khi mực nước ngầm xuống sâu, đất được thông
thoáng, FeO chuyển thành dạng Fe
2
O
3
khó hòa tan, làm xi măng kết dính những đoàn
lạp. Những cấu trúc như vậy có độ bền cơ học và độ bền trong nước cao nhưng độ xốp
của đoàn lạp lại kém (độ xốp nhỏ hơn 40 %) bởi vì một phần thể tích khoảng hổng bị
Fe(OH)
3
dần dần chiếm lấy.
Bên cạnh sắt, trong nhiều trường hợp tìm thấy CaCO
3
đóng vai trò làm xi măng
gắn kết các đoàn lạp. Những CaCO
3
này hình thành từ những bicacbonat canxi theo
phản ứng:
Ca(HCO
3
)
2
CaCO
3
+ CO
2
+H
2
O (khi đất khô)

Hoặc Ca(HCO
3
)
2
+CaO 2CaCO
3
+H
2
O (Trần Kông Tấu, 2006).
b. Về phương diện lý học
Khi đất có độ ẩm thích hợp thì lực mao dẫn (lực mặt cong) và nước liên kết của
đất chiếm một vai trò quan trọng trong việc hình thành cấu trúc đất.
Khi đất bị khô dần và giảm độ ẩm, vai trò của nước thể hiện rõ rệt. Trong trường
hợp như vậy những mặt cong và nước hấp phụ có khả năng thu hẹp những mao quản
làm cho những nguyên tố cơ học xích lại gần nhau, sau đó xuất hiện càng mạnh những
lực nguyên tử và phân tử giữa những nguyên tố cơ học đất.
c. Vai trò của sinh học
Độ bền nước, độ bền cơ học của đoàn lạp xuất hiện và phát triển nhờ những nêm
dịch của những loài vi khuẩn khác nhau.
Những đoàn lạp, cấu trúc đất được hình thành khi có sự tham gia của các quá
trình sinh học có độ bền trong nước, độ bền hóa học khá cao và có một độ xốp thích hợp
(Trần Kông Tấu, 2005).

1.4.4.3. Ảnh hưởng của cấu trúc đất lên đất trồng
Trên các vùng đất trồng rau- màu cấu trúc đất sẽ có tác động rất mạnh mẽ. Nó
quyết định trực tiếp đến tính thấm của đất, độ dẻo, dính, khả năng trữ nước và cung cấp
dinh dưỡng cho sự phát triển của cây trồng (Pedro A.Sanchez, 1990).
Chế độ nước, không khí và nhiệt ở đất có cấu trúc, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ
những quá trình sinh học, khả năng nitrat hóa và có khả năng chuyển hóa các hợp chất
hữu cơ. Đất có cấu trúc tốt sẽ ít dính, do đó thuận lợi cho việc cày bừa và chăm sóc

(Trần Kông Tấu, 2005).
Ngược lại, đất không có cấu trúc có cấu tạo rời rạc, điều đó làm cho trạng thái đất
quá chặt, dính, đường mao quản mỏng, nhỏ, độ xốp kém. Những đất như vậy có tính
thấm nước kém, nước dự trữ trong đất sẽ rất ít, độ dẫn mao quản cao, nước dễ đưa lên
bề mặt và mất nhiều do bốc hơi. Điều đó dẫn đến việc hình thành những lớp váng trên
mặt ruộng, sau khi mưa những lớp váng này dễ bị cứng lại gây cản trở cây trồng và khi
khô đất dễ bị nứt nẻ.
Đất có cấu trúc kém hạn chế việc điều hoà chế độ nước và không khí trong đất ảnh
hưởng tới quần thể sinh vật đất, quá trình tổng hợp và phân giải chất hữu cơ, cung cấp
chất dinh dưỡng cho cây và tích luỹ mùn cho đất (Ngô Thị Hồng Liên, 2006).
Ở các đất thịt, tác động của các hạt mưa có thể hình thành lớp váng cứng trên mặt
đất. Lớp vỏ cứng trên mặt đất này có thể dầy vài milimet nhưng nó sẽ làm giảm khả
năng thấm nước và tăng dòng chảy trên mặt gây xói mòn đất, làm giảm khả năng nẩy
mầm và phát triển của cây trồng (Lê Văn Khoa và ctv, 2003).
Sự hình thành nên lớp váng ở bề mặt (do sự bong đất mặt) thì thường được thấy
nhiều hơn trên những vùng đất có hàm lượng thịt cao, hay cát mịn và hàm lượng sét của
nó tương đối thấp (Trần Kim Tính, 2003).
Chế độ nước, không khí và cả nhiệt độ ở đất không có cấu trúc bị thay đổi mạnh
theo thời gian. Trong trạng thái ẩm, ở những lớp đất ướt tất cả những khoảng hổng đều
bị nước chiếm, trong đất sẽ không có không khí hoặc rất ít, quá trình được đặc trưng
chủ yếu là quá trình yếm khí, sức huy động dinh dưỡng bị kìm hãm, cây trồng bị “nghẹt
thở” hay tổn thương do thiếu không khí (Nguyễn Văn Hoàng, 1989; Hồ Văn Thiệt,
2006).
Đất càng khô thì tất cả các dạng nước mao quản sẽ bị mất rất nhanh. Những
khoảng hổng của chúng bây giờ chủ yếu là do không khí chiếm, quá trình yếm khí được

thay thế bằng quá trình háo khí làm cho mùn bị phân giải nhanh, khoáng hóa nhanh, dẫn
đến làm cho cấu trúc càng kém hơn điều đó làm cho thực vật bị tổn thương và chết do
thiếu nước (Brady, 1985)
Đất không có cấu trúc sẽ rất cứng, chặt, lực cản khá cao (gần 1 kg/cm

2
), rễ cây
mọc rất khó, phần lớn chỉ ở trên mặt, sản lượng thu hoạch kém (Trần Kông Tấu, 2005).
Áp suất tối đa có thể sinh ra ở rễ cho hầu hết các cây trồng khoảng 3MPa. Điều này
muốn nói rằng, rễ thì không thể tăng dài được ở đất có sức bền cơ học lớn hơn 3MPa,
trừ khi đất có chứa tế khổng có đường kính lớn hơn đường kính của rễ (Trần Kim Tính,
2003).
Việc canh tác làm phá huỷ cấu trúc đất sẽ làm giảm lượng tế khổng lớn trong đất
và tăng các tế khổng nhỏ ở bề mặt của tầng canh tác ảnh hưởng đến tính thấm của đất
(S.S Prihar et al, 1985).
Ở đất sét sức bền cơ học tuỳ vào ẩm độ đất vì các loại đất này cứng khi khô và dẻo
khi ướt. Đối với các đồng ruộng lúa sét nặng, rễ đậu nành không thể xuyên qua tầng đế
cày có sét chặt do việc trục đất ở vụ trước (Trần Kim Tính, 2003).
Sự kết cứng của đất tác động trực tiếp đến sự nẩy mầm của hạt giống, sự tăng
trưởng của cây trồng, khả năng thoáng khí và thoát nước của đất. Tuy nhiên, ở một số
loại đất ở Châu Âu điều này có thể được thay đổi bởi sự thêm vào một lượng các
hydroxide sắt, nhôm vào trong đất như là tác nhân liên kết (Lê Văn Khoa, 2003).
Môi trường tốt nhất cho sự tăng trưởng của cây trồng là đất có 50% tế khổng chứa
đầy không khí và 50% tế khổng chứa đầy nước (Trần Kim Tính, 2003).



Hình 7: Sự đóng váng kết cứng bề
mặt khi đất khô
Hình 8: Ảnh hưởng của độ chặt đối với
sự phát triển của rễ
Hình 6: Ảnh hưởng của việc làm đất lên
cấu trúc đất
Hình 5. Sự hình thành lớp váng
do sự phá huỷ cấu trúc đất

1.5.
Hoá học đất
1.5.1. Độ chua của đất
pH đất là chỉ tiêu đánh giá quan trọng, vì nó thường ảnh hưởng trực tiếp đến cây
trồng, vi sinh vật, vận tốc các phản ứng hoá học và sinh hoá trong đất, độ hữu dụng của
các chất dinh dưỡng trong đất, hiệu quả của phân bón cũng phụ thuộc rất nhiều vào độ
chua (Nguyễn Vy và Trần Khải, 1978; Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
Theo Trần Thị Ba và ctv (1999), pH thích hợp cho sự phát triển của rau màu từ
5,5-7, ở pH này thì cây hấp thu dưỡng chất dễ dàng và các vi sinh vật đất cũng hoạt
động tốt.
Khi pH thấp từ 4,5-5, muốn trồng rau thì phải bón thêm vôi. Ở pH này sự khoáng
hóa N kém, P hữu dụng, Ca, Mg thấp, các vi sinh vật gây hại hoạt động tốt hơn. Các yếu
tố này đưa đến khả năng chống chịu những điều kiện bất lợi của đất kém, cây yếu, dễ bi
sâu bệnh tấn công (Võ Thị Gương, 2004).


Phát triển cấu
trúc bền
Dễ bị vỡ vụn Vi đoàn lạp
Cấu trúc
giòn
Cấu trúc hạt
rời rạt
Lớp vỏ đất
cứng
Tầng laterit và
Các chất gắn kết khác
Nhiều chất kết gắn
hữu cơ và các
cation thích hợp

Nhiều chất hữu cơ
Nhiều chất kết dính
Vô cơ
Nhiều cát
Các chất gắn kết hoá học
Nhiều sét
Hình 9. Lớp vỏ đất cứng trong mối quan hệ với tính chất khác nhau của đất
Bảng 4: Thang đánh giá độ chua hiện tại cho đất trồng màu
pH
(H20)
Phân loại
<5,0
5,0 –7,5
> 7,5
Thấp (low)
Tối hảo (option)
Cao (high)
(Washington State University – Tree Fruit Reasearch &
Extension Center, 2001)(tỷ lệ đất: nước=1:2,5)
Bảng 5: Thang đánh giá độ chua pH
(KCl)
pH
(KCl)
Đánh giá
<3,0
3,0 – 4,5
4,6 – 5,5
5,6 – 6,4
>6,5
Rất chua

Chua nhiều
Chua vừa
Chua ít
Trung tính
(Ngô Ngọc Hưng-soil, water, and plant Analysis
Labotory, 2004) (tỉ lệ đất/KCl =1/2,5)
1.5.2. Chất hữu cơ
1.5.2.1. Khái niệm
Chất hữu cơ là một thành phần cơ bản kết hợp với sản phẩm phong hoá từ đá mẹ
để tạo thành đất. Chất hữu cơ là một đặc trưng để phân biệt đất với đá mẹ và một
nguồn nguyên liệu để tạo nên độ phì nhiêu đất. (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
Hợp chất hữu cơ được tạo thành từ sự phân huỷ các xác bã thực vật nhờ vào quá
trình hoá học và sinh học (Bolt et al, 1978)
Chất hữu cơ góp phần cải thiện các tính chất lý, hoá và sinh học đất và cung cấp
nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng (Prihar et al, 1985).
Ở vùng nhiệt đới thường có hàm lượng chất hữu cơ thấp do kết quả của quá trình
phong hoá mạnh làm chúng bị phân giải nhanh (Nguyễn Xuân Cự, 2005).
Theo Đỗ Ánh (2002), ở đất rừng sau khi khai phá để trồng trọt thì chỉ số canh tác
(biểu hiện bằng % mùn) ở đất trồng trọt chỉ bằng 18-20% đất rừng.
Theo Trần Thành Lập (1999), đất Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thường có
hàm lượng chất hữu cơ vào độ trung bình. Đất xám bạc màu có hàm lượng hữu cơ rất
thấp 0,3 -1,2%. Đất giàu hữu cơ nhất ở ĐBSCL là đất than bùn, có hàm lượng hữu cơ
đến 25%, đất phèn cũng giàu chất hữu cơ ở tầng mặt.

Đất có hàm lượng hữu cơ cao thường tạo ra những khối đất lớn hơn, mạnh hơn và
ổn định có khả năng chống lại sự nén dẽ.
Chất hữu cơ có tác dụng kết dính các hạt đất lại với nhau tạo nên kết cấu đất tăng
khả năng giữ nước, giữ các chất dinh dưỡng của đất, điều hoà chế độ nhiệt, và không
khí của đất cho vi sinh vật phát triển và hoạt động hữu ích cho cây trồng (Mai Văn
Quyền và ctv, 2005).

Trong đất hàm lượng chất hữu cơ cao làm tăng ẩm độ đất, cải thiện cấu trúc đất
tăng khả năng đệm của đất (Charles A. Black, 1993).
Tốc độ phân hủy chất hữu cơ và khoáng hóa của các thành phần hữu cơ trong đất
có cấu trúc thô nhanh hơn đất có cấu trúc mịn (VanVeen và Kuikman, 1990). Chất hữu
cơ trong đất có liên quan chặt với N tổng số trong đất (Stevenson, 1982) nhưng đạm
hữu dụng lại tương quan không cao với chất hữu cơ hoặc đạm tổng số trong đất (Sim et
al, 1967; Cassman, 1996).
1.5.2.2. Quá trình chuyển hoá chất hữu cơ trong đất
Sự biến đổi và chuyển hoá các xác hữu cơ trong đất là một quá trình sinh thái
phức tạp, được thực hiện với sự tham gia trực tiếp của vi sinh vật đất và của động vật,
oxy không khí và nước.
Như vậy, xác hữu cơ trong đất chịu sự tác động của hai quá trình song song tồn
tại, tuỳ thuộc điều kiện ngoại cảnh, hệ vi sinh vật và loại xác hữu cơ mà quá trình này
hay quá trình kia chiếm ưu thế. Hai quá trình đó là: quá trình khoáng hoá chất hữu cơ
và quá trình mùn hoá chất hữu cơ (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
1.5.2.3 Ảnh hưởng của chất mùn trên các tiến trình vật lý đất

Khoáng hoá nhanh
Xác hữu cơ
Các hợp chất khoáng
Các hợp chất mùn
Khoáng hoá
từ từ
Mùn hoá
Hình 10: Sự chuyển hoá chất hữu cơ trong đất
 Cải thiện cấu trúc đất
- Ảnh hưởng trực tiếp do làm mất độ cứng của đất, chất mùn trong phân hữu cơ có
tác dụng gắn kết các hạt keo nhỏ lại với nhau, tạo nên cấu trúc bền vững, làm cải thiện
độ xốp của đất, hạn chế sự rửa trôi, xói mòn đất, làm cho cây thu hút các ion dinh dưỡng
dễ dàng hơn.

- Ảnh hưởng gián tiếp do sự hoạt động của vi sinh vật, làm cho cấu trúc trở nên tốt
hơn (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004)
- Khi đất có nhiều chất hữu cơ giúp đất có cấu trúc tốt nhờ khả năng kết nối các
phân tử cơ học với nhau tạo thành các đoàn lạp có độ bền cao hơn. Đất có cấu trúc làm
cho đất thoáng khí và điều hòa nhiệt độ đất giúp rễ cây trồng phát triển và trao đổi khí
được tốt hơn (Hamblin, 1985).
Đối với loại đất khoáng tầng mặt thoát nước tốt thì hợp chất hữu cơ biến động từ 1-
6% (Brady et al, 1996).
Ngoài ra, hàm lượng chất hữu cơ đất và độ bền cấu trúc liên quan chặt chẽ với
nhau. Sự suy giảm chất hữu cơ trong đất đưa đến sự giảm độ xốp và tăng dung trọng đất
(Tisdall Oades, 1982).
Ở đất không cacbonat chứa hàm lượng mùn thấp hơn 3,4 % thì cấu trúc đất bị suy
giảm nhiều hơn so với đất có chứa 4,3 % mùn có cấu trúc bền. Hơn nữa, chất mùn có
vai trò quan trọng trong sự hình thành cấu trúc và duy trì độ bền cấu trúc đất. Chất mùn
kết gắn các phân tử cơ học với nhau tạo thành các đoàn lạp có độ bền với xói mòn và
các ngoại lực khác tác động vào đất (Lê Văn Khoa và ctv, 2003).
Tùy thuộc vào loài thực vật và tỷ lệ C/N của chúng sẽ liên quan đến tốc độ phân
hủy của vi sinh vật. Cây họ đậu có hiệu quả tốt trong việc làm ổn định cấu trúc đất
(Cochrance and Aylmore, 1994).
 Gia tăng khả năng giữ nước của đất
- Ảnh hưởng trực tiếp bởi sự liên kết nước với chất hữu cơ.
- Ảnh hưởng gián tiếp bởi sự cải thiện cấu trúc đất.
 Cải thiện độ thoáng khí của đất
- Cung cấp oxy cho rễ.
- Tạo ra con đường thoát CO
2
từ không gian rễ.
 Làm gia tăng nhiệt độ đất:
- Ảnh hưởng trực tiếp do mùn có màu sẫm, làm tăng sự hấp thu nhiệt của đất.


×