BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TRẦN THỊ BÍCH HÀ
NGHIÊN CỨU
ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI VI TẢO LÀM THỨC ĂN
ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG, SỨC SINH SẢN VÀ
CHẤT LƯỢNG CỦA Artemia franciscana Kelloge, 1906.
LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP
Ngành Nuôi trồng Thủy sản
Mã số : 60 62 70
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ BÍCH MAI
Nha Trang - 2010
i
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nha Trang, Phòng
Đào tạo Sau Đại học, Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Ban quản lý Dự án Hợp phần hỗ
trợ phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững – SUDA đã tạo điều kiện thuận lợi về
vật chất lẫn tinh thần để chúng tôi hoàn thành khóa đào tạo.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy, Cô hướng dẫn:
TS. Hoàng Thị Bích Mai.
ThS. Nguyễn Tấn Sỹ.
Đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực tập và thực hiện đề
tài tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Văn Hải và các cô, chú trong trại
sản xuất giống đã tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất cũng như kỹ thuật để tôi
có thể hoàn thành đề tài tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã tận tình giảng dạy, các bạn
lớp Cao học Nuôi trồng 2009 – SUDA đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận án và khóa học.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến Sở Nông Nghiệp và PTNT Bình Định, Chi
cục Khai thác và BVNL Thủy sản Bình Định, BQL dự án FSPSII Bình Định và các
anh, chị Phòng Quản lý Nguồn lợi và môi trường Thủy sản đã tạo điều kiện và
thường xuyên động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến sự giúp đỡ, động viên của tất cả
người thân trong gia đình.
Nha Trang, tháng 10 năm 2010
Trần Thị Bích Hà
ii
LỜI CAM ĐOAN
Đây là một công trình nghiên cúu độc lập. Các số liệu, kết quả trình bày trong
luận án hoàn toàn trung thực, do chính tác giả làm ra và chưa có một ai công bố
trong bất kỳ nghiên cứu khoa học nào khác.
Tác giả
Trần Thị Bích Hà
iii
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
Danh mục các bảng v
Danh mục các hình vi
Danh mục ký hiệu và chữ viết tắt vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Vai trò của Artemia trong NTTS 3
1.2 Phân loại và đặc điểm sinh học của Artemia 4
1.2.1 Hệ thống phân loại 4
1.2.2 Đặc điểm sinh học 5
1.2.2.1 Vòng đời 5
1.2.2.2 Đặc điểm sinh trưởng 5
1.2.2.3 Đặc điểm dinh dưỡng 8
1.2.2.4 Đặc điểm sinh sản 9
1.2.2.5 Khả năng thích ứng với điều kiện môi trường và phân bố 11
1.3Tình hình nghiên cứu Artemia 12
1.3.1 Trên thế giới 12
1.3.2 Trong nước 14
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1 Đố tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 18
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu 18
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu 18
2.1.3 Thời gian nghiên cứu 18
2.2 Phương pháp nghiên cứu 18
2.2.1 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu chung của đề tài 18
2.2.2 Chuẩn bị các điều kiện thí nghiệm 19
2.2.3 Bố trí thí nghiệm 22
2.2.4 Phương pháp xác định tỷ lệ nở, ấp trứng và thả giống 24
iv
2.2.5 Phương pháp xác đinh một số yếu tố môi trường 25
2.2.6 Phương pháp thu mẫu Artemia 26
2.2.7 Phương pháp kiểm tra sự tăng trưởng, tỷ lệ sống của Artemia 27
2.2.8 Phương pháp xác định sức sinh sản 28
2.2.9 Đánh giá chất lượng của Artemia 28
2.3 Xử lý số liệu 28
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29
3.1 Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến tỷ lệ sống, tốc độ tăng
trưởng, sức sinh sản và chất lượng Artemia sinh khối 29
3.1.1 Diễn biến một số yếu tố môi trường 29
3.1.2 Thành phần loài tảo tạp trong ao nuôi tảo 31
3.1.3 Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến tốc độ tăng trưởng
của Artemia 33
3.1.4 Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến tỷ lệ sống của
Artemia 36
3.1.5 Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến sức sinh sản của
Artemia 39
3.1.6 Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến chất lượng của
Artemia sinh khối 41
3.2 Thử nghiệm nuôi Artemia sinh khối bằng tảo Chaetoceros sp. trong bể xi
măng 43
3.2.1 Diễn biến một số yếu tố môi trường 43
3.2.2 Tốc độ tăng trưởng của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros sp. trong bể
xi măng 45
3.2.3 Tỷ lệ sống của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros sp. trong bể xi măng. 47
3.2.4 Sức sinh sản của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros sp. trong bể xi
măng 49
3.2.5 Chất lượng của Artemia sinh khối nuôi bằng tảo Chaetoceros sp. trong
bể xi măng 51
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 53
4.1 Kết luận 53
4.2 Đề xuất ý kiến 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Diễn biến cá yếu tố môi trường trong các lô thí nghiệm 29
Bảng 3.2: Thành phần loài tảo tạp 31
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến sự tăng trưởng của
Artemia 33
Bảng 3.4 Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến tốc độ tăng trưởng
của Artemia 34
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến tỷ lệ sống của
Artemia 36
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến sức sinh sản của
Artemia 39
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của các loại tảo làm thức ăn đến
thành phần acid béo trong
Artemia sinh khối
41
Bảng 3.8: Diễn biến các yếu tố môi trường trong các bể thí nghiệm 44
Bảng 3.9: Sự tăng trưởng về chiều dài (mm) của Artemia nuôi bằng tảo
Chaetoceros sp. trong bể xi măng 45
Bảng 3.10: Tốc độ tăng trưởng (%ngày) của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros
sp. trong bể xi măng 45
Bảng 3.11: Tỷ lệ sống của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros sp. trong bể xi
măng 48
Bảng 3.12: Sức sinh sản (số phôi/ Artemia cái) khi nuôi bằng tảo Chaetoceros sp.
trong bể xi măng 49
Bảng 3.13:
Thành phần acid béo trong sinh khối Artemia
nuôi bằng tảo
Chaetoceros sp. trong bể xi măng 51
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Trang
Hình 1.1: Artemia là vật trung gian chuyển các thành phần đặc thù vào ấu trùng
nuôi 3
Hình 1.2: Vòng đời phát triển của Artemia 5
Hình 1.3: Giai đoạn bung dù và hình thái ấu trùng của Artemia 6
Hình 1.4: Hiện tượng bắt cặp của Artemia 9
Hình 1.5: Trứng bào xác của Artemia 10
Hình 2.1: Sơ đồ mô tả các nội dung nghiên cứu của đề tài 18
Hình 2.2: Hệ thống nuôi tảo sinh khối chuẩn bị cho thí nghiệm 1 21
Hình 2.3: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm
thức ăn đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống, sức sinh sản và chất lượng sinh khối
Artemia 22
Hình2.4: Bố trí thí nghiệm 1 23
Hình 2.5: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu ở thí nghiệm 2 23
Hình 2.6 : Bố trí thí nghiệm 2 24
Hình 2.7: Máy đo đa yếu tố YSI 26
Hình 2.8: Vị trí thu mẫu Artemia 26
Hình 3.1: Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến sự tăng trưởng về
chiều dài (mm) của Artemia 35
Hình 3.2: Ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến tỷ lệ sống của
Artemia 37
Hình 3.3: Giải phẫu buồng trứng của Artemia cái dưới kính hiển vi 39
Hình 3.4: Sự tăng trưởng về chiều dài (mm) của Artemia nuôi bằng tảo
Chaetoceros sp. trong bể xi măng 46
Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng (%ngày) của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros sp.
trong bể xi măng 47
Hình 3.6: Tỷ lệ sống của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros sp. trong bể xi
măng 50
vii
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
o NTTS : Nuôi trồng thủy sản.
o NT: nghiệm thức.
o Ctv: cộng tác viên.
o Mg/L: miligam trên lít.
o L: lít.
o SSS: Sức sinh sản.
o SFA: acid béo bão hòa.
o MUFA: acid không no một nối đôi.
o PUFA: acid không no nhiều nối đôi (có từ 2 nối đôi trở lên).
o HUFA: (Highly Unsaturated Fatty Acids ) : acid béo không no bậc cao, có
mạch từ 20 cacbon trở lên và có từ 4-6 nối đôi trong mạch cacbon.
o DHA: Decosahexaenoic Acid (22:6n-3).
o EPA: Eicosapentaenoic Acid (20:5n-3).
o TFA: tổng acid béo.
1
MỞ ĐẦU
Artemia thuộc nhóm giáp xác nhỏ có tập tính ăn lọc không chọn lựa và có
thể sử dụng được nhiều loại thức ăn khác nhau như: vi tảo, bột đậu nành, cám gạo,
phân gà…Với giá trị dinh dưỡng cao, nên từ lâu ấu trùng Artemia lúc mới nở đã là
loại thức ăn rất quan trọng và không thể thiếu trong sản xuất giống thủy sản. Bên
cạnh đó, Artemia ở giai đoạn tiền trưởng thành và trưởng thành là thức ăn có giá trị
dinh dưỡng cao hơn ở giai đoạn ấu trùng và là thức ăn rất được ưa thích của rất
nhiều loài cá và giáp xác, nên được sử dụng phổ biến trong nuôi thương phẩm các
đối tượng thủy sản (Sorgeloos, 1980; Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007).
Ở Việt Nam Artemia được du nhập vào từ đầu thập niên 80 dưới dạng trứng
bào xác để làm thức ăn cho tôm càng xanh. Artemia franciscana có nguồn gốc từ
Mỹ nhưng sau thời gian thích nghi gần như đã trở thành dòng bản địa của Việt Nam
và có đặc điểm khác xa với tổ tiên của chúng. Hiện nay, những sản phẩm trứng bào
xác và sinh khối Artemia đã được sử dụng một cách đại trà trong ương nuôi tôm, cá,
giáp xác…
Là loài có tập tính ăn lọc không chọn lựa nên trong ao nuôi, thức ăn cho
Artemia chủ yếu dựa vào việc bón phân gây màu tảo trực tiếp hoặc gián tiếp (ao
gây màu) (Rothuis, 1986; Van der Zanden, 1987, 1988, 1989). Tuy nhiên, giá trị
dinh dưỡng của các loài tảo là khác nhau nên ảnh hưởng tới tỷ lệ sống, tăng trưởng
và chất lượng sinh khối Artemia cũng khác nhau.
Trong khi đó tại Khánh Hòa, một số thử nghiệm nuôi thu sinh khối Artemia
ở các khu ruộng muối đã được thực hiện nhưng năng suất và chất lượng chưa cao,
có thể do chưa xác định được cũng như điều khiển sự ảnh hưởng của thức ăn đến
sinh trưởng, tỉ lệ sống và chất lượng Artemia nuôi sinh khối đặc biệt là ảnh hưởng
của các loài vi tảo làm thức ăn cho Artemia.
Tuy nhiên những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của các loài vi tảo tại
Khánh Hòa đến năng suất và chất lượng của Artemia còn rất ít và chưa có dẫn liệu
đầy đủ để áp dụng vào việc nuôi sinh khối Artemia. Vì vậy, để nâng cao năng suất
cững như chất lượng Artemia sinh khối khi nuôi tại Khánh Hòa cần có nhiều nghiên
2
cứu hơn về thức ăn cho Artemia. Từ đó bổ sung các cơ sở khoa học nhằm hoàn
chỉnh quy trình nuôi sinh khối Artemia franciscana ở vùng ven biển Khánh Hòa.
Trước những bối cảnh chung và thực trạng nêu trên, tôi thực hiện đề tài:
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI VI TẢO LÀM THỨC
ĂN ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG, SỨC SINH SẢN VÀ CHẤT
LƯỢNG CỦA Artemia franciscana Kelloge, 1906 ”
Mục tiêu đề tài: Xác định loại vi tảo thích hợp làm thức ăn cho Artemia
franciscana.
Để đáp ứng được mục tiêu trên, chúng tôi thực hiện các nội dung nghiên cứu
sau:
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loài vi tảo làm thức ăn đến sự sinh trưởng,
tỷ lệ sống, sức sinh sản, chất lượng của Artemia franciscana .
- Thử nghiệm nuôi sinh khối Artemia trong bể xi măng.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Kết quả đề tài là một trong những cơ sở để cải tiến quy trình
nuôi sinh khối Artemia franciscana với năng suất và chất lượng cao.
Ý nghĩa thực tiễn: Xác định loài vi tảo làm thức ăn thích hợp cho Artemia.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thủy sản:
Với giá trị dinh dưỡng cao, nên từ lâu ấu trùng Artemia lúc mới nở đã là loại
thức ăn rất quan trọng và không thể thiếu được trong sản xuất giống thủy sản.
Theo Trecce, 2000 thì hàm lượng HUFA có trong Artemia sinh khối đóng
vai trò quan trọng trong ương nuôi các loài thủy sản, nó quyết định tới sự thành
công của mẻ nuôi, nếu hàm lượng HUFA trong Artemia thấp thì mẻ ương nuôi tôm
cá cho ăn bằng Artemia sẽ đạt tỉ lệ sống và tốc độ tăng trưởng giảm [4].
Nauplii của Artemia là loài có kích thước nhỏ, vận động trong nước nên
được xem là loại thức ăn lý tưởng cho ấu trùng của tôm cá. Hiện nay, ấu trùng của
Artemia được sử dụng rộng rãi ở các trại sản xuất giống bởi nhiều lý do sau:
- Giá trị dinh dưỡng cao: Như protein và các acid béo không no cao, hàm
lượng HUFA có trong Artemia đóng vai trò quan trọng trong ương nuôi các loài
thủy sản, nó quyết định đến thành công trong mẻ nuôi [6].
- Với đặc điểm không phụ thuộc vào mùa vụ, thời tiết và có thể thu với số
lượng lớn (trứng bào xác nở sau 18÷20 giờ ấp với độ mặn khoảng 30÷35‰) nên có
thể xử lý ấu trùng Artemia trước khi cho ăn hoặc sử dụng chúng như một bao sinh
học để chứa dinh dưỡng đặc biệt là phòng trị bệnh chuyển tới ấu trùng nuôi [8].
Hình 1.1: Artemia là vật trung gian vận chuyển các thành phần đặc thù vào ấu trùng nuôi [9].
Bên cạnh đó, giá trị dinh dưỡng của Artemia cũng thay đổi theo các giai
đoạn phát triển của nó. Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành được gọi là sinh
4
khối có giá trị dinh dưỡng cao hơn Artemia mới nở từ trứng và được sử dụng phổ
biến làm thức ăn trong các trại giống và trại ương nuôi vỗ. Artemia trưởng thành có
giá trị dinh dưỡng cao (lớp vỏ giáp mỏng chiếm 60% trọng lượng đạm và rất giàu
amino acid tính trên trọng lượng khô). Người ta khám phá ra rằng sử dụng sinh khối
Artemia trưởng thành có thể gây phát dục cho tôm mà không cần cắt mắt. Nhiều
nghiên cứu cũng đã chứng minh việc sử dụng Artemia sinh khối để nuôi vỗ tôm cá
bố mẹ đã kích thích sự thành thục của buồng trứng, gia tăng số lần đẻ và cải thiện
chất lượng ấu trùng [13].
Các đặc điểm trên kết hợp với kỹ thuật làm giàu sinh học nhằm làm tăng chất
lượng sinh khối Artemia làm thức ăn sống tối ưu cho ương nuôi tôm cá và có thể
thay thế trứng nước và trùn chỉ (nguồn thức ăn nhiều mầm bệnh) trong nghề nuôi cá
cảnh nhiệt đới [6].
Sinh khối Artemia còn được dùng để làm thành phần hoặc chất kích thích
trong thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm cá. Tuy nhiên khá phổ biến là dùng sinh
khối đông lạnh Artemia để thay thế cho ấu trùng Artemia mới nở trong sản xuất
giống tôm he Marsupenaeus japonieus [5].
1.2 Phân loại và đặc điểm sinh học của Artemia:
1.2.1 Hệ thống phân loại:
Giới (Kingdom) Động vật (Animalia)
Ngành (Phylum) Chân khớp (Arthropoda)
Lớp (Class) Giáp xác (Crustacea)
Lớp phụ (Subclass) Chân mang (Branchiopoda)
Bộ (Order) Anostraca
Họ (Family) Artemiidae Grockwski, 1895
Giống (Genus) Artemia Leach, 1819
Loài (Species) Artemia franciscana Kelloge, 1906
Tên thường gọi: Artemia.
Tên tiếng Anh: Brine shrimp.
5
1.2.2 Đặc điểm sinh học của Artemia
1.2.2.1. Vòng đời của Artemia
Artemia có vòng đời ngắn (ở điều kiện tối ưu có thể phát triển thành con
trưởng thành sau 7-8 ngày nuôi), sức sinh sản cao (Sorgeloos, 1980; Jumalon, et
al.,1982).
Hình 1.2: Vòng đời phát triển của Artemia (Jumalon et al.,1982)(trích
theo Nguyễn Văn Hòa, 2002) [6].
Trong một vòng đời, Artemia trải qua 4 giai đoạn phát triển là: Giai đoạn
trứng bào xác, giai đoạn ấu trùng, giai đoạn tiền trưởng thành và giai đoạn trưởng
thành. Ở mỗi giai đoạn phát triển Artemia có đặc điểm hình thái và sinh trưởng
khác nhau.
1.2.2.2 Đặc điểm sinh trưởng.
Trứng bào xác khi gặp môi trường nước biển sẽ hấp thụ nước và trở nên
căng tròn (trương nước). Lúc này bên trong trứng bắt đầu diễn ra quá trình trao
đổi chất, phôi bắt đầu phát triển. Trứng ngậm nước và tiêu thụ oxy để hoàn tất quá
trình chuyển hóa carbohydrate. Trứng trương nước và sau khoảng 18 – 20 giờ
màng nở bên ngoài sẽ nứt ra phôi xuất hiện và phôi vẫn được bao quanh bởi màng
nở.
6
Trong khi phôi đang treo bên dưới vỏ trứng (giai đoạn bung dù) sự phát
triển của ấu trùng được tiếp tục và một thời gian ngắn sau đó màng nở bị phá vỡ
(giai đoạn nở) và ấu thể Artemia được phóng thích ra ngoài [8].
Hình 1.3: Giai đoạn bung dù và hình thái ấu trùng của Artemia.
- Giai đoạn ấu trùng:
Sau khoảng thời gian 20 – 24 giờ trứng bào xác gặp môi trường nước biển,
ấu trùng Artemia được sinh ra (Instar I) [7]. Ấu trùng Artemia mới nở (instar I), có
chiều dài 400-500 µm có màu vàng cam, có mắt Nauplii màu đỏ ở phần đầu và ba
đôi phụ bộ (anten I có chức năng cảm giác, anten II có chức năng bơi lội và lọc
thức ăn và bộ phận hàm dưới để nhận thức ăn). Mặt bụng ấu trùng được bao phủ
bằng mảnh môi trên lớn (để nhận thức ăn: chuyển các hạt từ tơ lọc thức ăn vào
miệng). Ấu trùng giai đoạn này không tiêu hóa được thức ăn, vì bộ máy tiêu
hóa chưa hoàn chỉnh, chúng sống dựa vào nguồn dinh dưỡng noãn hoàng [8].
Sau khi nở (8-10 giờ), ấu trùng lột xác thành giai đoạn II (instar II). Lúc
này, chúng có thể tiêu hóa các hạt thức ăn cỡ nhỏ (tế bào tảo, vi khuẩn, chất vẩn)
có kích thước từ 1 đến 50 µm nhờ vào đôi anten II, và lúc này bộ máy tiêu hóa đã
hoạt động [6].
- Giai đoạn tiền trưởng thành:
Ở giai đoạn này, cơ thể Artemia kéo dài dần, các đôi phần phụ dần xuất hiện
ở hai bên mắt. Từ sau lần lột xác thứ 10 trở đi chúng có sự thay đổi lớn về hình thái
và chức năng các đôi phần phụ. Đôi râu II mất đi chức năng vận động và lọc thức ăn
chuyển sang biệt hóa giới tính. Ở con đực, đôi râu II phát triển thành đôi càng lớn
7
dùng để bám vào con cái khi cặp đôi, trong khi râu II của con cái biệt hóa thành
phần phụ cảm giác. Các chân ngực được biệt hóa thành ba bộ phận chức năng: đốt
gốc và nhánh trong làm nhiệm vụ vận động và lọc thức ăn, nhánh ngoài có dạng
màng (mang) làm nhiệm vụ hô hấp [13].
- Giai đoạn trưởng thành:
Nauplius trải qua 15 lần lột xác trở thành Artemia trưởng thành. Artemia
trưởng thành trong quần thể có cá thể đực và cái dài khoảng 1 cm. Chúng có cơ thể
kéo dài với hai mắt kép, ống tiêu hóa thẳng, một đôi râu cảm giác và có 11 đôi chân
ngực. Chận ngực có dạng bản rộng gồm lá trong, lá ngoài và lá quạt tạo thành. Giữa
lá quạt và lá ngoài có một mảnh nhỏ mềm mại đó là mang (cơ quan hô hấp của
Artemia). Chân ngực phát triển và có 3 chức năng: Bơi lội, lọc thức ăn và hô hấp
[5].
Phần bụng có 8 đốt không có chân phụ (ở con cái đốt 1 và 2 của phần bụng
kết hợp với nhau hình thành nang trứng, ở con đực hình thành cơ quan giao cấu),
đốt cuối phần bụng có chẽ đôi dẹt và bằng. Xung quanh có nhiều tiêm mao, đuôi
lớn hay nhỏ tiêm mao nhiều hay ít thay đổi theo sự biến đổi của độ mặn (độ mặn
càng cao đuôi càng thu nhỏ lại) [6].
Trong giai đoạn Artemia trưởng thành con đực có đôi gai giao phối ở phần
sau của vùng ngực và có đôi càng hình móc rất đặc thù ở vùng đầu. Đối với con cái
rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung nằm ngay sau đôi chân ngực thứ 11,
chúng thường có kích thước lớn hơn con đực. Artemia ở giai đoạn này bắt đầu kết
cặp và tiến hành sinh sản [4].
Tuổi thọ trung bình của cá thể Artemia trong các ao nuôi ở ruộng muối
khoảng 40-60 ngày tùy thuộc điều kiện môi trường (Nguyễn Văn Hòa và ctv,
1994). Tuy nhiên, quần thể Artemia trong ruộng muối vẫn tiếp tục duy trì ngay
cả trong mùa mưa khi độ mặn trong ao nuôi giảm thấp (60‰) nếu ruộng nuôi
không bị địch hại (tôm, cá) tấn công và vẫn cung cấp đầy đủ thức ăn ( Brand et al.,
1995)[13].
8
1.2.2.3 Đặc điểm về dinh dưỡng
Artemia là loài sinh vật ăn lọc không chọn lựa (Reeve, 1963;
Johson,1980; Dobbeir et al.,1980), chúng sử dụng mùn bã hữu cơ, tảo đơn bào và vi
khuẩn có kích thước nhỏ hơn 50µm. Ấu trùng Artemia mới nở không sử dụng thức
ăn ngoài vì bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, lúc này ấu trùng sống dựa vào nguồn
dinh dưỡng từ noãn hoàng. Sau khi nở 8 giờ ấu trùng có thể sử dụng thức ăn có kích
cỡ 25÷30µm và tăng lên 40÷50µm khi đạt kích cỡ trưởng thành [4].
Artemia có thể ăn và tiêu hóa vi sinh vật ngoại sinh như một phần thức ăn
của nó. Vì vậy những loài vi khuẩn và sinh vật đơn bào nào sinh trưởng dễ dàng
trong môi trường nuôi Artemia đều có thể thay thế cho bất kì sự thiếu hụt nào về
thành phần thức ăn[7].
Sử dụng vi tảo là nguồn thức ăn có thể cho kết quả nuôi tốt nhất nhưng khó
có được số lượng tảo đủ để nuôi sinh khối với chi phí thấp. Hơn nữa, không phải tất
cả các loài đơn bào đều được xem là thích hợp đối với việc duy trì sinh trưởng của
Artemia [5]. Theo Nguyễn Văn Hòa và ctv (2005), thì tảo Chaetoceros sp. cho kết
quả vượt trội về tỷ lệ sống, các chỉ tiêu sinh sản và hàm lượng axit béo khi so sánh
với Artemia cho ăn bằng tảo tạp thu ngoài ao bón phân tự nhiên. Tảo Chlorella sp
và Stichococcus sp. có vách tế bào dày nên Artemia khó có thể tiêu hóa được, tảo
Coccochloris sp. sinh ra các chất gelatin làm cản trở sự hấp thụ thức ăn và một số
chủng trùng roi sản sinh ra các chất độc làm chết Artemia [8].
Đối với tảo khô, hầu hết các trường hợp bột tảo đều cho kết quả sinh trưởng
tốt. Nhưng điểm yếu khi sử dụng loại thức ăn này là chi phí cao và gây trở ngại cho
chất lượng nước [4].
Đối với các chế phẩm từ công nghiệp thực phẩm (như cám gạo, bột ngũ cốc,
bột đậu nành, nước sữa…) xem ra là nguồn thức ăn thích hợp cho việc nuôi Artemia
mật độ cao (Dobbeleir và ctv, 1980) [12]. Tuy nhiên, Artemia không ăn các chất
hòa tan và do đó các chất này bị vi khuẩn phân hủy trong môi trường nuôi làm giảm
chất lượng nước.
9
Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối nông dân thường sử dụng phối hợp
phân chuồng (chủ yếu là phân gà) kết hợp với phân vô cơ (Urea, DAP ) để gây
màu trực tiếp (trong ao nuôi Artemia) hoặc gián tiếp (ngoài ao bón phân) trước khi
cấp nước nước tảo vào ao nuôi. Phân gà khi được bón trực tiếp vào ao nuôi, ngoài
việc cung cấp dinh dưỡng kích thích tảo phát triển, còn là nguồn thức ăn trực tiếp
cho Artemia. Ngoài ra, khi lượng nước tảo cung cấp vào ao hàng ngày bị thiếu hụt,
nông dân còn sử dụng cám gạo, bột đậu nành hoặc các loại phụ phẩm nông nghiệp
khác để duy trì quần thể Artemia[8].
1.2.2.4 Đặc điểm sinh sản
Artemia phát triển thành con trưởng thành sau 2 tuần nuôi và bắt đầu tham
gia sinh sản với sức sinh sản tối đa 300 Nauplii hoặc trứng bào xác trong vòng 4
ngày [13]. Artemia sinh sản ở 2 dạng: đơn tính (trinh sản không có sự tham gia của
cá thể đực) và hữu tính (có sự tham gia của cá thể đực và cái).
Đối với Artemia sinh sản hữu tính khi trưởng thành con đực dùng đôi càng
ôm phần bụng của con cái gọi là “hiện tượng bắt cặp”:
Hình 1.4: Hiện tượng bắt cặp của Artemia [25]
Quá trình giao cấu diễn ra khi bơi lội, trong tư thế bắt cặp con đực sẽ cong
mình và dùng một trong hai gai sinh dục chuyển sản phẩm sinh dục vào buồng
trứng của con cái và trứng sẽ được thụ tinh [13].
10
Trứng phát triển trong hai buồng trứng dạng ống ở phần bụng, khi trứng chín
có dạng cầu và di chuyển qua hai ống dẫn để vào tử cung. Lúc này có thể xảy ra hai
phương thức sinh sản của Artemia đó là:
Đẻ con: Trong điều kiện môi trường thuận lợi (hàm lượng oxy cao, biên độ
giao động oxy thấp, thức ăn nghèo sắt) Artemia sinh sản theo phương thức đẻ con.
Thông thường trứng thụ tinh và phát triển thành ấu trùng bơi lội tự do [5].
Đẻ trứng: Trong điều kiện bất lợi (hàm lượng oxy thấp, thức ăn giàu sắt) thì
Artemia sinh sản theo phương thức đẻ trứng. Trứng được thụ tinh, phôi phát triển
đến thời kỳ phôi vị (gastrul). Lúc này trứng tự khử bớt nước và kết quả là sự trao
đổi chất chuyển sang trạng thái nghỉ, trở thành kén. Trứng nghỉ có vỏ rất dày (được
tiết ra từ lớp vỏ trong tử cung), màu nâu tối còn gọi là trứng “tiềm sinh” (diapause)
và được con cái phóng thích ra ngoài [5].
Đường kính trứng khoảng 200÷280 µm. Trọng lượng trung bình của trứng
khoảng 3,5 µg. Trứng nổi lên trên mặt nước ở độ mặn lớn hơn 70‰ hoặc lơ lửng
trong nước. Trứng có thể chìm lắng trong bùn đáy, trải qua môi trường khắc nghiệt
như khô hạn, gió lạnh… Trứng bào xác có thể bảo quản lâu dài trong vài năm [13].
Hình 1.5: Trứng bào xác của Artemia [21]
Một cá thể Artemia cái có thể mang từ 70 – 300 trứng hoặc Nauplii. Nếu
nuôi trong phòng thí nghiệm thì chỉ khoảng 30 – 40 trứng hoặc ấu thể trong một chu
kì 4 ngày [4].
11
Theo J.vos (1980) kiểu sinh sản của Artemia được kiểm soát bởi một số yếu
tố môi trường như sau [6]:
Đẻ trứng Đẻ con
Độ mặn cao
Hàm lượng Oxy thấp
Biên độ giao động Oxy cao
Thức ăn giàu sắt
Độ mặn thấp
Hàm lượng Oxy cao
Biên độ giao động Oxy thấp
Thức ăn nghèo sắt
1.2.2.5 Khả năng thích nghi với điều kiện môi trường và nơi phân bố:
Nhiệt độ, thức ăn và nồng độ muối là những yếu tố chính ảnh hưởng đến sự
gia tăng mật độ của quần thể Artemia hoặc cả sự vắng mặt tạm thời của chúng
(Sorgeloos, 1980) [15].
Trong tự nhiên, Artemia thường hiện diện ở các thủy vực có nồng độ muối
cao, vì ít có sự hiện diện của các loài cá, tôm dữ và các động vật cạnh tranh thức
ăn khác như luân trùng, giáp xác nhỏ ăn tảo. Mặc dù Artemia có thể phát triển tốt
ở nước biển tự nhiên nhưng chúng không thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác
qua đường biển do chúng không có cơ chế bảo vệ để chống lại sinh vật dữ (cá,
tôm) và cạnh tranh với các sinh vật ăn lọc khác. Sự thích nghi về sinh lý của
chúng ở độ mặn cao giúp chúng chống lại sinh vật đó một cách hiệu quả, cơ chế
này bao gồm:
- Hệ thống điều hoà áp suất thẩm thấu rất tốt.
- Khả năng tổng hợp các sắc tố hô hấp cao nhằm thích nghi với điều
kiện có hàm lượng oxy thấp ở nơi có độ mặn cao.
Đối với ao nuôi, độ mặn thấp (< 70‰) thường xuất hiện Copepoda là địch
hại của ấu trùng Artemia. Ngược lại, độ mặn quá cao ( > 120‰ ) có thể gây chết
cho Artemia. Độ mặn cao còn là dẫn xuất tốt cho nhiệt độ vì vậy trong ao nuôi
thích hợp nhất là duy trì ở mức 80-100‰. Theo Wear và Haslett (1986), khi độ
mặn thấp sẽ có nhiều địch hại và nhiều loài tảo không thích hợp xuất hiện; Ở độ
12
mặn bão hòa ( ≥ 250 ‰ ) Artemia chết đồng loạt do môi trường vượt ngưỡng chịu
đựng và việc trao đổi chất cực kỳ khó khăn [6].
Ngoài ra nhiệt độ cũng là một trong những yếu tố môi trường có ảnh hưởng
trực tiếp đến sinh trưởng và sinh sản của Artemia. Nhiệt độ quá thấp (≤ 20
o
C)
Artemia sẽ sinh trưởng chậm hoặc chết rải rác và ngược lại nhiệt độ quá cao
(>36
o
C) gây ra hiện tượng chết rải rác hoặc hàng loạt, giảm khả năng sinh sản và
sự phục hồi của quần thể (Ngô Thị Thu Thảo, 1992; Nguyễn Thị Ngọc Anh và
ctv,1997) [20].
Các dòng Artemia khác nhau thích nghi rộng với sự biến đổi môi trường
khác nhau phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ (6-35
o
C), độ mặn và thành phần ion của
môi trường sống. Ở các thủy vực nước mặn, muối NaCl là thành phần chủ yếu tạo
nên các sinh cảnh Artemia ven biển và các sinh cảnh nước mặn khác nằm sâu trong
đất liền, chẳng hạn hồ Great Salt Lake (GSL) ở Utah, Mỹ[7].
Các sinh cảnh Artemia khác không có nguồn gốc từ biển nằm sâu trong lục
địa có thành phần ion khác rất nhiều so với nước biển: Vực nước sulphate (Chaplin
lake, Saskatchewan, Canada), vực nước carbonate (hồ Mono Lake, California, Mỹ),
và các vực nước giàu lân (rất nhiều hồ ở Nebraska, Mỹ)[3].
Ở Việt Nam, Artemia franciscana được nuôi rộng rãi, mặc dù có nguồn gốc
từ Mỹ (San Francisco Bay, USA) nhưng sau thời gian thích nghi loài này gần như
đã trở thành loài bản địa của Việt Nam và chúng có nhiều đặc điểm khác xa so với
tổ tiên chúng đặc biệt là khả năng chịu nóng. Hiện tại chúng có thể phát triển tốt
trong điều kiện [9]:
- Độ mặn : 80 - 120 ‰
- Nhiệt độ: 22 - 35
o
C
- Oxy hoà tan: không thấp hơn 2 mg/l
- pH từ trung tính đến kiềm (7.0 - 9.0).
1.3 Tình hình nghiên cứu về Artemia trong nước và trên thế giới:
1.3.1 Trên thế giới :
Từ những năm 1930, Artemia đã được biết đến là một nguồn thức ăn lý tưởng
13
trong ương nuôi ấu trùng tôm, cá [18]. Trong khoảng những năm 1950, trứng bào
xác của Artemia được thu từ các ruộng muối ven biển và các hồ nước mặn tự nhiên
đã có giá trị thương mại trên thị trường thế giới (Sorgeloos, 1980). Năm 1950 –
1960, nền công nghiệp khai thác trứng bào xác Artemia ở Mỹ phát triển mạnh mẽ.
Trong những năm 1970 – 1980, nhu cầu về trứng bào xác Artemia tăng rất nhanh và
nhiều quốc gia đã nghiên cứu thu trứng bào xác Artemia từ tự nhiên (Argentina,
Australia, Canada, Colombia, Pháp, Trung Quốc,…)[7]. Cuối những năm 1980,
Trường Đại học Ghent ở Bỉ đã có các chương trình nghiên cứu quốc tế về nuôi và
sử dụng sinh khối Artemia. Trong những năm gần đây nghề nuôi tôm, cá biển ở
nhiều nước trên thế giới phát triển mạnh (Thái Lan, Trung Quốc, Philipine,
Indonesia,…) nên nhu cầu về trứng bào xác và sinh khối Artemia ngày càng tăng
[6]. Do đó nhiều quốc gia đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu về Artemia.
Các nước Đông Nam Á thường chọn dòng San Francisco Bay (SFB) vì khả
năng thích nghi với nhiệt độ cao và có chất lượng tốt hơn so với các dòng khác. Tại
Philipine năm 1977, từ 80g trứng bào xác dòng SFB ấp nở và nuôi ở độ mặn 140‰,
đến cuối năm 1978 đã thu được 35 kg trứng bào xác khô đạt chất lượng[18].
Bên cạnh đó, Artemia với tập tính ăn lọc không chọn lựa, chúng có khả năng
lọc các vật chất lơ lửng trong nước (mùn bã hữu cơ, vi khuẩn, tế bào tảo đơn bào)
ở phạm vi kích thước hạt nhỏ hơn 50 µm (Sorgeloos et al., 1986). Do vậy, một số
nghiên cứu về sử dụng vi tảo làm thức ăn trong nuôi sinh khối Artemia đã được
thực hiện trong những năm sau đó.
Rothurs, 1986; Van Der Zanden, 1987, 1988, 1989 đã cho biết trong điều kiện
nuôi Artemia, thức ăn chủ yếu dựa vào việc bón phân gây màu tảo trực tiếp (trong
ao nuôi) hoặc gián tiếp (ao gây màu), những loài tảo thích hợp làm thức ăn cho
Artemia là: tảo Silic (Chaetoceros sp., Nitschia sp.), tảo Lục (Tetraselmis sp.,
Dunaliella sp.)[7].
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng hàm lượng acid béo không no có trong
Artemia phần lớn phụ thuộc vào thức ăn mà nó nhận được (Leger et al.,1986;
Sorgeloos et al.,1996) [15].
14
Theo công bố của Forster và Wickins (1967), Wickins (1972), Artemia được
nuôi trong 24 giờ hoặc 4 ngày trong môi trường tảo Isochrysis galbana ở mật độ
10.000 Nauplii/L với mật độ tảo 300 tế bào/µL đã trở thành thức ăn thích hợp cho
ấu trùng của tôm Càng xanh [6].
Naegel (1999) nuôi sinh khối Artemia bằng tảo Chaetoceros sp. và thức ăn
thương mại Nestum, kết quả cho thấy sau 14 ngày nuôi tỷ lệ sống và tăng trưởng
của Artemia ở hai nghiệm thức này là như nhau nhưng hàm lượng lipid của Artemia
cho ăn bằng thức ăn Nestum cao hơn Artemia cho ăn bằng tảo Chaetoceros sp. [12].
Nghiên cứu về liều lượng tảo trong nuôi Artemia đã được Evjeno và Olsen
(1999) trình bày trong thí nghiệm nuôi Artemia bằng tảo Isochrysis galbana.
Trong thí nghiệm này, 6 nghiệm thức được triển khai với liều lượng thức ăn đưa vào
biến động từ 0.2 đến 20 mg C (carbon)/lít, thời gian nuôi là 12 ngày và nồng độ
muối trong suốt quá trình nuôi là 34‰, nhiệt độ nước được duy trì trong khoảng
26-28
o
C. Kết quả cho thấy sự tăng trưởng của Artemia chịu ảnh hưởng khá lớn của
liều lượng thức ăn đưa vào [8].
Lora-Vilchis và Voltolina (2003) đã thực hiện thí nghiệm sử dụng 2 loại tảo
Chaetoceros muelleri và Chlorella capsulata làm thức ăn cho Artemia, sau 7
ngày nuôi thấy rằng Artemia khi được cho ăn với liều lượng 11.7, 23.4 và 46.8
mg/lít/ngày với 2 loại tảo nêu trên thì tỉ lệ sống giữa các nghiệm thức là như nhau,
sai biệt không có ý nghĩa thống kê, tỉ lệ sống đạt trên 80% [8].
Sử dụng tảo trong nuôi sinh khối Artemia cũng được thực hiện tiếp tục vào
những năm tiếp theo, Lora-Vilchis et al., (2004) đã sử dụng hai loài tảo
Isochrysis sp. và Chaetoceros muelleri làm thức ăn trong giai đoạn đầu của
Artemia. Kết quả cho thấy sau 7 ngày nuôi tỉ lệ sống của Artemia không khác biệt
có ý nghĩa, ở nghiệm thức Artemia cho ăn bằng tảo Isochrysis sp., tỉ lệ sống là 85%
trong khi Artemia cho ăn tảo Chaetoceros muelleri có tỉ lệ sống là 93% [7].
1.3.2. Trong nước.
Artemia không phân bố tự nhiên ở Việt Nam, nhưng do có giá trị dinh dưỡng
cao và là loại thức ăn không thể thiếu được trong sản xuất giống thủy sản nên đã
15
được nhiều đơn vị nghiên cứu trong nước quan tâm và đến năm 1982 Artemia được
du nhập vào Việt nam thông qua bước đầu thử nghiệm nuôi Artemia ở Nha trang từ
dòng San Francisco Bay, Mỹ (Vũ Đỗ Quỳnh và Nguyễn Ngọc Lâm ,1987). Năm
1984, Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ đã tiến hành thí nghiệm nuôi
Artemia thu trứng bào xác ở vùng ven biển Vĩnh Châu (Sóc Trăng) và Bạc Liêu và
đã trở thành 2 vùng trọng điểm cung cấp trứng bào xác Artemia có chất lượng cao
cho thị trường trong và ngoài nước (Hòa và ctv, 1994, Anh và ctv, 1997). Đến nay
quy trình nuôi Artemia thu trứng bào xác được trường Đại học Cần Thơ nghiên cứu
thành công và triển khai sản xuất đại trà tại hai địa phương trên. Tuy nhiên, nuôi
Artemia thu sinh khối đến nay chưa phát triển và thị trường sử dụng sinh khối
Artemia còn rất hạn chế (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007) [7].
Trước đó Lê Thị Ngọc Anh và Dương Thị Thuận (1978) đã tiến hành thử
nghiệm nuôi Artemia trong phòng thí nghiệm, sử dụng thức ăn là lòng đỏ trứng gà
và cám sấy nghiền nhỏ rây kỹ pha theo tỷ lệ 1gram/ Lít môi trường. Điều kiện nhiệt
độ 18 - 31
o
C, độ mặn 30 – 35‰ sau 10 ngày nuôi đã phân biệt đực cái, chiều dài cá
thể lớn nhất đo được là 11.5 mm. Thời gian khép kín vòng đời 15 – 20 ngày. Trong
môi trường cám gạo, Artemia đạt chiều dài trung bình 3.72 mm sau 7 ngày nuôi [1].
Năm 1991, Vũ Dũng tiến hành nghiên cứu xây dựng qui trình nuôi Artemia ở
ruộng muối Ninh Hải, Cà Ná. Tác giả đã nuôi 7 dòng khác nhau trong bể kính 30L
với thức ăn là tảo, kiểm tra các chỉ tiêu sinh học, chọn dòng tốt nhất đem ra nuôi ở
ruộng muối. Kết quả nghiên cứu cho thấy dòng San Francisco Bay (Artemia
franciscana) có kích thước Cyst và Nauplius nhỏ, sức sinh sản cao, thích hợp với
điều kiện nuôi ở Miền Trung. Độ muối trên dưới 80‰, kích thích các dòng Artemia
đẻ con, độ muối từ 80 – 120‰ cho năng suất trứng cao nhất và độ muối là 1 trong
nhiều yếu tố chi phối việc đẻ con hay đẻ trứng của Artemia. Kết quả nghiên cứu đã
mở ra triển vọng cho việc nuôi sinh khối A. franciscana ở ruộng muối tại các tỉnh
Khánh Hòa và Ninh Thuận [3].
Tại Cam Ranh, Nguyễn Ngọc Lâm và Vũ Đỗ Quỳnh (1998) đã nghiên cứu cấu
trúc sinh sản của Artemia trong điều kiện tự nhiên đồng muối Cam Ranh. Kết quả
16
cho thấy rằng độ muối có ảnh hưởng rất lớn đến sức sinh sản của Artemia. Khi độ
muối giảm sản lượng trứng bào xác giảm dần, mật độ cá thể cái tham gia sinh sản
thấp, sức sinh sản kém [13].
Năm 1999, Lương Văn Thịnh và ctv đã sử dụng 13 loại tảo được phân lập từ
bờ biển Châu Úc làm thức ăn cho Artemia. Sau 7 ngày nuôi cho thấy thành phần
HUFA trong tảo thể hiện rõ thành phần HUFA của Artemia [7].
Trương Trọng Nghĩa, 2004 đã nghiên cứu làm giàu hóa Artemia mới nở ( dòng
SFB Vĩnh Châu) bằng tảo Chaetoceros sp. với mật độ 5.10
6
tb/mL trong 3 giờ ở
mật độ 300 nau/mL trước khi sử dụng để ương nuôi ấu trùng cua biển (Scylla
paramamosain) cho kết quả cao [7].
Qua nhiều năm thực hiện thí nghiệm cho thấy một số yếu tố môi trường đã
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của quần thể như nhiệt độ có ảnh hưởng rất nhiều
đến sinh trưởng và sinh sản của Artemia. Nhiệt độ quá thấp (< 20
o
C) Artemia sẽ
sinh trưởng chậm hoặc chết rải rác và ngược lại ở nhiệt độ quá cao (> 36
o
C) gây ra
hiện tượng chết, có khi chết hàng loạt, giảm khả năng sinh sản và quần thể phục hồi
rất chậm (Ngô Thị Thu Thảo, 1992; Nguyễn Thị Ngọc Anh et al., 1997; Nguyễn
Thị Ngọc Anh và Nguyễn Văn Hòa, 2004) [7].
Nguyễn Văn Hòa và ctv (2005) [7] nghiên cứu nâng cao hiệu quả của việc
nuôi sinh khối Artemia trên ruộng muối. Công trình nghiên cứu cho kết quả rằng:
Khi thu hoạch sinh khối Artemia với nhịp độ 3 ngày/lần (hay 90 kg/ha/lần)
sẽ giúp duy trì quần thể tối đa trong 12 tuần (thời gian thí nghiệm) và đạt năng suất
cao nhất (1391± 152 kg/ha) [10].
Sử dụng tảo Chaetoceros sp. phân lập tại Vĩnh Châu nuôi Artemia cho kết
quả tốt nhất so với các loài tảo khác (Nitzschia sp., Oscillatoria sp.) mặt khác khi so
sánh hoạt động sinh sản của Artemia nuôi bằng tảo Chaetoceros sp. và tảo tạp, kết
quả cho thấy Artemia tham gia sinh sản lâu hơn (>28 ngày) cũng như tổng số phôi
cao hơn (661 ± 406 phôi/con mẹ) so với Artemia nuôi bằng tảo tạp (284 ± 99
phôi/con mẹ). Ngoài ra, hàm lượng HUFA của sinh khối Artemia khi sử dụng tảo
Chaetoceros sp. là khá cao: 26,63 mg/trọng lượng khô đặc biệt là hàm lượng EPA
17
chiếm 22,2 mg/g trọng lượng khô trong tổng hàm lượng axit béo so với sinh khối
Artemia nuôi bằng tảo tạp [7].
Nhân giống Chaetoceros sp. có thể thực hiện được ở hệ thống ngoài trời và
ở thể tích 15 m
3
trong hệ thống ao nổi được lót nilon; sau 7 ngày mật độ tảo có thể
đạt 2,2 – 2,5 triệu tb/mL. Tuy nhiên, khó khăn gặp phải là điều kiện nhiệt độ biến
động lớn và hiện tượng nhiễm tạp (Ciliate, Navicula, Tetraselmis). Ngoài ra, khi
nâng thể tích nuôi tảo lên thì vấn đề sục khí cũng cần được quan tâm vì liên quan tới
sự xáo trộn các chất dinh dưỡng cũng như hạn chế hiện tượng lắng kết trong quá
trình nuôi [7].
Huỳnh Thanh Tới và ctv, 2006 đã nghiên cứu ảnh hưởng của tảo Chaetoceros
sp. lên chất lượng sinh khối Artemia. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự vượt trội
về tỷ lệ sống và các chỉ tiêu sinh sản của nghiệm thức nuôi bằng tảo thuần
Chaetoceros sp. so với nghiệm thức được nuôi bằng nguồn tảo tạp thu ngoài ao bón
phân tự nhiên. Hàm lượng các axit béo, đặc biệt là hàm lượng HUFA ở nghiệm thức
nuôi bằng tảo thuần Chaetoceros sp. cao hơn ở nghiệm thức nuôi bằng tảo tạp 3,7
lần [8].
Năm 2009, Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Văn Hòa, Gilbert Van Stappen và
Ptrick Sorgeloos đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn bổ sung
khác nhau lên thành phần và chất lượng Artemia trong ruộng muối, với các loại
thức ăn bổ sung là phân lợn, cám gạo, bột đậu nành. Kết quả thu được nghiệm thức
có bổ sung cám gạo và bột đậu nành có năng suất sinh khối cao nhất [1].
Những kết quả này đã chứng minh thành phần tảo làm thức ăn cho Artemia góp
phần quyết định đến chất lượng sinh khối của Artemia. Tuy nhiên, cho đến nay các
nghiên cứu về nuôi sinh khối Artemia franciscana trong ao đất trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa còn rất ít đồng thời các nghiên cứu để tìm ra một số loài vi tảo giàu
HUFA tại địa phương làm thức ăn trực tiếp cho Artemia chưa được quan tâm. Vì
vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung các cơ sở khoa học để hoàn chỉnh quy
trình nuôi sinh khối Artemia franciscana ở vùng ven biển Khánh Hòa.