Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Câu hỏi ôn tập Mác - Lê nin pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.1 KB, 22 trang )

CAU HOI ON TAP MAC-LENIN 2
Câu 1. Lượng giá trị của hàng hoá và các nhân t ố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa.
Giá trị của hàng hố là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng
hoá. Vậy lượng lao động của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để
sản xuất ra hàng hố đó và tính bằng thời gian lao động. Trong thực tế, có nhiều
người cùng sản xuất một hàng hố nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác
nhau... làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hố đó là khác nhau,
tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Nhưng lượng giá trị của hàng hố
khơng do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà
do thời gian lao động XH cần thiết. Thời gian lao động XH cần thiết là thời gian
lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hố nào đó trong điều kiện bình thường
của XH với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung
bình và một cường độ lao động trung bình trong XH đó. Vậy, thực chất, thời gian
lao động XH cần thiết là mức hao phí lao động XH trung bình (thời gian lao động
XH trung bình) để sản xuất ra hàng hoá. Thời gian lao động XH cần thiết có thể
thay đổi. Do đó, lượng giá trị của hàng hố cũng thay đổi theo.
Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hố:
Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của
người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời
gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng
suất lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm và ngược lại.
Vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất
lao động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung
bình của người cơng nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản
lý, quy mô sản xuất... nên để tăng năng suất lao động phải hồn thiện các yếu tố
trên.
Thứ hai, đó là cường độ lao động. Cường độ lao động phản ánh mức độ hao phí lao
động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay
căng thăng của lao động. Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối


lượng) hàng hố sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương
ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hố là khơng đổi vì thực chất tăng cường
độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động phụ thuộc
vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là
thể chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động
khơng có ý nghĩa tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất lao
động.
Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động. Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai
loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà


bất kỳ một người lao động bình thường nào khơng cần phải trải qua đào tạo cũng
có thể thực hiện được. Còn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào
tạo, huấn luyện thành lao động chuyên mơn lành nghề nhất định mới có thể thực
hiện được. Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều
giá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản
đơn được nhân lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy
đổi thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.
Câu 2. Lý luận hàng hoá sức lao động và rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn
đề này.
SLĐ là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất.
SLĐ chỉ trở thành hàng hóa khi có 2 điều kiện sau:
- Người LĐ phải là người được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi
phối SLĐ ấy đến mức có thể bán SLĐ đó trong một thời gian nhất định.
- Người LĐ khơng cịn có TLSX cần thiết để tự mình thực hiện LĐ và cũng khơng
cịn của cải gì khác muốn sống và tồn tai người LĐ chỉ còn cách bán SLĐ cho
người khác sử dụng.
Thuộc tính hàng hóa:
Cũng như mọi loại hàng hố khác, hàng hố sức lao động cũng có hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao

động XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Do việc sản xuất và
tái sản xuất sức lao động được diễn ra thông qua quá trình tiêu dùng, sinh hoạt, giá
trị sức lao động được quy ra thành giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, để duy trì đời sống cơng nhân và gia
đình họ cũng như chi phí đào tạo cơng nhân có một trình độ nhất định. Tuy nhiên,
giá trị hàng hoá sức lao động khác hàng hoá thơng thường ở chổ nó bao hàm cả yếu
tố tinh thần và lịch sử của từng nước, từng thời kỳ...
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng nhằm thoả mãn nhu cầu của người
mua để sử dụng trong q trình sản xuất ra hàng hố và dịch vụ. Tuy nhiên, khác
với hàng hố thơng thường, trong q trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng
giá trị mới lớn hơn lượng giá trị của bản thân nó, phần dơi ra đó chính là giá trị
thặng dư. Đây là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động.
Ý nghĩa:
cần phải có những giải pháp hồn thiện cơ chế chính sách đi đơi với nâng cao chất
lượng nguồn lao động tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người lao động được tự do
bán sức lao động, tự do di chuyển sức lao động giữa các vùng, các miền khác nhau
… nhằm phát huy hết tiềm năng nguồn lực lao động của nước ta với mục đích xây
dựng một thị trường lao động sơi động, ổn định và có hiệu quả tác động tích cực
đến sự phát triển kinh tế.
Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy
quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động, nâng cao hơn nữa vai trò của


các tổ chức đại diện cho người lao động và tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao
động, tiếp tục hồn thiện các chính sách thị trường lao động, chính sách tiền
lương.
Câu 3. Vì sao nói: sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản?
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối
quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó.

Trong chủ nghĩa tư bản, mục đích của sản xuất không phải là giá trị sử dụng mà là
sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là
mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn
bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hố với chất lượng tốt đi
chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa khơng chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó:
tăng cường bóc lột cơng nhân làm th bằng cách tăng cường độ lao động và kéo
dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là
sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột cơng nhân làm th.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ
nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ
nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời
nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư
bản bằng một xã hội cao hơn.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu,
quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản vẫn khơng thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can
thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị
của giai cấp tư sản.
Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản
phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức
lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Trong điều kiện hiện nay,
sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá

trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất


lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cho chi phí lao động sống
trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi
lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao
động trí tuệ ngày càng tăng lên và ngày càng có vai trị quyết định trong việc sản
xuất ra giá trị thặng dư.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trên phạm vi quốc tế
ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hố, trao
đổi không ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp
nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng
và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh, cũng như cội rễ đời sống
văn hoá của các nước lạc hậu, chậm phát triển.
Câu 4. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa Xét
một cách tổng quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã hội của giai
cấp công nhân quy định một cách khách quan vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân. Bởi vì:
-Thứ nhất, giai cấp cơng nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhấttrong các
bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất
hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất
của nền sản xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với đại
cơng nghiệp, cịn giai cấp cơng nhân lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp. Giai cấp cơng nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều
này có được là do yêu cầu khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại
mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

-Thứ hai, do khơng có tư liệu sản xuất nên giai cấp cơng nhân phải bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ
thuộc hồn tồn trong q trình phân phối các kết quả lao động của chính mình. Do
vậy, về mặt lợi ích giai cấp cơng nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư
sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức,
bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, giai
cấp cơng nhân chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng tồn xã hội khỏi chế
độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ khơng mất gì ngồi xiềng xích
mà lại được cả thế giới.
-Thứ ba, giai cấp cơng nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của tồn thể
nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đồn kết, lãnh đạo đơng đảo quần chúng
đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu trong cuộc đấu tranh của


toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp cơng nhân Địa vị kinh tế - xã hội khách
quan còn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp cơng nhân. Chính
những đặc điểm này đã tạo ra khả năng để giai cấp cơng nhân hồn thành thắng lợi
sứ mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp cơng
nhân gồm:
-Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế độ xã hội
tiên tiến nhất, do đó, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân luôn phát triển và lớn mạnh
khơng chỉ về số lượng mà cịn về chất lượng cùng với sự phát triển của khoa học và
cơng nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp
giúp cho giai cấp công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc
đấu tranh chống áp bức bóc lột vì dân sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã
tơi luyện cho giai cấp cơng nhân có những phẩm chất cần thiết cho cuộc đấu tranh.

Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của nhân dân
lao động nên họ có đủ khả năng và điều kiện tập hợp quần chúng nhân dân làm
cách mạng.
-Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để.
-Thứ ba, giai cấp cơng nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc của
giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện
đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp
công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc
đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
-Thứ tư, giai cấp cơng nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất cả các
nước đều có chung một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội
khỏi áp bức bóc lột và họ đều có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và
cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai
cấp tư sản khi mà chúng đã liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế
quốc, vì vậy mà giai cấp cơng nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp
mình.
Câu 4. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hố với tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa.
Hàng hóa là SP của lao động có thể thỏa mãn 1 nhu cầu nào đó của con người & đi
vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi(giá trị)
Giá trị sử dụng: đây là thuộc tính được bộc lộ ra bên ngồi của hàng hóa.


GTSD là cơng dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số cơng dụng nhất định khi nó có một
hay nhiều thuộc tính tự nhiên.
Cơ sở để xác định giá trị sử dụng của hàng hóa: Do thuộc tính tự nhiên của hàng
hóa – chất của các hàng hóa khác nhua sẽ quy định những giá trị sử dụng khác
nhau; Do tập tục và quy ước. Do đó cơ sở của GTSD hàng hóa là là do những thuộc

tính tự nhiên của thực thể hàng hóa ấy quy định, vì vậy GTSD là một phạm trù
mang tính chất vĩnh viễn. Con người ở bất kỳ thời đại nào cũng cần đến các GTSD
khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu phong phú của mình.
Khoa học kỹ thuật càng phát triển, con người càng phát hiện thêm những thuộc tính
mới của hàng hóa và dựa vào chúng để tạo ra những GTSD mới
Trong nền kinh tế hàng hóa, GTSD là vật mang giá trị trao đổi. Một vật nếu chỉ có
GTSD thì chưa đủ để trở thành hàng hóa, GTSD đó phải được làm ra để trao đổi,
nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.
b) Giá trị: (là thuộc tính ẩn bên trong hàng hóa, khơng trao đổi, mua bán thì khơng
biết giá trị của nó). Trao đổi là hình thức bộc lộ giá trị. Để hiểu về giá trị hàng hóa
ta phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn
nhau giữa các GTSD khác nhau.
VD: Mang 1m vải đổi lấy 10kg thóc, hai hàng hóa này có GTSD khác nhau nhưng
được trao đổi với nhau. Như vậy chúng phải có điểm chung. Nếu gạt bỏ GTSD của
hàng hóa thì mọi hàng hóa đều có điểm chung là sản phẩm của lao động, vậy thực
chất của trao đổi hàng hóa là trao đổi lao động cho nhau. Để SX vải, thóc, những
người lao động đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu bên
trong hàng hóa làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi.
Sự trao đổi theo một tỷ lệ khác nhau là do số lượng lao động tạo ra SP (Thời gian
tạo ra 2 SP) khác nhau. SP nào có hao phí lao động để SX ra chúng càng nhiều thì
giá trị càng cao.
Giá trị hàng hóa là lao động của người SX hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị
hàng hóa có những đặc trưng sau: Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ
tồn tại ở những phương thức SX có SX và trao đổi hàng hóa; Giá trị hàng hóa phản
ánh quan hệ SXHH, tức là mối quan hệ kinh tế giữa những người SXHH, trong nền
kinh tế SXHH dựa trên chế độ tư hữu về TLSX, quan hệ kinh tế giữa người với
người.
Khi tiền tệ ra đời thì giá trị biểu hiện ra bằng tiền gọi là giá cả. Giá trị trao đổi chỉ
là hình thức biểu hiện của giá trị; Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.

Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập.
Thống nhất vì 2 thuộc tính cùng tồn tại trong 1 hàng hóa: là hàng hóa thì phải có
hai thuộc tính nói trên. Nếu thiếu 1 trong hai thì khơng phải là hàng hóa. Một vật có
giá trị sử dụng nhưng không do lao động của con người làm ra thì khơng được coi


là hàng hóa(khơng khí, năng lượng mặt trời…); Mộ vật do con người làm ra nhưng
vô dụng hay không được trao đổi mua bán thì cũng khơng phải là hàng hóa.
Sự đối lập hay mâu thuẫn giữa hai thuộc tính được bộc lộ ra bên ngồi thơng qua
người SX và người tiêu dùng. Người SX tạo ra GTSD nhưng mục đích của họ là
giá trị, họ quan tâm đến GTSD nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giá trị mà
thôi. Ngược lại người mua lại quan tâm đến GTSD để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng.
Để có được GTSD họ phải trả giá trị cho người SX
GTSD và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực hiện chúng
tách rời cả về khơng gian lẫn thời gian: giá trị được thực hiện trước trong quá trình
SX lưu thơng, GTSD được thực hiện sau trong q trình tiêu dùng.
Mâu thuẫn được bộc lộ ra bên ngồi thành mâu thuẫn giữa chất lượng và giá cả,
giữa người mua với người bán. Thông qua phát triển khoa học, kỹ thuật người ta
trung hòa hai mặt đối lập giữa hai thuộc tính của hàng hóa bằng hệ thống các tiêu
chuẩn.
Tính hai mặt của lao động SXHH: sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là GTSD và
giá trị là vì lao động của người SXHH có tính hai mặt: LĐ cụ thể và LĐ trừu tượng.
Chính tính hai mặt đó của LĐSXHH quyết định tính hai mặt của bản thân hàng
hóa.
LĐ cụ thể: là lao động có ích dưới những hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chun mơn nhất định. Mỗi LĐ cụ thể có đối tượng riêng, mục đích riêng, phương
pháp riêng, kết quả riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại LĐ cụ thể
khác nhau.
Đặc trưng của LĐ cụ thể: Mỗi LĐ cụ thể tạo ra một loại GTSD nhất định, LĐCT

càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại GTSD khác nhau. Các LĐCT hợp thành hệ
thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển KH – KT, các hình thức
LĐCT ngày càng đa dạng, phong phú, mang tính chun mơn hóa cao. LĐCT là
một phạm trù vĩnh viễn, một hình thái khơng thể thiếu ở bất kỳ hình thái kinh tế xã
hội nào, là nguồn gốc tạo ra của cải vật chất.
LĐ trừu tượng: là hao phí sức lực nói chung của con người tạo ra hàng hóa khơng
kể hình thức cụ thể của nó.
Đặc trưng: LĐ trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi,
là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa. Là LĐ đồng nhất và
giống nhau về chất.
Câu 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị đối với quá trình phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá; quy định việc sản
xuất và trao đổi hàng hố phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho


mức hao phí lao động cá biệt của mình phự hợp với mức hao phí lao động xã hội
cần thiết để cú thể tồn tại; cũng trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo
nguyên tắc ngang giá- tức là giá cả phải bằng giá trị. Quy luật giá trị buộc những
người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo “mệnh lệnh” của giá cả thị
trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của
quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá và
biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng
hoá.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với nước ta hiện nay
Mặt tích cực: QLGT buộc các chủ thể phải nhạy bén, năng động,biết được lợi thế
của cá nhân và phát huy có hiệu quả, nắm bắt được nhu cầu của xã hội, chủ động
nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh tế; Cơ cấu của nền kinh tế tự điều chỉnh
phù hợp với cơ cấu tiêu dùng của xã hội dưới tác động của QLGT; QLGT buộc các

chủ thể phải cạnh tranh với nhau làm cho việc sử dụng các nguồn lực của xã hội
hiệu quả hơn,kích thích tiến bộ kỹ thuật và cơng nghệ, thúc đẩy lực lượng SX phát
triển, bình tuyển người SX, chọn ra những cá nhân ưu tú trong SX kinh doanh,
đồng thời buộc những người kém cỏi phải cố gắng nỗ lực, năng động hơn, tích cực
hơn trong SX kinh doanh. Qua đây ta nhận thấy một điều: cần tôn trọng và biết
phát huy vai trò điều tiết của QLGT trong việc phân bổ các nguồn lực cho các
ngành, các lĩnh vực một cách hợp lý , linh hoạt và hiệu quả; Xây dựng các vùng
kinh tế chun mơn hóa, lựa chọn đổi mới công nghệ, định hướng đào tạo nhân lực,
phát triển lực lượng SX, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền
kinh tế thị trường.
Mặt tiêu cực: QLGT gây ra một số ảnh hưởng mà tự thân nó khơng thể giải
quyết được. Tình trạng khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi
trường, mất cân bằng sinh thái. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, các căn bệnh kinh tế
có cơ hội phát triển; Gây bất bình đẳng xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến tiến bộ xã
hội. Do đó cần coi trọng vai trò của nhà nước đối với việc ngăn ngừa, khắc phục
những tác động tiêu cực, đồng thời tạo điều kiện cho QLGT hoạt động có hiệu quả.

Câu 4. Tai sao nói: Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá
trị thặng dự tương đối?


Giá trị thặng dư được tiếp nhận từ lý luận kinh tế của Mác có thể gói gọn trong
định nghĩa rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm thuê sản
sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ.
Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản xuất căn
bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản
của
chủ
nghĩa


bản.
Trong hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào việc mua sắm sức lao động và tư
liệu sản xuất. Cịn mục đích của nhà tư bản khi chi tiền ra mua sắm các thứ đó
chẳng có gì khác hơn là nhằm thu được một số tiền dôi ra ngồi số tiền mà mình đã
ứng chi trong q trình sản xuất. Số tiền dơi ra đó chính là giá trị thặng dư.
Các tư liệu sản xuất như nhà xưởng, cơng trình kiến trúc, thiết bị, ngun liệu,
nhiên liệu, vật liệu,... là tư bản bất biến. Nó khơng thay đổi lượng giá trị trong quá
trình sản xuất mà chỉ chuyển hóa giá trị của nó sang các sản phẩm mới được sản
xuất ra. Nó khơng thể là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Cịn sức lao động thì trong
q trình tiêu dùng, tức là trong quá trình sử dụng nó vào lao động sản xuất, nó có
khả năng tạo ra giá trị mới mà giá trị mới này lại lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Sức
lao
động


bản
khả
biến.
Nhà tư bản sử dụng tính chất khả biến đó vào mục đích tạo ra cho mình giá trị
thặng dư. Chiếm đoạt tồn bộ giá trị thặng dư này là hành vi được gọi đích danh là
“bóc lột”. Đó là nói chung, cịn cụ thể, trong q trình sản xuất, hành vi “bóc lột”
giá trị thặng dư còn được nhà tư bản thực hiện bằng sự gia tăng giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, tức là kéo dài tuyệt đối thời gian
của ngày lao động, rút ngắn thời gian lao động cần thiết để sản xuất từng sản phẩm
và tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Việc tăng giá trị thặng dư còn được
một số nhà tư bản thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị của hàng hóa do xí nghiệp
mình sản xuất so với giá trị xã hội của hàng hóa đó. Số giá trị tạo ra bằng cách này
được
gọi


giá
trị
thặng

siêu
ngạch.
giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là một biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Chỗ khác nhau giữa chúng chỉ là một bên thu được do tăng năng suất lao động xã
hội, còn bên kia - bên giá trị thặng dư siêu ngạch - thì được tạo ra nhờ biết áp dụng
kỹ thuật mới, biết áp dụng công nghệ tiến bộ và các phương pháp quản lý hoàn
thiện hơn trong tổ chức sản xuất. Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị
thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị
nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà ln ln có cuộc đấu tranh của cơng nhân làm
thuê chống lại sự chiếm đoạt đó: Đấu tranh chống kéo dài thời gian làm việc trong
ngày để chống bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà tư bản
rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư để chống
bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch. Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư
siêu ngạch về thực chất là sự phản ứng lại đối với những cải tiến trong áp dụng kỹ
thuật mới, phản ứng lại sáng kiến trong ứng dụng công nghệ tiến bộ và việc áp
dụng những phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn... Thật ra, sự đấu tranh


của giai cấp thợ thuyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa để chống lại sự bóc lột giá trị
thặng dư nói chung, là nhằm vào một chủ điểm: Chống việc nhà tư bản chiếm đoạt
hoàn toàn giá trị thặng dư cụ thể là cả ba thứ giá trị thặng dư vừa nêu trên.
Câu 5. Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dự?
Để hiểu bản chất và nguồn gốc của giá trị thặng dư, ta hãy xét một ví dụ.
Giả sử để chế tạo ra 1 kg sợi, nhà tư bản phải bỏ ra 28.000 đơn vị tiền tệ bao gồm
20.000 đơn vị tiền tệ mua 1 kg bơng, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000

đơn vị mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 1 ngày (10 giờ).
Giả định việc mua này là đúng giá trị. Đồng thời giả định, mỗi giờ lao động, người
công nhân tạo ra 1.000 đơn vị giá trị mới kết tinh vào trong sản phẩm.
Vậy bằng lao động cụ thể, người công nhân đã chuyển giá trị của bơng và hao mịn
máy móc vào trong sợi và bằng lao động trừu tượng của mình, mỗi giờ công nhân
lại tạo thêm một lượng giá trị mới là 1.000 đơn vị.
Nếu chỉ trong vịng 5 giờ, cơng nhân đã kéo xong 1kg sợi thì giá trị 1kg sợi là:
- Giá trị của 1 kg bông = 20.000 đơn vị
- Hao mịn máy móc = 3.000 đơn vị
- Giá trị mới tạo ra (trong 5 giờ lao động, phần này
vừa đủ bù đắp giá trị sức lao động) = 5.000 đơn vị
Vậy tổng cộng giá trị của 1 kg sợi là 28.000 đơn vị.
Tuy nhiên, do nhà tư bản đã thuê người công nhân trong 10 giờ nên trong 5 giờ lao
động tiếp theo, nhà tư bản không phải bỏ ra 5.000 đơn vị mua sức lao động nữa mà
chỉ cần bỏ ra 20.000 đơn vị tiền tệ để mua thêm 1kg bơng, 3.000 đơn vị cho hao
mịn máy móc, tức là với 23.000 đơn vị tiền tệ, nhà tư bản có thêm được 1kg sợi.
Như vậy. trong một ngày lao động, nhà tư bản bỏ ra 51.000 đơn vị tiền tệ để thu
được 2 kg sợi. Trong khi đó, giá trị của 2 kg sợi là: 28.000 . 2 = 56.000 đơn vị tiền
tệ. Do đó, nhà tư bản thu được 1 phần giá trị dôi ra, tức là giá trị thặng dư, bằng
5.000 đơn vị tiền tệ.
Từ ví dụ trên, ta thấy giá trị thặng dư chính là phần giá trị mới do lao động của
cơng nhân tạo ra ngoài sức lao động, là kết quả lao động không công của công nhân
cho nhà tư bản. Chú ý rằng, phần lao đơng khơng cơng đó trở thành giá trị thặng dư
vì nó thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không phải là của người lao đông. Sở dĩ nhà
tư bản chi phối được số lao động khơng cơng ấy là vì nhà tư bản là người sở hữu tư
liệu sản xuất.
Bản chất:
Với lịng tham khơng đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao
trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người nên
khơng thể kéo dài vơ hạn. Mặt khác, cịn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp

cơng nhân địi rút ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời
gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là


tăng cường lao động vì tăng cường lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao
động trong ngày trong khi thời gian lao động càn thiết không thay đổi.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch
vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy, phải tăng năng suất lao động xã hội
trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
sản xuất ra các tuw liệu sản xuất tiêu dùng.
Giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối có điểm giống nhau đều làm tăng thời gian lao động thặng dư của
người công nhân không chỉ đủ ni sơng mình, mà cịn tạo ra phần thặng dư. Song,
hai phương pháp này có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động
thặng dư.
1.1. Quy luật giá trị
1.1.1. Quy luật giá trị là gì?
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi
hàng hố. Do đó ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hố thì ở đó có sự xuất hiện và
hoạt động của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thẻ kinh tế trong sản xuất
và lưu thơng hàng hố đều chịu sự tác động và chi phối của quy luậ này. Tuân theo
yêu cầu của quy luậ giá trị thì mới có lợi nhuận, mới tồn tại và phát triển được,
ngược lại sẽ bị thua lỗ và phá sản.
1.1.2. Yêu cầu của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở
lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất hàng hố thì vấn đề quan trọng nhất là hàng hố sản xuất ra có
bán được hay khơng. Để có thể tiêu thụ được hàng hố thì thời gian lao động cá
biệt để sản xuất ra hàng hố đó phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết
tức là phải phù hợp với mức lao hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. Trong

trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào thời gian lao động xã hội được với nhau khi
lượng giá trị của chúng ngang nhau, tức là khi trao đổi hàng hố phải ln theo quy
tắc ngang nhau.
2


Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động
của giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc
vào giá trị vì giá trị là cơ sở của giá cả. Trong nền kinh tế hàng hố thì giá cả và giá
thị trường chênh lệch nhau, cung ít hơn cầu thì giá cả sẽ cao hơn giá trị và ngược
lại nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị. Nhưng xét cho đến cùng thì
tổng giá cả hàng hố bao giờ cũng bằng tổng giá trị của hàng hoá. Giá cả hàng hố
có thể tách rời giá trị nhưng bao giờ cũng lên xuống xoay quanh giá trị, đó là biểu
hiện hoạt động của quy luật giá trị.
Tóm lại, yêu cầu chung của quy luật giá trị mang tính khách quan, nó đảm bảo
sự cơng bằng, hợp lý, bình đẳng giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá.
1.1.3. Tác dụng của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị tồn tại, hoạt động ở tất cả các phương thức sản xuất. Có sản
xuất hàng hố và có những đặc điểm hoạt động riêng tuỳ thuộc vào quan hệ sản
xuất thống trị. Nó có tác dụng chủ yếu sau.
Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức
lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng mhố.
Như đã nói trên, do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu giá cả hàng hoá trên thị
trường lên xuống xuay quanh giá trị của nó. Nếu một ngành nào đó, cung khơng
đáp ứng cầu, giá cả hàng hố lên cao thì những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô
sản xuất. Những người đang sản xuất hàng hố sẽ thu hẹp quy mơ sản xuất để
chuyển sang sản xuất loại hàng hoá này. Như vậy, tư liệu sản xuất, sức lao động và
vốn được chuyển vào ngành này tăng lên, cung về loại hàng hoá này trên thị trường
sẽ tăng cao. Ngược lại khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt

cầu, giá cả hàng hố hạ xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản
xuất và sức lao động ra khỏi
3


ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao. Nhờ vậy mà tư liệu sản
xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành này để
d dầu tư vào nơi có giá cả hàng hố cao. Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao
động được phân phối qua lại một cách tư phát vào các ngành sản xuất khác nhau. Ở
đây ta thấy rằng sự biến động của giá cả xung quanh giá trị không những chỉ rõ sự
biến động về kinh tế mà cịn có tác động điều tiết nền kinh tế.
Ngồi ra ta cịn thấy quy luật giá trị cũng điều tiết và lưu thông hàng hoá.
Hàng hoá bao giờ cũng vận động từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao. Quy luậ giá
trị có tác dụng điều tiết sự vận động đó, phân phối các nguồn hàng hoá một cách
hợp lý hơn trong nước.
Thứ hai là kích thích lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy cải tién kỹ thuật,
tăng năng suất lao động.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất hàng hố nào cũng mong có nhiều
lãi. Người có nhiều lãi hơn là người có thời gian lao động cá biệt ít hơn hoặc bằng
thời gian lao động xã hội cần thiết. Cịn những người có thời gian lao động cá biệt
lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị lỗ khơng thu về được tồn bộ
lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản
xuất đều ln ln tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu thời gian lao động cá biệt.
Muốn vậy, những người sản xuất phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, nâng cao
trình độ tay nghề, sử dụng những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật, cải tiến tổ
chức quản lý của sản xuất, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ. Sự cạnh tranh quyết liệt
càng thúc đẩy các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, kết quả l à năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng. Ngồi ra để có thể thu được nhiều lãi, người sản xuất
hàng hố cịn phải thường xun cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hoá cho phù hợp
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu thông, bán hàng

Cơ chế thị trường là một cơ chế tinh vi được điều tiết bởi các quy luật của thị
trường. Đó là cơ chế "phạt và thưởng", "thua và được", "lỗ và lãi" của hoạt động
kinh tế. Trong cơ chế thị trường mọi vấn đề cơ bản của nền sản xuất đều được giải
quyết thông qua thị trường và chịu sự chi phơí của các quy luật của thị trường. Do
đó có thể nói cơ chế thị trường là guồng máy hoạt động và tự điều chỉnh của nền
kinh tế hàng hoá theo yêu cầu của cac quy luật kinh tế vốn có của nó. Các quy luật
này quan hệ, tác động lẫn nhau tạo ra


những nguyên tắc vận động của nền kinh tế hàng hố. Nói tới cơ chế thị
trường, trước hết ta phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành nó, đó là tiền và hàng,
người mua và người bán hàng hố. Từ đó hình thành ra các quan hệ: hàng - tiền,
mua - bán, cung - cầu và giá cả hàng hố, hình thành mâu thuẫn cạnh tranh giữa các
thành viên tham gia thị trường mà động lực thúc đẩy họ là lợi nhuận. Vì vậy thơng
qua lỗ, lãi mà cơ chế thị trường quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất là
gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?
Như đã trình bày ở trên cơ chế thị trường khơng những chỉ có những ưu điểm
mà cịn có cả những khuyết tật khơng thể tránh khỏi. Đó là, gây nên sự phân hố
dẫn đến phá sản của người sản xuất kinh doanh, gây lãng phí kinh tế, các hiện
tưọng bn gian, bán lận, đầu cơ, làm hàng giả, phá hoại mơi sinh. Vì vậy trong cơ
chế thị trường Nhà nước cần quản lý, điều tiết theo định hướng mục tiêu đã định,
hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Dưới quyền chỉ đạo của Nhà nước
thì nèn kinh tế thị trường sẽ phát triển vững chắc hơn và việc vận dụng các quy luật
vào việc phát triển kinh tế sẽ trở nên thấu đáo hơn, có hiệu quả hơn trong phát triển
kinh tế.
1 Sự cần thiết của quy luật giá trị trong việc phát triển kinh tế thị trường.
Trong một nền kinh tế, mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này
hay các khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá. Việc sản xuất phải được tiến hành
theo những phương pháp tốt nhất, phân phối hàng hóa sản xuất được sao cho đáp

ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội. Đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế chỉ huy thì những vấn đề cơ bản đều do các cơ quan Nhà nước
quyết định, còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị
trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường là xu thế tất yếu Phát triển kinh tế thị trường là xu
hướng tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế xã hội. Thực tế cho thấy, khơng có
quốc gia nào trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển lại khơng có sự điều
hành của Nhà nước. Mỗi quốc gia có một chính sách quản lý và phát triển kinh tế
đặc thù của quốc gia đó, nhưng xét cho đến cùng thì cũng khơng thốt khỏi quy
luật chung là áp dụng các quy luật kinh tế và vanạ hành chúng một cách có hiệu
quả vào sự phát triển kinh tế. Nó có vai trị điều tiét nền sản xuất hàng hố một
cách hợp lý rồi từ đó gây ảnh hưởng tới nền kinh tế của đất nước. Chính vì vậy quy
luật giá trị có vai trị rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị trường của mỗi
quốc gia. Đối với Việt Nam nó cũng có vai trị khơng nhỏ, nó gây ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế quốc
8


dân thơng qua sự điều tiết của nó đối với nền sản xuất hàng hố, thơng qua sự
điều tiết của nó đối với nền sản xuất hàng hố.
2.2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam.
Không một nền kinh tế nào có thể coi là hồn thiện, là phát triển tốt tuyệt đối
cho dù đó có là nền kinh tế của một quốc gia phát triển nhất thế giơí đi nữa. Lúc
nào nó cũng chứa những mặt trái, những mặt cịn chưa tốt, những hạn chế cần được
tiếp tục khắc phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận hành và quản lý
nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ đổ vỡ nền kinh tế do
vận dụng không đúng cách, không đúng yêu cầu thực tế. Đó vẫn là một trong
những vấn đề nan giải của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả nước Việt
Nam của chúng ta. Vậy hiện nay, chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào để
phát triển nền kinh tế yếu kém, lạc hậu đi lên một nền kinh tế mới phát triển hơn,

hồn chỉnh hơn. Trước khi xét điều đó ta sẽ đi phân tích nền kinh tế nước ta trong
những năm gần đây để thấy được thực trạng nền kinh tế của đất nước.
Nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn biến động cùng với nền kinh tế thế
giới. Để phát triển nền kinh tế thì vấn đề trước hết là ta phải biết bắt đầu từ đâu, đã
có những cái gì và chưa có được những gì, cái gì phải làm trước, cái gì nên làm sau
mới thực hiện. ở phần này chúng ta sẽ được rà soát một lượt những vấn đề tồn tại
trong nền kinh tế Việt Nam để có thể lưu tâm vạch ra kế hoạch cho sự khắc phục và
phát triển những yếu tố đó.
Thứ nhất, để phát triển nền kinh tế thì chúng ta cần phải có vốn, đó là vấn đề
đáng quan tâm hàng đầu của nước ta hiện nay. Vậy mà trên thực tế những năm gần
đây nước ta luôn trong tình trạng thiếu hụt nguồn vốn vì tổng thu ngân sách luôn
nhỏ hơn tổng chi ngân sách.
Thứ hai, là cơ sở vật chất của đất nước. Điều không thể không thừa nhận là
nước ta là cơ sở vật chất kém phát triển, chậm phát triển. Các khu công
9


nghiệp ít, hệ thống máy nước trang thiết bị lạc hậu. Cơ sở vật chất không đáp
ứng đủ cho việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Hệ thống giao thông không
thuộn lợi, kém phát triển, lại thêm sự ảnh hưởng của thiên nhiên và môi trường
càng làm cho hệ thống cơ sở vật chất của nước ta ngày càng bị sa sút nghiêm trọng.
Chính sách đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng còn chưa được quan tâm thích đáng.
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị lãng phí hoặc bị bỏ qn cịn nhiều. Những
điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, là con người. Trình độ văn hố của con người thấp kém, khả năng ứng
dụng máy nước, trang thiết bị hiện đại trong phát triển sản xuất không đạt yêu cầu
thực tế. Hơn nữa những người có tay nghề, kỹ thuật cao chiếm số ít trong lực lượng
lao động của đất nước. Thái độ lao động của nhiều người cịn khơng nghiêm túc.
Những người có trình độ, có tri thức vận dụng tài năng của mình để tham ô tài sản
nhà nước. Tất cả các yếu tố trên đã góp một phần khơng nhỏ vào việc kìm hãm sự

phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thứ tư, là vấn đề kỹ thuật và cơng nghệ. Trình độ khoa học kỹ thuật và cơng
nghệ cịn yếu. Khơng có thành tựu nào là đáng kể trong nghiên cứu khoa học mà
chỉ thừa hưởng những công nghệ đã lạc hậu ở nước tiên tiến trên thế giới chuyển
giao lạ. Điều đáng nói là ngay cả việc giám định các cơng nghệ chuyển giao cũng
khơng có. Nó đã gây lãng phí ngân sách Nhà nước rất nhiều vì chúng ta phải nhận
những máy móc, cơng nghệ đã qua sử dụng với giá cả ngàng bằng giá của máy
móc, cơng nghệ mới. Ngun nhân cơ bản là do Nhà nước khơng có chính sách đầu
tư thích đáng cho nghiên cứu, ứng dụng triển khai các thành tựu khoa học kỹ thuật
mới.
Thứ năm, là cơ cấu kinh tế. Tuy nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ
chế thị trường nhưng cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn chưa chặt chẽ, hợp lý, vẫn còn
nhiều kẽ hở lớn, cơ cấu ngành nghề còn nhiều điều bất cập. Các vùng
10


kinh tế chưa được chú ý phát triển đồng đều về các mặt. Do đó sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân vẫn vị kìm hãm.
Thứ sáu là mức tăng dân số quá nhanh. Tuy những năm gần đây tỷ lệ tăng dân
số có giảm hơn trước những vấn đề cịn cao. Nó đồng nghĩa với việc số lao động
ngày càng gia tăng trong khi việc làm thì ngày càng ít do sự phát triển của khoa học
cơng nghệ. Chính những người thất nghiệp này là nguy cơ dẫn đến sự gia tăng của
tệ nạn xã hội, anh minh khơng được bảo đảm.
Cuối cùng là thế chế chính trị và quản lý của Nhà nước. Đây cũng là nhân tố
quan trọng nhất có vai trị quyết định trong phát triển kinh tế của đất nước. Tuy
rằng nước ta có một thể chế chính trị ổn định và tiến bộ nhưng khả năng định
hướng cho sự phát triển kinh tế cịn nhiêù khuyết tật, mà lý do chính là sự điều tiết
hướng phát triển của nền kinh tế còn chưa phù hợp, gây ơ nhiễm mơi trường, làm
phân hố giầu nghèo, nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng…
2.3. Vai trò của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt

Nam.
Nhận thức và vận dụng quy luạt giá trị thể hiện chủ yếu trong việc hình thành
giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy gái trị làm cơ sở thì
mới có căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích tăng năng suất lao động, cải tiến
kỹ thuật, hạ tầng thành sản phẩm. Nhà nước phải chủ động lợi dụng cơ chế hoạt
hoạt động của quy luật giá trị nghĩa là khả năng giá cả tách rời giá trị, và xu hướng
đưa giá cả trở về giá trị. Thơng qua chính sách giá cả, Nhà nước vận dụng quy luật
giá trị nhằm;
Thứ nhất là kích thích sản xuất phát triển. Đối với xí nghiệp quốc doanh, chủ
yếu là xây dựng một hệ thống giá bán buôn để đưa chế độ hạch toán kinh tế đi vào
nền nếp và có căn cứ vững chắc.
11


Thứ hai là điều hồ lưu thơng hàng tiêu dùng. Trong chế độ kinh tế thị trường,
tổng khối lượng va cơ cấu hàng tiêu dùng do kế hoạch lưu chuyển hàng hố quyết
định căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức tăng thu nhập quốc
dân, và thu nhập bằng tiền của nhân dân, nhu cầu về hàng tiêu dùng trong điều kiện
sức mua khong đổi, nếu giá cả một loại hàng nào đó giảm xuống thì lượng hàng
tiêu thụ sẽ tăng lên và ngược lại. Nhà nước có thể quy định giá cả cao hay thấp để
ảnh hưởng đến khối lượng tiêu thụ một số loại hàng nào đó nhằm làm cho nhu cầu
và mức tăng của sản xuất về một số hàng tiêu dùng ăn khớp với kế hoạch lưu
chuyển hàng hoá của Nhà nước.
Thứ ba là phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân thơng qua chính sách
giá cả, việc quy định hợp lý các tỷ giá, Nhà nước phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ cho yêu cầu năng cao đồi sống của
nhân dân lao động.
Cuối cùng, nhận thức và vận dụng quy luật giá trị nói rộng ra là biết sử dụng
các địn bẩy của kinh tế hàng hố như tiền lương, giá cả, lợi nhuận … dựa trên cơ
sở hao phí lao động xã hội cần thiết để tổ chức và thực hiện chế đọ hạch tốn kinh

tế.
Tóm lại, những điều trình bày trên đây nói lên trong kinh tế thị trường có sự
cần thiết khách quan phải kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy cái sau bổ xung cho
cái trước. Q trình kết hợp đó cũng là một q trình phát huy tác dụng tích cực
của quy luật giá trị, là một quá trình tự giác vận dụng quy luật giá trị và quan hệ thị
trường như là một công cụ để xây dựng các mặt kinh tế, kích thích cải tiến kỹ thuật,
tăng năng suất lao động, làm cho giá trị hàng hoá ngày càng hạ, đảm bảo tốt hơn
cho nhu cầu đời sống, đồng thời tăng thêm khối lượng tích luỹ.
12


Đi đơi với việc phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị phải đồng thời
ngăn chặn những ảnh hưởng những tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế.
Quy luật giá trị tồn tại một cáhc khách quan trong nền kinh tế. Nhờ nắm vững
tác dụng chủ đạo của các quy luật kinh tế, tự giác sử dụng tác dụng tích cực và hạn
chế các tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị. Nhà nước đã năng cao dần trình độ
cơng tác, kế hoạch hoá kinh tế. Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: Về cơ bản chúng
ta đã nắm được nội dung, tích chất và tác dụng của quy luật giá trị đối với các
thành phần kinh tế khác nhau trong hai lĩnh vực sản xuất và phân phối khác nhau
về tự liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng và đã vận dụng nó phục vụ các nhiệm vụ
chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ; Công tác kế hoạch
hố giá cả cũng đã có tiến bộ, phạm vi ngày càng mở rộng, trình độ nghiệp vụ cũng
được nâng lên một bước.
13


KẾT LUẬN
Quy luật giá trị là quy l uật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Sự ra đời và hoạt động của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu
thơng hàng hố. ở đâu có sản xuất và lưu thơng hàng hố thì ở đó có sự hoạt động

của quy luật giá trị. Cơ chế điều tiét sản xuất và lưu thông hàng hố chính là sự
hoạt động của quy luật giá trị sự hoạt động của quy luật giá trị được biểu hiện
thong qua cơ chế giá cả. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường ta sẽ thấy
được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường ta sẽ lên xuống xung
quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế tác
động của quy luật giá trị phát sinh khi tác dụng lên thị trường thông qua cạnh tranh,
cung - cầu, sức mua của đồng tìen. Điều này cắt nghĩa tại sao khi trình bày quy luật
kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất, lưu thơng hàng hố và tác động của các
quy luật kinh tế đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, ta chỉ trình bày
quy luật giá trị, một quy luật bao quát chung được cả bản chất, các nhân tố cấu
thành và cơ chế tác động của nó đối với kinh tế thị trường ở Việt Nam.
14


để tiết kiệm chi phí lưu thơng và tiêu thụ sản phẩm nhanh. Vì vậy quy luật giá
trị có tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng hoá nhiều, nhanh, tốt, rẻ hơn.
Tác dụng cuối cùng của quy luật giá trị mà ta đề cập ở đây là đánh giá công
bằng hiệu quả sản xuất, phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ giàum người
nghèo.
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản
xuất có thể khơng nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm
giỏi có năng suất lao động cá biệt thấp hơn thời gian lao động xã hơị cần thiết và
nhờ đó họ phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mơ sản
xuất. Bên cạnh đó những người làm ăn kém, không may mắn, thời gian lao động cá
biệt lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết nên họ bị lỗ vốn thậm chí đi đến
phá sản. Như vậy, quy luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, đánh giá người sản xuất,
kích thích những yếu tố tích cực phát triển và đào thải các yếu tố kém. Nó đảm bảo
sự bình đẳng đối với người sản xuất.
1.2. Kinh tế thị trường.
Nền kinh tế Việt Nam ta đã và đang vận hành theo cơ chế thị trường vậy

chúng ta phải hiểu thế nào là cơ chế thị trường ta có một số vấn đề sau:
1.2.1. Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là sự phát triển cao hơn của kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà
hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế khách quan do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định, trong đó tồn bộ q trình từ sản xuất tới trao đổi, phân
phối và tiêu dùng đềy thực hiện thông qua thị trường.
Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là các chủ thể tự do lựa chọn các hình
thức sở hữu, phương thức kinh doanh, ngành nghề mà luật pháp không cấm. Mọi
hoạt động kinh tế đều diễn ra theo quy luật của nó, sản xuất và bán
5


hàng hoá theo yêu cầu của thị trường, bán cái gì mà thị trường cần chứ khơng
phải bán cái mình có, tiền tệ hố các quan hệ kinh tế, các chủ thể được theo đuổi lợi
ích chính đáng của mình.
1.2.2. Cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là cơ chế hoạt động của nền kinh tế hàng hoá, điều tiết q
trình sản xuất và lưu thơng hàng hố theo u cầu khách quan của các quy luật vốn
có của nó như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật lưu
thơng tiền tệ. Có thể nói cơ chế thị trường là tổng thẻ các nhân tố kinh tế, cung cầu,
giá cả, hàng tiền. Trong đó người sản xuất và người tiêu dùng tác động lẫn nhau
thông qua thị trường để xác định 3 vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất như
thế nào? sản xuất cho ai?
Cơ chế thị trường là một trật tự kinh tế, khơng hề hỗn độn. Nó hoạt động như
một bộ máy tự động khơng có ý thức, nó phối hợp rất nhịp nhàng hoạt động của
người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Khơng
một ai tạo a nó, nó tự phát sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
kinh tế hàng hoá. Lợi nhuận chính là động lực cơ bản của sự vận động nền kinh tế
hàng hố. Nó sẽ hướng những người sản xuất vào lĩnh vực mà người tiêu dùng có

nhu cầu nhiều và bắt họ phải bỏ những lĩnh vực có ít nhu cầu, cũng như buộc bộ sử
dụng những công nghẹ mới để có được hiệu quả cao nhất.
Cơ chế thị trường là mộ



×