Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.91 KB, 18 trang )

Made by Hai
THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta đã gạt hái nhiều thành công
trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, có công rất lớn của chủ tịch Hồ Chí
Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Vậy thực tiễn việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đã đạt những thành tựu gì? Khó khăn gì? Và những phương hướng và biện pháp nào? để
tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng chủ nghĩ xã hội? sẽ được
em trình bày những phần dưới đây.
I- Các giai đoạn và những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
A- Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1955
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Cách mạng ra đời
chưa có thời gian củng cố, đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn thách thức của “giặc
đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Đảng và Nhà nước ta đã bắt tay ngay vào giải quyết
những khó khăn cấp bách của đời sống nhân dân, tăng cường thực lực cách mạng trên tất
cả các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội Ngày 6/1/1946, tổng tuyển
cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp bội ước nổ súng đánh chiếm
Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng nghìn quân lên Đà Nẵng (20/11/1946). Hưởng ứng
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta đã tiến hành cuộc
kháng chiến đầy gian khổ nhưng rất anh hùng. Cùng với nhiệm vụ thực hiện cuộc kháng
chiến chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, chúng ta đã thực hiện chuyển nền
kinh tế tàn tích thực dân, phong kiến và thấp kém thành nền kinh tế dân chủ, độc lập phục
vụ nhu cầu kháng chiến và kiến quốc.
1
Made by Hai
Trong thời kỳ này (1946-1954) kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt
quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản xuất, Chính phủ đã


từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất, giảm tô, giảm tức. Năm 1949, sắc lệnh
giảm tô, giảm tức được ban hành, đồng thời tạm cấp ruộng đất thu được của thực dân
Pháp và địa chủ bỏ chạy vào vùng địch tạm chiếm chia cho nông dân nghèo. Nhờ đó, trong
các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt
gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp ở
miền Bắc trong 9 năm kháng chiến đạt 10%/năm. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng
phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi
phục và mở rộng.
Chỉ tính riêng từ năm 1945 đến tháng 4/1953 ở vùng tự do và đến tháng 7/1954 ở vùng
mới giải phóng, nông dân miền Bắc đã được chia 475.900 ha ruộng đất và ở Nam Bộ,
chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân 410.000 ha. Do lực lượng sản xuất được giải
phóng, sản xuất nông nghiệp vùng giải phóng đạt mức tăng trưởng khá. Sản lượng lương
thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, trong đó riêng thóc đạt 2,3
triệu tấn tăng 15,9%.
Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghiệp quốc
phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Ngoài số lượng
lớn về vũ khí đạn dược, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu được sản xuất ngày càng nhiều.
Từ năm 1946-1950 đã sản xuất 20.000 tấn than cốc, 800 kg ăngtimoan. Từ năm 1950 đến
cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc, 43,0 tấn chì. Những năm 1950-1954 đã sản
xuất được 169,3 triệu mét vải, 31.700 tấn giấy.
Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục-chống giặc dốt được coi là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Từ 1946 đến
1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kiệt quệ vì sự bóc lột lâu dài của đế quốc và
phong kiến, dân tộc ta đã đứng lên kháng chiến 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp, kết
thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
B- Thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975
2
Made by Hai
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta đứng trước một

tình hình mới, cách mạng Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc bước vào
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách
mạng độc lập dân tộc trong cả nước.
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (1954), sản xuất công nghiệp từng bước được
khôi phục và phát triển. Trong 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957) và tiếp theo là kế
hoạch 5 năm 1961-1965 với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp
được phục hồi và xây dựng.
Từ năm 1965 đến 1975, tuy miền Bắc phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ nhưng sản xuất công nghiệp vẫn được duy trì và phát triển. Giá trị tổng sản
lượng công nghiệp năm 1975 tăng gấp 16,6 lần năm 1955, bình quân tăng mỗi năm
14,7%. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người năm 1975 đã đạt
mức cao hơn nhiều so với năm 1955, trong đó: điện gấp 13,8 lần, than 4,8 lần, xi măng
25,2 lần, giấy 14,5 lần, vải 4,8 lần, đường 4 lần. Năm 1975 miền Bắc đã có 1.335 xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh, tăng 323 xí nghiệp so với năm 1960. Một số ngành công nghiệp
nặng có năng lực sản xuất khá lớn. Vị trí của công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội tăng
từ 32,7% năm 1960 lên 42,6% năm 1975; thu nhập quốc dân từ 18,2% lên 28,7% trong 15
năm tương ứng.
Sản lượng lương thực qui thóc từ 3,76 triệu tấn năm 1955 tăng lên 5,49 triệu tấn năm
1975; đàn lợn từ 2,45 triệu con lên 6,75 triệu con.
Hoạt động thương mại được chú trọng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 so với
năm 1955 tăng gấp 7,8 lần; kim ngạch xuất khẩu tăng 21,3 lần; kim ngạch nhập khẩu tăng
11,8 lần. Tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu tăng từ 9,1% năm 1945 lên 17,0% năm 1955;
riêng thời kỳ 1958-1964 đạt tỷ lệ 63,7%.
Để hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và
tàn dư của chế độ phong kiến, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sách
kinh tế, tài chính tích cực, trong đó nổi bật nhất là cải cách ruộng đất, thực hiện người cày
có ruộng, 810.000 ha đất nông nghiệp của địa chủ được tịch thu và chia cho nông dân
nghèo. Sau 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957), diện tích gieo trồng tăng 23,5%, năng
3

Made by Hai
suất lúa tăng 30,8%, sản lượng lương thực tăng 57%, lương thực bình quân đầu người
tăng 43,6%, đàn trâu tăng 44,2%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20% so với năm 1939.
Trong hoàn cảnh sau chiến tranh nhưng kết quả đạt được như trên là rất đáng ghi nhận,
trong đó nổi bật nhất là lương thực bình quân đầu người năm 1957 đã đạt 303 kg. Đến
năm 1957, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi vượt mức cao nhất dưới thời Pháp thống
trị (1939).
Sau khi thu được những kết quả quan trọng trong khôi phục kinh tế, Hội nghị Trung ương
lần thứ 14 (11/1958) đã vạch ra kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển
kinh tế, văn hóa. Những năm 1958-1960, nền kinh tế miền Bắc có những chuyển biến đáng
kể.
Trong 5 năm 1961-1965, nhân dân miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng:
Quan hệ sản xuất mới tiếp tục được củng cố, cơ sở vật chất được tăng cường, bước đầu có
sự tìm tòi cải tiến cung cách làm ăn qua các cuộc vận động "ba xây ba chống" và "cải tiến
quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật", giáo dục văn hóa, y tế phát triển mạnh mẽ. Đến năm
1965, có 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; trong đó 71,7% số hộ
lên hợp tác xã bậc cao. Nền nông nghiệp hợp tác hóa cùng giai cấp nông dân tập thể đã
hình thành và phát triển. Tốc độ tăng bình quân về giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là
4,1%. Năm 1965 đã có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt năng suất bình quân từ 5 tấn
thóc/ha trở lên. Đầu năm 1965 đã xây dựng được 3.139 điểm cơ khí nhỏ, 7 trạm và 32 đội
máy kéo, 33 công trình thuỷ lợi lớn, 1.500 công trình vừa và nhỏ được khôi phục và xây
dựng, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hơn 500.000 ha diện tích trồng trọt. Nông nghiệp
miền Bắc từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp dần dần trở thành
một nền nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện.
Công nghiệp miền Bắc thời kỳ này đã có bước phát triển khá. Từ những cơ sở sản xuất
công nghiệp nhỏ bé, chủ yếu là khai thác nguyên liệu và sửa chữa nhỏ nay đã bắt đầu sản
xuất một phần tư liệu sản xuất và phần lớn những vật phẩm tiêu dùng của nhân dân. Vai
trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân bước đầu được phát huy. Các
ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng đã
hình thành và phát triển nhanh, nhất là ngành điện và ngành cơ khí. Đến năm 1965 đã xây

dựng được 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Nhiều khu công nghiệp phát triển và
hình thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Vinh, Hồng Quảng.
Cuối năm 1964, miền Bắc hoàn thành những mục tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm 1961-
1965. Đánh giá những chuyển biến của miền Bắc, tại Hội nghị Chính trị đặc biệt
(27/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã
4
Made by Hai
tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người
đều đổi mới".
Giai đoạn 1965-1970, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, miền Bắc vẫn vững vàng vừa
sản xuất vừa chiến đấu, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn với tiền tuyến lớn. Công
cuộc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất đã thu được kết quả. Sản lượng lương thực
năm 1970, toàn miền Bắc đạt 5.278.900 tấn, tăng hơn năm 1969 hơn nửa triệu tấn. Năng
suất lúa cả năm đạt 43,11 tạ trên 1 ha ruộng hai vụ. Tỉnh Thái Bình và thành phố Hà Nội
đạt năng suất bình quân trên 5 tấn thóc/ha. 30 huyện, 2.265 hợp tác xã đạt năng suất bình
quân 5 tấn thóc/ha. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông
nghiệp tăng 20% so với năm 1965.
Sản xuất công nghiệp cũng có những chuyển biến tốt. Những cơ sở công nghiệp bị địch
đánh phá phần lớn đã được khôi phục trong năm 1970. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp
vượt mức kế hoạch 2,5%, xấp xỉ bằng năm 1965. Phần lớn các sản phẩm chủ yếu của
ngành công nghiệp đều đạt hoặc vượt mức kế hoạch năm.
Sau thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân lần thứ hai của đế quốc Mỹ năm 1972, hai năm 1972-1973, công cuộc khôi phục và
phát triển kinh tế ở miền Bắc được tiến hành khẩn trương. Năm 1974, hai vụ lúa được
mùa. Sản xuất lúa cả năm đạt 5.468.800 tấn (năm 1973 đạt 4.468.000 tấn). Năng suất
bình quân một vụ lúa đạt 24,18 tạ/ha. Năm 1974 có 9 tỉnh, 107 huyện và 4.226 hợp tác xã
đạt năng suất 5 tấn thóc/ha ruộng hai vụ lúa. Tỉnh Thái Bình, lá cờ đầu về năng suất lúa
của miền Bắc đạt trên 7 tấn thóc/ha. Hệ thống thủy nông được phục hồi và nâng cấp. Năm
1974, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp vượt kế hoạch 4%, so với năm
1973 tăng 15%. So với năm 1960, số xí nghiệp công nghiệp ở miền Bắc năm 1975 tăng

32%, khu vực kinh tế quốc doanh chiếm 88,4% tổng sản phẩm xã hội và 84,1% thu nhập
quốc dân. Nhiều bến cảng, đường giao thông thủy bộ được phục hồi nhanh chóng. Nhiều
cầu được sửa chữa, xây dựng lại.
Có thể nói, miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nền kinh tế hết
sức nghèo nàn lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Song, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân miền Bắc
không những làm tròn sứ mệnh là hậu phương lớn đối với miền Nam ruột thịt, đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mà còn giành được những thắng lợi to lớn
trong công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa và nâng cao đời sống nhân
dân.
5
Made by Hai
Mặc dù trong khoảng thời gian 20 năm thì 11 năm miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu
chống cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của Mỹ, song kinh tế-xã hội vẫn đạt
được bước phát triển nhất định.
Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng lên.
Lấy năm 1957 làm gốc so sánh, Quỹ tiêu dùng của nhân dân tính bình quân đầu người
tăng 82,8%; thu nhập bình quân đầu người của gia đình công nhân viên chức tăng 48,5%;
của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%.
Hoạt động giáo dục, y tế đạt được những thành tựu to lớn. Số người đi học năm 1955 là
1.288.000 người thì đến năm 1975 đạt 6.796.900 người, tăng gấp 5,3 lần, trong đó trung
học chuyên nghiệp là từ 2.800 người lên 83.500 người, tăng gấp 29,8 lần, đại học từ 1.200
và 61.100 người, tăng gấp 50,9 lần. Tính bình quân cho 1 vạn dân, năm 1955 có 949 người
đi học thì đến năm 1975 có 2.769 người, tăng gấp 2,9 lần, trong đó trung học chuyên
nghiệp và đại học là 2,9 người và 59 người, tăng gấp 20,3 lần.

C- Thời kỳ 1976-1986
Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ và anh hùng, cách mạng miền Nam từng bước lớn
mạnh và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân
năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ,

giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam
chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong 5 năm 1976-1980, trên mặt trận kinh tế, nhân dân Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh xâm
lược do đế quốc Mỹ gây ra và của cuộc chiến tranh biên giới; khôi phục phần lớn những cơ
sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở
miền Nam bị chiến tranh tàn phá; củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ở miền
6
Made by Hai
Bắc, bước đầu cải tạo và sắp xếp công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam, đưa một bộ
phận nông dân Nam Bộ, nông dân Nam Trung Bộ vào con đường làm ăn tập thể; bước đầu
phân bố lại lực lượng lao động xã hội; tăng cường một bước cơ sở vật chất-kỹ thuật của
nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980 chưa tương xứng với sức lao động và
vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng; thu nhập
quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ
không ổn định; đời sống của nhân dân lao động còn khó khăn. Lòng tin của quần chúng đối
với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút.
Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985), nhiều Nghị quyết và
Quyết định quan trọng của Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm từng bước sửa đổi cơ
chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tư nhân và xóa bỏ quan liêu
bao cấp. Trước đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), bước đầu có cách nhìn mới
về nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận miền Bắc tồn tại 3 thành phần kinh tế là quốc
doanh, tập thể và cá thể; miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể,
công tư hợp doanh, tư bản tư nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu thay đổi cơ cấu các chủ
thể sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khoá V (6/1986) đã đánh giá tình hình
sau cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9/1985) và khẳng định chính thức đổi mới cơ chế
quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.

Với những bước đi đổi mới từng phần theo những chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước, những sáng kiến, sự năng động, sáng tạo của nhân dân của các địa
phương, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã làm cho nền kinh tế Việt Nam những năm 1981-
1985 có bước phát triển khá. Sản lượng lương thực bình quân mỗi năm đạt 17 triệu tấn,
sản lượng công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm. Thu nhập quốc dân tăng bình quân
hàng năm 6,4%. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng đáng kể với hàng trăm
công trình tự động hóa và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở
quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, giao thông. Về năng lực sản xuất, đã tăng
thêm 456.000 kW điện, 2,5 triệu tấn than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33.000 tấn sợi, 58.000 tấn
giấy, thêm 309.000 ha được tưới nước, 186.000 ha được tiêu úng. Tuy vậy, tình hình kinh
tế-xã hội và đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn
trầm trọng mà biểu hiện là: (1) kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển.
Nếu tính chung từ năm 1976 đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng
năm chỉ tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng năm chỉ tăng
7
Made by Hai
3,7%, trong khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%; (2) không có tích luỹ từ nội
bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90% thu nhập
quốc dân sử dụng; (3) siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số giá
bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và giao động ở mức 19-
92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7% và (4) đời sống nhân
dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
D- Thời kỳ 1986-2005
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động
tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ.
Trong công nghiệp, Quyết định 217 HĐBT tháng 11/1987 trao quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xóa dần
bao cấp, giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. Tháng 12/1987,

Luật Đầu tư nước ngoài với nhiều khoản ưu đãi được công bố; đồng thời khuyến khích
xuất khẩu đã làm cho môi trường đầu tư thông thoáng hơn, góp phần tăng năng lực sản
xuất ngành công nghiệp. Sản xuất của các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi và
tăng trưởng khá ổn định, hơn hẳn các thời kỳ trước đó. Bình quân mỗi năm của kế hoạch
5 năm 1986-1990, sản lượng điện tăng 11,1%, xi măng tăng 11,0%, thép cán tăng 8,0%,
thiếc tăng 10%. Đáng chú ý là xuất hiện ngành sản xuất mới: khai thác dầu thô của công
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn
năm 1986 lên 280 nghìn tấn năm 1987; 680 nghìn tấn năm 1988; 1,5 triệu tấn năm 1989
và 2,7 triệu tấn năm 1990.
Tuy nhiên, những thành tựu và khởi sắc của công nghiệp thực sự bắt đầu trong những
năm 90 (thế kỷ XX). Bình quân 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp toàn ngành đạt 13,7%, vượt xa kế hoạch đề ra (7,5%-8,5%); trong đó khu vực kinh
tế Nhà nước tăng 15%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%. Trong 5 năm 1996-2000,
sản xuất công nghiệp nước ta tiếp tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp độ cao.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13,8%, 1998 tăng
12,1%, 1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17,5%. Nếu so với năm 1990, giá trị sản xuất
công nghiệp năm 2004 tăng gấp 6,5 lần, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt
14,3%. 6 tháng đầu năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 205,3 nghìn tỷ đồng,
tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng
8
Made by Hai
9,7%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì mức tăng cao 24,7%; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%.
Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng
cả chất lượng và số lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất
khẩu. Năm 2004, than khai thác đạt 26,29 triệu tấn, gấp 5,7 lần năm 1990; điện sản xuất
46,05 tỷ kWh, gấp 5,24 lần; dầu thô khai thác 20,05 triệu tấn, gấp 7,43 lần; xi măng 25,33
triệu tấn, gấp 10 lần; thép cán 2,93 triệu tấn, gấp 29 lần; phân hóa học 1,45 triệu tấn, gấp
4,1 lần ; giấy bìa 78,1 vạn tấn, gấp 10 lần; vải lụa 518,2 triệu mét, gấp 1,63 lần; đường mật
1,37 triệu tấn, gấp 4,2 lần; lắp ráp ti vi 2,48 triệu chiếc, gấp 17,6 lần; quần áo may sẵn

784,05 triệu chiếc, gấp 6,26 lần ; xà phòng giặt 45,9 vạn tấn, gấp 8,37 lần; ôtô lắp ráp
42,65 nghìn chiếc (năm 1990 chưa lắp ráp ôtô); xe máy lắp ráp 1,57 triệu chiếc (năm 1990
chưa lắp ráp xe máy).
Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của thập kỷ 90 đã
xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh tế
quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI, trong đó công nghiệp quốc
doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất
khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng
thông thoáng, nên trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn hẳn khu
vực công nghiệp trong nước. Tính đến nay đã có hơn 5.000 dự án đầu tư nước ngoài còn
hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 45 tỷ USD. Các doanh nghiệp này đóng góp gần
15% GDP, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp 4,9% tổng thu ngân sách
Nhà nước và tạo ra hàng vạn công ăn việc làm.
Ngoài giá trị về kinh tế, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc làm, góp phần bổ
sung và hoàn thiện các mô hình quản lý và tổ chức sản xuất mới phù hợp với cơ chế thị
trường ở Việt Nam. Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) chủ yếu hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp với các ngành sản phẩm mũi nhọn, có chất lượng cao, phục vụ
xuất khẩu. Đến nay, cả nước có 122 KCN được cấp giấy phép họat động. Sự tham gia của
công nghiệp FDI nói chung và các KCN nói riêng đã tạo ra sức cạnh tranh cần thiết thúc
đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nước ta đầu tư chiều sâu, đổi mới máy
móc thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại để giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu.
9
Made by Hai
Do nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm nên tích luỹ của nền
kinh tế ngày càng mở rộng. Năm 1990 tỷ lệ tích luỹ tài sản trong sử dụng tổng sản phẩm
trong nước chiếm 14,36%; đến năm 2004 tỷ lệ này đạt 35,58%.
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông
nghiệp mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn

vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đã đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông
nghiệp và nông thôn nước ta. Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị
quyết số 10 NQ/TW đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Cùng với Nghị quyết 10, Đảng và
Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới khuyến khích nông nghiệp và kinh tế
nông thôn phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá và đã đạt được những thành tựu quan
trọng, nhất là 10 năm trong thập kỷ 90.
Thành tựu nổi bật và to lớn nhất của nông nghiệp trong 15 năm đổi mới là đã giải quyết
vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ
nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới liên tục từ năm
1989 đến nay. Nếu sản lượng lương thực có hạt năm 1990 chỉ đạt 19,90 triệu tấn thì đến
năm 2004 đã tăng lên 39,32 triệu tấn. Như vậy, sau 15 năm, sản lượng lương thực có hạt
đã tăng thêm 19,4 triệu tấn, bình quân mỗi năm tăng thêm 1,29 triệu tấn. Do sản xuất
lương thực tăng nhanh, nước ta không những đã bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà còn dành khối lượng khá lớn cho xuất khẩu. Nếu năm 1989, xuất khẩu được 1,42
triệu tấn gạo thì đến năm 2004 đạt 4,06 triệu tấn, đưa nước ta vào hàng các nước đứng
đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới. Ngành chăn nuôi cũng có bước phát triển nhanh. Giá
trị sản xuất ngành chăn nuôi năm 2004 so với năm 1990 tăng gấp 2,28 lần; nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm đạt 6,06%.
Với phương châm Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước. Tính tới
tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có Mỹ, đưa tổng
số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta từ 50 nước năm 1990 lên 170 nước năm
2000. Năm 2004, tổng mức lưu chuyển ngoại thương nước ta đạt 54,46 tỷ USD (tăng gấp
11,34 lần so với mức 5,10 tỷ USD năm 1990); trong đó xuất khẩu 26,50 tỷ USD tăng 11,02
lần; nhập khẩu 31,95 tỷ USD, tăng gấp 11,61 lần. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm tổng
mức lưu chuyển ngoại thương thời kỳ 1991-2004 đạt 18,94% trong đó xuất khẩu 18,70%;
nhập khẩu 19,14%.
Do kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục nhiều năm liền nên đời sống vật chất, văn
hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt.
10
Made by Hai

Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết
đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000 nước ta đã hoàn thành chương
trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Giáo dục trung học chuyên
nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh về quy mô đào tạo. Năm 1990 nước ta có 105,9
nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp, tính bình quân cho 1 vạn dân có 16 học sinh; thì
đến năm 2004 là 465.300 và 97 học sinh. Năm 2004 so với năm 1990, số học sinh trung
học chuyên nghiệp tăng 4,39 lần. Giáo dục đại học, cao đẳng năm 1990 có hơn 93.000 sinh
viên đại học, cao đẳng, tính bình quân 1 vạn dân có 14 sinh viên thì đến năm 2004 là
1.319.800 sinh viên và 161 sinh viên. Năm 2004 so với năm 1990 số sinh viên đại học, cao
đẳng tăng gấp 14,2 lần.
Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ thống y tế đã được phát
triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho
người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 vạn dân có
3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là 6,1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ
51,5%; đến năm 2004 còn 26,7%. Chỉ số về sức khoẻ bà mẹ và trẻ em có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ
tử vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ biến ở những nước có thu nhập đầu
người cao gấp 2-3 lần Việt Nam. Năm 2003 tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn
26%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 64 tuổi năm 1990 lên 68 tuổi năm 2000.
Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất
sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển nông
nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã thành công trong việc giải phóng sức sản xuất
của dân cư nông thôn và khuyến khích họ tự mình phấn đấu cải thiện cuộc sống. Tính theo
chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo đã giảm từ trên 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000
và 28,9% vào năm 2001-2002. Như vậy so với năm 1990, năm 2000 Việt Nam đã giảm 1/2
tỷ lệ nghèo và về điều này nước ta đã đạt được mục tiêu phát triển của Thiên niên kỷ do
Quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn 1990-2015.
Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia, quan hệ kinh tế thương mại
với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư trực tiếp vào nước ta Chưa bao giờ mối quan hệ ngoại giao và kinh tế của Việt Nam
lại phát triển sâu rộng và đa dạng như ngày nay.

E- Giai đoạn 2005 đến nay
11
Made by Hai
Nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 trong
bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn, đan xen nhau.
Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và
vốn ngày càng mở rộng. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động,
hợp tác trong khu vực, nhất là ASEAN ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường;
các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động khủng bố quốc tế có thể gây mất ổn
định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các vấn đề mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô
nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng lượng và nguyên vật liệu, khoảng cách giàu
nghèo sẽ càng trở nên gay gắt hơn.
Ở trong nước, chúng ta có được thuận lợi rất cơ bản là những thành tựu to lớn và những
bài học kinh nghiệm quan trọng sau 20 năm đổi mới, nhưng cũng còn nhiều yếu kém,
khuyết điểm; trong khi yêu cầu hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng
khẩn trương và sâu rộng hơn.
Năm 2006, tổng sản phẩm trong nước (GDP), theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng
trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu
vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng góp
3,34 điểm phần trăm.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực
công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm nay; khu vực dịch vụ
tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02% xuống
còn 20,40%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp tục phát triển. Tính từ đầu năm đến
18/12/2006, cả nước có 797 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn
đăng ký 7,57 tỷ USD, bình quân 1 dự án đạt 9,5 triệu USD, 486 lượt dự án được tăng vốn
với số vốn tăng thêm 2,36 tỷ USD; tính chung cả cấp mới và tăng vốn đến 18/12/2006 đạt
9,9 tỷ USD và như vậy cả năm 2006 sẽ đạt trên 10 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến
nay và cũng là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006.
Đời sống dân cư nhìn chung ổn định. Đời sống của cán bộ, viên chức và người hưởng
lương đã được cải thiện đáng kể nhờ tăng lương theo các Nghị định của Chính phủ. Đời
sống đại đa số nông dân ổn định và từng bước được cải thiện do sản xuất phát triển và giá
nhiều loại nông sản, thực phẩm tăng. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương tiếp
tục giảm, tình trạng thiếu đói giáp hạt giảm đáng kể so với năm 2005.
12
Made by Hai
Bước vào năm 2007, thế và lực của nền kinh tế nước ta cũng như những kinh nghiệm tổ
chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều đã
được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào
kinh tế thế giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức: trong khi nền
kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và
sức cạnh tranh thấp thì giá của nhiều loại vật tư nguyên liệu đầu vào quan trọng phải
nhập khẩu tăng cao. Những tháng cuối năm lại xuất hiện một số khó khăn không lường
trước được như thiên tai, dịch bệnh. Tuy nhiên, với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, sự điều hành quyết liệt khẩn trương có hiệu quả của Chính phủ, hầu hết các chỉ tiêu
kinh tế xã hội đều đạt và vượt mức Quốc hội đề ra, nền kinh tế tiếp tục phát triển, chính trị
xã hội ổn định.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 8,48% so
với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%); khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
3,41% (kế hoạch 3,5-3,8%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,6% đạt kế hoạch đề
ra (10,5-10,7%); khu vực dịch vụ tăng 8,68% vượt kế hoạch đề ra (8,0-8,5%). Năm 2007
của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực

Khái quát lại, năm 2007 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006-2010, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự chỉ đạo sát sao và khẩn trương của Chính phủ, sự nỗ lực của các ngành, các
địa phương nên hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt đều đạt được những kết quả vượt
trội so với năm 2006 và tạo đà cho những năm tiếp theo phát triển mạnh hơn. Năm 2007,
tổng sản phẩm trong nước tăng 8,48, mức tăng của giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản và mức tăng giá trị sản xuất công nghiệp đều đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra; kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng 21,5% cao hơn mức Quốc hội đề ra; nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trực tiếp và gián tiếp tăng nhanh; tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm từ 15,47%
năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007. Các lĩnh vực xã hội khác như giáo dục đào tạo, y
tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao cũng có những tiến bộ lớn, quan trọng.
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến
động phức tạp, khó lường: giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên
thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức
cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới;
khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới
suy giảm; ở trong nước thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp ảnh hưởng xấu đến sản xuất và
đời sống dân cư.
Năm 2008, GDP theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu
vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu
vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng
13
Made by Hai
đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Trong bối cảnh
khó khăn gay gắt thì đây là một cố gắng rất lớn.
Năm 2008 có 8 nhóm hàng/mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD là: Dầu thô
10,5 tỷ USD; hàng dệt may 9,1 tỷ USD; giày, dép 4,7 tỷ USD; thuỷ sản 4,6 tỷ USD; gạo 2,9 tỷ
USD; sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD; điện tử, máy tính 2,7 tỷ USD; cà phê 2 tỷ USD, tăng 2 mặt
hàng so với năm 2007 là gạo và cà phê.
Để đảm bảo an sinh xã hội, ngân sách Nhà nước đã chi 42,3 nghìn tỷ đồng, gồm các khoản

chính sau: Chi trợ giá dầu hoả cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng chưa có điện thắp sáng;
trợ giá dầu cho ngư dân đánh bắt xa bờ; chi bảo trợ xã hội; mua thẻ bảo hiểm y tế cho
người nghèo, cận nghèo; cấp học bổng cho học sinh dân tộc nội trú, bán trú; điều chỉnh
tăng 15% mức lương hưu, trợ cấp đối với người về hưu, người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã
hội, người có công với cách mạng; hỗ trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; thực hiện miễn giảm
các khoản đóng góp của người dân; miễn thủy lợi phí, không thu phí dự thi, dự tuyển vào
các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông; miễn lệ phí trước bạ đối với nhà ở, đất ở
của các hộ nghèo; thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với đồng bào thiểu số đặc biệt
khó khăn, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Nhờ có các chính sách an sinh xã hội
như trên và đặc biệt sản xuất nông nghiệp tuy bị ảnh hưởng của biến động giá cả dẫn đến
chi phí tăng cao nhưng do chỉ đạo kịp thời của các cấp, các ngành khắc phục hậu quả,
nhanh chóng ổn định sản xuất nên kết quả đạt khá, đời sống nông dân vì thế cũng đỡ khó
khăn hơn những tháng đầu năm. Do vậy, tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2008 ước
tính 13,5%, thấp hơn với mức 14,8% của năm 2007.
Khái quát lại, năm 2008 là năm kinh tế-xã hội nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức, nhất là khủng hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát tăng cao, thiên tai, dịch bệnh
liên tiếp xảy ra trong nước. Tuy nhiên, Đảng, Chính phủ đã kịp thời đề ra 8 nhóm giải pháp
nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền
vững; đồng thời chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm và
đồng bộ các nhóm giải pháp đó. Những kết quả quan trọng mà chúng ta đạt được trong
năm 2008 đã khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ là kịp thời và phù
hợp với thực tế. Vì vậy, lạm phát đã được kiềm chế; xuất khẩu ổn định; nhập siêu chuyển
biến tích cực; thu ngân sách nhà nước tiếp tục tăng; thu hút đầu tư nước ngoài phát triển
tốt; sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao; đời sống dân cư ổn định.
Trong 7 tháng đầu năm 2009, kinh tế- xã hội nước ta tuy bị ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế, tài chính thế giới nhưng với tinh thần chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp, cơ sở
kinh tế và nhờ việc thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp đúng đắn và kịp thời của
Trung ương Đảng, Chính phủ nên đang phát triển theo hướng tích cực và đang có dấu hiệu
phục hồi. Sản xuất công nghiệp từng bước ổn định và tiếp tục tăng, nhiều sản phẩm quan
trọng vẫn giữ được mức tăng cao. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng về lượng. Chỉ

số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý. Đời sống nhân dân tiếp tục được quan tâm và cải
thiện.
14
Made by Hai
II- Giải pháp để tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
A- Tóm tắt luận điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Theo các ông có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội: con
đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển
cao; con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa ở những nước tiền tư bản.
Quan nệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xây
dựng trên cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, đồng thời có sự bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Người đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của
mỗi nước khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Người đã chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
+ Theo Người, đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là gì?
+ Theo Người, mâu thuẫn cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
gì?
- Từ việc nhận thức sâu sắc đặc điểm và mâu thuẫn nêu trên, Hồ Chí Minh cho rằng thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ như thế nào?
15
Made by Hai
- Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo Hồ Chí Minh là
gì?
- Theo Hồ Chí Minh những nhân tố đảm bảo thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam là gì?
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
- Trong việc xác định bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh yêu cầu phải quán triệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây
dựng chế độ mới, học tập kinh ngiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng việc áp dụng
những lý luận và kinh nghiệm ấy phải xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta.
Người nói: "Ta không thể dống Liên Xô, ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa
xã hội"; "làm trái với Liên Xô cũng là Mácxít".
- Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều
bước, "bước ngắn, bước dài tuỳ theo hoàn cảnh", nhưng "chớ ham làm mau, ham rầm rộ,
đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần".
- Người đã đưa ra những biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ quá độ ở nước ta gồm:
+ Kết hợp cải tạo với xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, lấy xây dựng làm chủ chốt.
+ Phải đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhân
dân.
+ Phải có kế hoạch, chỉ tiêu, biện pháp rõ ràng và quyết tâm hành động. Trong đó, cần
quán triệt phương châm: "Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi".
B- Giải pháp.
16
Made by Hai
1. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có vị trí như thế nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh và
trong cách mạng Việt Nam?
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ với nhau như thế nào?
- Sự nghiệp đổi mới, với việc phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa quan hệ với tất cả
các nước, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa, phải chăng chúng ta đang thay đổi mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội?
2. Đổi mới là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

- Khi đã xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt quán
triệt biện pháp nào của Bác Hồ?
- Để phát huy sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp đổi mới đòi hỏi chúng ta phải làm
gì?
+ Phải tin dân, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, chú trọng phát triển nguồn nhân lực.
+ Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, tạo sự đồng
thuận xã hội thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội.
17
Made by Hai
18

×