Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Thực trạng xuất khẩu nông sản việt nam sang EU và rào cản kỹ thuật của EU với nông sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.4 KB, 114 trang )

Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong khoa Thương mại và
Kinh tế Quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tận tình giảng dạy
và cung cấp cho em những kiến thức chuyên môn cần thiết trong quá trình
học tập tại trường, tạo nền tảng lý luận vững chắc giúp em định hướng đề
tài và hoàn thành bài viết. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo Th.S.
Nguyễn Thị Thuý Hồng đã chỉ bảo, hướng dẫn em tận tình trong suốt quá
trình hoàn thiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới các chú, các cô, các anh các chị
làm việc trong Ban nghiên cứu Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế - Viện
Kinh tế và Chính trị Thế giới đã nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian thực
tập tại viện, cũng như cung cấp cho em các tài liệu cần thiết để em có thể
hoàn thành chuyên đề một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên

Ngô Thị Mai Trang
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
1
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thương mại tồn tại hai loại hàng rào chính, đó là hàng rào thuế
quan và hàng rào phi thuế quan. Hiện nay, việc giảm dần cả 2 loại hàng rào
này là mục tiêu để có được một nền thương mại thế giới ngày càng tự do
hơn, người tiêu dùng các nước được hưởng lợi nhiều hơn.
Hàng rào kỹ thuật là một trong những hàng rào phi thuế quan. Hàng
rào này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song nó đều liên
quan đến vấn đề tiêu chuẩn chất lượng của hàng hóa, công nghệ, quá trình


sản xuất cũng như việc bao gói, ghi nhãn, vận chuyển, bảo quản, các quá
trình khác như thử nghiệm, kiểm tra, giám định, quản lí chất lượng… đối
với hàng hóa.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, tiến trình tự do hóa thương mại
đang được tăng tốc bởi các hàng rào phi thuế quan như quota sẽ được bãi
bỏ và các hàng rào thuế quan cũng sẽ được cắt giảm. Tuy nhiên điều này
không có nghĩa là các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể dễ dàng tiếp cận thị
trường EU, đặc biệt là đối với mặt hàng nông sản.
Việc tiếp cận thị trường EU trở nên khó khăn hơn nhiều do việc gia
tăng những quy định và các yêu cầu thị trường trong các khía cạnh về an
toàn, sức khỏe, chất lượng, các vấn đề môi trường và xã hội. Trước đây,
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhìn chung nhằm bảo vệ các nhà
sản xuất của Châu Âu. Nhưng ngày nay, việc bảo vệ môi trường và bảo vệ
cho người tiêu dung đang dần thay thế cho việc bảo vệ nhà sản xuất và
người lao động.
Do đó, nghiên cứu các rào cản kỹ thuật của EU nói chung và các rào
cản kỹ thuật đối với nhập khẩu nông sản Việt Nam vào EU nói riêng là việc
làm cần thiết, nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam định hướng các giải
pháp vượt các rào cản đó để chiếm lĩnh thị trường EU – một trong những
thị trường tiềm năng nhất thế giới.
Bài viết này nhằm mục đích phân tích các đặc trưng của thị trường
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
2
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
EU về lĩnh vực nông sản; các rào cản kỹ thuật mà EU đã áp dụng cho mặt
hàng nông sản nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là các rào cản kỹ thuật đối
với nông sản Việt Nam; đánh giá thực trạng xuất khẩu nông sản của các
doanh nghiệp nông sản Việt Nam, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả vượt rào trong thời gian tới.

Bài viết của em được chia làm 4 phần chính:
•Phần 1: Tổng quan chung về rào cản kỹ thuật của EU với nông sản
nhập khẩu và sự cần thiết phải có biện pháp vượt rào đối với doanh nghiệp
nông sản Việt Nam.
•Phần 2: Tổng quan chung về thị trường EU và quan hệ thương mại
Việt Nam- EU.
•Phần 3: Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU và rào
cản kỹ thuật của EU với nông sản Việt Nam.
•Phần 4: Một số biện pháp vượt rào để thúc đầy xuất khẩu nông sản
Việt Nam sang thị trường EU.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
3
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ RÀO CẢN KỸ
THUẬT CỦA EU VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
1.1/ Các rào cản kỹ thuật của EU
EU là thành viên của WTO, có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa
trên các nguyên tắc của Tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch
không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều biện pháp phi quan thuế. Mặc dù
thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và có xu
hướng giảm, nhưng EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng
rào phi quan thuế (rào cản kỹ thuật) rất nghiêm ngặt. Do vậy, hàng xuất
khẩu của các nước khác muốn vào được thị trường này thì phải vượt qua
được rào cản kỹ thuật của EU.
Hiện tại EU đang tạo ra các tiêu chuẩn thống nhất và điều hoà cho
toàn EU đối với các lĩnh vực sản phẩm chính nhằm thay thế hàng ngàn các
tiêu chuẩn quốc gia khác nhau. Nhìn chung, các mức độ yêu cầu đang được
đặt ra hoặc sẽ được đặt ra trong những năm tới đây. Các quốc gia thành
viên được phép đưa ra thêm các yêu cầu cho ngành công nghiệp của mình.

Tuy nhiên, nếu sản phẩm nào đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu sẽ
được cho phép lưu hành tự do tại EU.
1.1.1/ Nhãn CE ( European Conformity)
Mục đích của nhãn CE là đặt ra yêu cầu chung với sản xuất nhằm đảm
bảo đưa ra những sản phẩm an toàn tại thị trường EU. Nhãn CE được coi
như một giấy thông hành của nhà sản xuất trong lưu thông nhiều sản phẩm
công nghiệp như máy móc thiết bị, các thiết bị điện có hiệu điện thế thấp,
đồ chơi, các thiết bị y tế… trên thị trường EU.
Tuy nhiên nhãn CE không áp dụng cho tất cả các hàng hóa công
nghiệp, nó không áp dụng cho các sản phẩm trang trí nội thất, quần áo và
các sản phẩm da. Nhãn CE chỉ ra rằng sản phẩm tuân thủ các yêu cầu về
luật định và có thể được đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn, sức khỏe,
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
4
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
môi trường và bảo vệ người tiêu dung; nhưng nhãn CE không bảo đảm về
chất lượng sản phẩm
1.1.2/ HACCP (the Hazard Analysis Critcal Control Point system)
Tiêu chuẩn HACCP được áp dụng cho ngành công nghiệp thực phẩm
và chế biến, với các nguyên tắc cơ bản sau
- Xác định tất cả các nguy cơ có thể xảy ra cho sản phẩm trong chu kỳ
sống cùa sản phẩm
- Xác định các Điểm kiểm soát tới hạn (Critica Control Points), các
giai đoạn có thể kiểm soát được trong chu kỳ sống của sản phẩm.
- Xác định những biên độ theo tiêu chuẩn cao nhất có thể cho phép
cho mỗi Điểm kiểm soát tới hạn.
- Thiết kế và thực hiện một hệ thống kiểm soát, kiểm nghiệm hoặc
quan sát cho mỗi Điểm kiểm soát tới hạn, bao gồm một lịch trình theo thời
gian.

- Thiết kế và thực hiện các kế hoạch hành động chính xác cho mỗi
Điểm kiểm soát tới hạn
- Đưa ra một tiến trình xác nhận bao gồm các kiểm nghiệm, và các
tiến trình khác nhằm kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống HACCP.
- Chứng từ hóa tất cả các tiến trình và kết quả kiểm nghiệm
1.1.3/ Tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14001
Các nhà xuất khẩu buộc phải xem xét ảnh hưởng môi trường của sản
phẩm của mình, của quá trình sản xuất và đóng gói. Người tiêu dùng yêu
cầu các sản phẩm mang tính môi trường. Do vậy các nhà xuất khẩu Việt
Nam phải hiểu rằng việc tuân thủ các quy định về sản phẩm là rất cần thiết.
Việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng EU là một trong những yếu tố
quyết định thành công tại thị trường EU.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
5
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
Các vấn đề nhạy cảm là mức độ thặng dư thuốc trừ sâu, phụ gia thực
phẩm, sự hiện diện của kim loại nặng, của các chất gây ô nhiễm, sử dụng
hoá chất, gỗ rừng nhiệt đới, ô nhiễm nguồn nước, không khí và việc sử
dụng cạn kiệt các tài nguyên không thể tái tạo.
Chỉ thị 94/62/EC về đóng gói và chất thải bao bì đóng gói: có quy
định các mức độ tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yêu
cầu đối với sản xuất và thành phần của bao bì:
• Bao bì được sản xuất bằng phương pháp để cho thể tích và cân nặng
được giới hạn ở mức thấp nhất nhằm duy trì mức độ an toàn, vệ sinh cần
thiết và sự chấp thuận của người tiêu dùng cho sản phẩm đóng gói.
• Bao bì được thiết kế, sản xuất và thương mại hoá sao cho có thể
được tái sử dụng hoặc thu hồi, bao gồm tái chế và để giảm thiểu ảnh hưởng
về môi trường khi chất thải bao bì hoặc những phần dư từ chất thải bao bì
được loại trừ.

• Bao bì phải được sản xuất để giảm thiếu sự hiện diện của các chất
độc hại và các chất nguy hiểm khác.
Các tiêu chuẩn quản lý môi trường là các tiêu chuẩn mang tính tự
nguyện. Hiện nay tiêu chuẩn môi trường cho các quốc gia đang phát triển
được áp dụng nhiều nhất là ISO 14001.
Mục đích của tiêu chuẩn ISO 14001 là cho phép mọi người biết rằng
công ty được quản lý dưới hệ thống quản lý môi trường. Tiêu chuẩn ISO
14001 cso thể trở thành một yêu cầu không chính thức tăng khả năng cạnh
tranh trong nhiều khu vực thị trường.
Các đặc điểm của tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14001
- Chứng nhận ISO dựa trên cơ sở tự nguyện, mặc dù nó có một sức ép
đáng kể từ những người mua hàng Tây Âu.
- Nó là một quyết định của đội ngũ quản lý nhằm tránh sự ô nhiễm và
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
6
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
suy thoái môi trường; đồng thời giúp các doanh nghiệp tăng hiệu quả cạnh
tranh hơn khi tôn trọng môi trường.
- Các bộ tiêu chuẩn được thể hiện chi tiết dưới dạng thực hiện các
công việc gì chứ không phải là như thế nào.
- Một chính sách môi trường cần được trình bày một cách có hệ
thống.
- Kế hoạch , trách nhiệm và các tiến trình phải được ghi chép bằng văn
bản.
- Các cơ chế kiểm soát, điều chỉnh và hoạt động ngăn cản cần được
định ra
- Yêu cầu kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài.
- Yêu cầu thực hiện kiểm tra quản lý định kỳ
- Giấy chứng nhận do bên thứ 3 cấp.

1.1.4/ Tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm
Tổ chức Quốc tế Tiêu chuẩn Hoá (International Organization for
Standardisation – ISO) phát triển và chấp nhận sêri ISO 9000 nhằm cung
cấp một cơ cấu cho quản lý và bảo đảm chất lượng. Các nhà sản xuất xem
chứng nhận ISO 9001, ISO 9002 như là một tài sản quan trọng và là điểm
bắt đầu để cạnh tranh trong thị trường EU, tạo một niềm tin mạnh mẽ cho
đối tác. Giấy chứng nhận ISO chỉ có giá trị trong 3 năm, do vậy để tiếp tục
duy trì ISO, các đợt kiểm toán nội bộ (1-2 lần/năm) và kiểm toán từ bên
ngoài (2 lần trong năm) cần được thực hiện. Điều này có nghĩa là công ty
cần phải có 01 người quản lý chịu trách nhiệm cho các chính sách về quản
lý chất lượng.
* Các nội dung cơ bản của ISO
Các tiêu chuẩn ISO 9000: 9001 và 9002 là quan trọng nhất
•ISO 9000: Hướng dẫn cho việc lựa chọn và sử dụng hệ thống chất
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
7
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
lượng, không đề cập đến sự tuân thủ những đặc điểm kỹ thuật của sản
phẩm.
•ISO 9001: Mô hình bảo đảm chất lượng trong thiết kế, phát triển, sản
xuất, lắp đặt và dịch vụ.
•ISO 9002: Mô hình bảo đảm chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và
dịch vụ.
•ISO 9003: Mô hình bảo đảm chất lượng trong kiểm tra và kiểm định
cuối cùng
•ISO 9004: Những hướng dẫn cho thiết kế và thực thi các hệ thống
chất lượng.
Hiện nay Sê ri ISO 9000 phiên bản 2000 giảm còn 3 hệ thống tiêu
chuẩn quản lý chất lượng :

• ISO 9000: 2000
• ISO 9001: 2000
• ISO 9004: 2000
Phiên bản ISO 9001 mới thay thế cho các phiên bản cũ của ISO 9001,
ISO 9002, ISO 9003. Các nội dung tiêu chuẩn thay đổi bao gồm:
• Phù hợp với các tiêu chuẩn quản lý môi trường;
• Dễ dàng áp dụng cho các tổ chức nhỏ, vừa và lớn trong khu vực tư
nhân và công cộng;
• Có thể áp dụng đều nhau trong các lãnh vực sản xuất, dịch vụ và
phần mềm.
1.1.5/ Tiêu chuẩn về lao động
Ủy ban Châu Âu (EC) đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp sản xuất
nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
8
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
bức và cấm nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất sử dụng bất
kì một hình thức lao động cưỡng bức nào như: lao động tù nhân, lao động
trẻ em…. đã được xác định trong các Hiệp ước Geneva ngày 25/9/1926 và
7/9/1956 và các Hiệp ước Lao động Quốc tế số 29 và 105.
Có thể nói, EU sử dụng rào cản kỹ thuật là biện pháp chủ yếu để bảo
hộ sản xuất và tiêu dung nội địa. Đó là do công cụ thuế quan mà đặc biệt là
thuế quan nhập khẩu vào EU đàng ngày càng giảm dần, hơn nữa hàng hóa
của các nước đang và kém phát triển lại được EU cho hưởng chế độ thuế
quan ưu đãi GSP. Vì vậy, yếu tố có tính quyết định đến việc thâm nhập thị
trường EU của các nước ngoài liên minh chính là hàng hóa đó có vượt qua
được các rào cản kũy thuật chặt chẽ và khắt khe của EU hay không.
1.2/ Hiệp định rào cản kỹ thuật trong thương mại ( TBT: The
WTO Agreement on Technical Barriers to Trade)

Trong nhiều năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng các
quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật trong các hoạt động thương mại quốc tế,
trong đó có EU. Điều đó có tác dụng to lớn trong bảo vệ quyền lợi cho
người tiêu dùng về sự an toàn trong sử dụng, tiêu thụ sản phẩm thông qua
chất lượng sản phẩm tiêu dùng được đảm bảo. Xuất phát từ tác dụng to lớn
này, các quốc gia đã và đang tăng cường xây dựng và thực hiện một chính
sách bao gồm các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng trong hoạt động
thương mại trong nước cũng như thương mại quốc tế.
Khi một quốc gia muốn xuất khẩu sản phẩm của nước mình ra nước
ngoài, ngoài việc sản phẩm đó đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật trong nước còn phải phù hợp với các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật
của các nước nhập khẩu – đây mới chính là yếu tố quyết định đến việc sản
phẩm của quốc gia đó có xuất khẩu được hay không cũng như có thể được
thị trường nước nhập khẩu chấp nhận hay không. Điều này đã làm nảy sinh
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
9
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
yêu cầu cần có sự phù hợp, tương thích giữa các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật của các quốc gia khác nhau.
Để đạt được sự tương thích cần thiết giữa các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật của các nước khác nhau đòi hỏi một chi phí rất lớn như: chi phí dịch
thuật các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước ngoài; chi phí thuê chuyên
gia kỹ thuật nước ngoài để giải thích, giảng giải về các quy định, tiêu chuẩn
kỹ thuật đó; chi phí điều chỉnh sản phẩm trong nước sao cho phù hợp với
các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật nước ngoài Ngoài ra, nhà sản xuất còn
phải chứng mình được sản phẩm của mình đáp ứng được yêu cầu của các
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật. Tất cả những thủ tục trên đều đòi hỏi nhà sản
xuất phải bỏ ra một chi phí rất lớn cũng như tiêu tốn rất nhiều thời gian.
Thậm chí, những chi phí này còn tăng lên rất nhiều khi xuất khẩu sản phẩm

sang nhiều nước nhập khẩu khác nhau do mỗi một quốc gia lại ban hành và
áp dụng một bộ quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật riêng. Để giải quyết khó khăn
này, cũng như mở rộng thêm mục đích áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật cần phải có một văn bản quốc tế chung về các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật.
GATT 1947 (Hiệp định thuế quan có hiệu lực chung) đã có các điều
khoản III, XI và XX đề cập đến các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật mang
tính quốc tế. GATT cũng đã thành lập một nhóm làm việc nhằm đánh giá
những ảnh hưởng của hàng rào phi thuế quan đến hoạt động thương mại
quốc tế, trong đó các biện pháp mang tính kỹ thuật được xem là biện pháp
quan trọng nhất mà các nhà xuất khẩu phải lưu tâm đến. Tuy nhiên, sau
nhiều năm đàm phán, đến cuối vòng đàm phán Tokyo năm 1979 (vòng đàm
phán Tokyo đã kéo dài từ năm 1973 đến 1979), hiệp định đa phương về
các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Technical Barriers to Trade –
TBT) mới được ký kết.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
10
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
Hiệp định TBT ra đời đã nâng cao hiệu quả trong xuất khẩu và áp
dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như góp phần to lớn trong việc
giải quyết những khó khăn do mâu thuẫn giữa các bộ quy định, tiêu chuẩn
kỹ thuật của các nước khác nhau. Hiệp định TBT được sử dụng như một
khung pháp lý quốc tế để điều chỉnh các rào cản kĩ thuật của các quốc gia
thành viên WTO, trong đó EU không phải là trường hợp ngoại lệ.
1.2.1/ Mục đích ra đời của Hiệp định TBT
- Thúc đẩy thương mại, khuyến khích các nước thành viên tham gia
xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, xây dựng các tiêu chuẩn của quốc
gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.
- Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát

triển sang các nước đang phát triển thông qua hoạt động tiêu chuẩ hóa.
- Đảm bảo các biện pháp quản lỹ kĩ thuật các nước đề ra nhưng không
cản trở thương mại quá mức cần thiết.
- Không ngăn cản các nước thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết
để đảm bảo chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của mình, để bảo vệ sức
khỏe, an toàn cuộc sống của con người, động thực vật, bảo vệ môi trường,
chống gian lận thương mại và đảm bảo an ninh quốc gia.
1.2.2/ Nội dung của Hiệp định
1.2.1.1/ Các biện pháp kĩ thuật
Đối tượng của Hiệp định TBT là các biện pháp kỹ thuật. Trong phạm
vi điều chỉnh của hiệp định, các biện pháp kỹ thuật được chia thành 3 nhóm
cụ thể sau:
- Thứ nhất: Các quy định kỹ thuật. Đó là những quy định mang tính
bắt buộc đối với các bên tham gia. Điều đó có nghĩa, nếu các sản phẩm
nhập khẩu không đáp ứng được các quy định kỹ thuật sẽ không được phép
bán trên thị trường.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
11
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
- Thứ hai: Các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngược lại với các quy định kỹ
thuật, các tiêu chuẩn kỹ thuật được đưa ra chủ yếu mang tính khuyến nghị,
tức là các sản phẩm nhập khẩu được phép bán trên thị trường ngay cả khi
sản phẩm đó không đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật.
- Thứ ba: Các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn. Các thủ tục đánh giá sự
hợp chuẩn là các thủ tục kỹ thuật như: kiểm tra, thẩm tra, thanh tra và
chứng nhận về sự phù hợp của sản phẩm với các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật.
1.2.1.2/ Chi phí đánh giá sự hợp chuẩn
Hiệp định TBT cũng đề cập đến các chi phí mà nhà xuất khẩu phải

chịu để đưa sản phẩm của mình đạt được sự phù hợp với các quy định, tiêu
chuẩn kỹ thuật của hiệp định.
Trước hết là các chi phí liên quan đến việc đánh giá sự hợp chuẩn của
sản phẩm. Nhóm chi phí này bao gồm nhiều chi phí khác nhau như: chi phí
kiểm tra, chứng nhận hay chi phí về phòng thí nghiệm và chi phí cho các tổ
chức cung cấp giấy chứng nhận.
Chi phí về thông tin cũng là chi phí nhà xuất khẩu phải chi trả. Nhóm
chi phí này, bao gồm các chi phí liên quan đến việc đánh giá ảnh hưởng
mang tính kỹ thuật về quy định kỹ thuật của các nước khác, dịch thuật và
phổ biến thông tin, đào tạo chuyên gia Cuối cùng là các chi phí bất
thường do những khó khăn trong việc điều chỉnh chi phí khi phải tiếp cận
với các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật mới được ban hành.
1.2.1.3/ Hỗ trợ kỹ thuật
Theo hiệp định TBT, các quy định về hỗ trợ kỹ thuật được thể hiện
trên các mặt:
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
12
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
- Hỗ trợ kỹ thuật được tiến hành từ khâu chuẩn bị ban hành các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thành lập Hội đồng tiêu chuẩn quốc gia cho
đến khi tham gia vào Hội đồng tiêu chuẩn hoá quốc tế và các bước tiếp
theo để các nước đang phát triển thâm nhập vào các hệ thống đánh giá sự
hợp chuẩn của khu vực và trên thế giới.
- Chương trình hỗ trợ kỹ thuật thuộc hiệp định TBT bao gồm 2 hoạt
động chủ yếu là cung cấp dịch vụ tư vấn kinh tế, luật và đào tạo trong quá
trình thực thi hiệp định.
- Hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực thuộc TBT được Ban Thư ký
WTO tiến hành. Nội dung của các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật thường được
đưa ra trong các hội thảo hỗ trợ kỹ thuật cấp khu vực. Gần đây, các hội

thảo hỗ trợ kỹ thuật của WTO được phối hợp tổ chức với các tổ chức quốc
tế và khu vực.
- Hỗ trợ kỹ thuật được thực hiện trực tiếp giữa nước phát triển với
nước đang và chậm phát triển, hoặc được thực hiện thông qua chương trình
hợp tác kỹ thuật của Ban Thư ký WTO.
- Các yêu cầu về hỗ trợ kỹ thuật của các nước chậm phát triển luôn
được ưu tiên hơn so với các yêu cầu của các nước đang phát triển.
1.2.3/Mục đích hoạt động
Mục đích hoạt động của hiệp định TBT, bao gồm các mục đích sau:
- Thứ nhất, bảo vệ sức khoẻ và sự an toàn cho người tiêu dùng.
- Thứ hai, bảo vệ đời sống của động thực vật.
- Thứ ba, bảo vệ môi trường.
- Thứ tư, ngăn chặn các thông tin không chính xác.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
13
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
- Thứ năm, các mục đích khác liên quan đến các quy định về chất
lượng…
1.2.4/ Các nguyên tắc cơ bản
Hiệp định TBT có 6 nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc 1: Không đưa ra những cản trở không cần thiết đến hoạt
động thương mại.
Theo đó, trước hết các cản trở khi đưa ra phải phục vụ cho một mục
đích chính đáng. Mục đích chính đáng đó có thể là nhằm bảo vệ người tiêu
dùng, bảo vệ an ninh quốc gia hay bảo vệ môi trường Khi đưa ra các cản
trở, quốc gia đó cũng phải xem xét đến sự khác biệt về thị hiếu, thu nhập,
vị trí địa lý và các nhân tố khác giữa các quốc gia, từ đó lựa chọn sử dụng
những cản trở có tác động đến hoạt động thương mại ít nhất.
Về phía Chính phủ, tránh các cản trở không cần thiết đến hoạt động

thương mại có nghĩa là: khi Chính phủ đưa ra một quy định kỹ thuật liên
quan đến các sản phẩm như về thiết kế sản phẩm hay các tính năng, công
dụng của sản phẩm phải tránh những cản trở không cần thiết đến hoạt động
thương mại quốc tế. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho các thủ tục đánh giá
sự hợp chuẩn. Theo đó, các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn khi được đưa ra
không được quá khắt khe và tốn quá nhiều thời gian so với mức cần thiết
để đánh giá một sản phẩm phù hợp với luật lệ trong nước và các quy định
của nước nhập khẩu.
Nguyên tắc 2: Không phân biệt đối xử.
Giống như các hiệp định khác của WTO, nguyên tắc không phân biệt
đối xử của hiệp định TBT được thể hiện qua 2 nguyên tắc là nguyên tắc đối
xử tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT). MFN và NT
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
14
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
được áp dụng cho cả các quy định kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự hợp
chuẩn.
Nguyên tắc 3: Hài hoà hoá.
Nguyên tắc hài hoà hoá được thể hiện cụ thể trên các mặt sau:
Trước hết, hiệp định TBT khuyến khích các nước thành viên sử dụng
các tiêu chuẩn quốc tế trong xuất khẩu các tiêu chuẩn quốc gia (toàn bộ
hoặc một phần) trừ khi việc sử dụng đó không phù hợp làm mất tính hiệu
quả trong thực hiện một mục đích cụ thể nào đó.
Tiếp theo, hiệp định TBT khuyến khích các nước thành viên tham gia
vào các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế như OIE, FAO, WHO, IPPC là những
tổ chức đã thiết lập những bộ tiêu chuẩn kỹ thuật trong các lĩnh vực thuộc
phạm vi hoạt động của các tổ chức này.
Trong nguyên tắc hài hoà hoá, hiệp định TBT còn đề cập đến vấn đề
đối xử đặc biệt và khác biệt với các thành viên WTO là các nước đang và

chậm phát triển. Về những đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước
thành viên đang phát triển, hiệp định TBT đưa ra các quy định sau:
- WTO yêu cầu các nước thành viên bảo vệ lợi ích của các nước đang
phát triển. Điều này thể hiện trong quá trình ban hành và áp dụng các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn, các nước
thành viên WTO phải tính đến trình độ phát triển và khả năng tài chính của
các nước đang phát triển.
- WTO cho phép có sự linh hoạt trong ban hành và áp dụng các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn. Theo đó,
các nước đang phát triển không bắt buộc phải áp dụng các quy định, tiêu
chuẩn kỹ thuật quốc tế như những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản,
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
15
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
chủ yếu khi các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật đó không còn phù hợp với
trình độ phát triển và khả năng tài chính của các nước này.
Nguyên tắc 4: Bình đẳng
WTO khuyến khích các nước thành viên hợp tác để công nhận các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nhau.
Khi các nước công nhận các biện pháp kỹ thuật của nhau sẽ giúp làm
giảm chi phí điều chỉnh các tính năng của sản phẩm để phù hợp với tiêu
chuẩn của các nước khác. Hơn nữa, do khoảng cách về thời gian giữa thời
điểm ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế với thời điểm tiến hành áp
dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế đó vào hoạt động sản xuất của 1 quốc
gia có thể diễn ra trong 1 khoảng thời gian khá dài sẽ tạo điều kiện cho
nước áp dụng có cơ hội từ chối không áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật quốc tế. Việc tuân thủ nguyên tắc bình đẳng sẽ góp phần làm cho các
nhà sản xuất phải tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ hơn.
Nguyên tắc 5: Công nhận lẫn nhau

Để chứng minh được sản phẩm của mình đáp ứng được các quy định
kỹ thuật của nước nhập khẩu, nhà xuất khẩu sẽ phải tiến hành các thủ tục
khác nhau đòi hỏi một chi phí nhất định. Những chi phí này sẽ nhân lên
nhiều lần khi nhà xuất khẩu phải tiến hành làm các thủ tục này tại các nước
nhập khẩu khác nhau.
Tuy nhiên, khi các nước công nhận các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật
và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nhau thì nhà xuất khẩu, nhà sản xuất
sẽ chỉ phải tiến hành kiểm tra, chứng nhân tiêu chuẩn kỹ thuật ở 1 nước;
kết quả kiểm tra và chứng nhận tại quốc gia đó sẽ được các nước khác công
nhận.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
16
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
Trong thực tế, các nước thành viên WTO đều công nhận kết quả của
thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nước khác ngay cả khi thủ tục đánh giá
sự hợp chuẩn của các quốc gia không giống nhau.
Ngoài ra, hiệp định TBT còn quy định khi kết quả của các tổ chức
đánh giá sự hợp chuẩn tương thích với những chỉ dẫn liên quan do các tổ
chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ban hành thì kết quả đó được xem là bằng
chứng về một trình độ kỹ thuật hoàn chỉnh.
Nguyên tắc 6: Minh bạch
Theo hiệp định TBT, nguyên tắc minh bạch được thể hiện trên các mặt
sau:
- Bản thảo các quy định kỹ thuật của các nước thành viên WTO phải
được gửi đến Ban Thư ký WTO trước khi gửi bản chính thức 60 ngày. Thời
gian 60 ngày là để WTO xin ý kiến của các nước thành viên WTO khác.
- Ngay sau khi hiệp định TBT có hiệu lực, các nước tham gia ký kết
phải thông báo cho các nước thành viên khác về các biện pháp thực hiện và
quản lý các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước mình, cũng như các

thay đổi sau này của các biện pháp đó.
- Khi các nước thành viên WTO tham gia ký kết các hiệp định song
phương và đa phương với các quốc gia khác có liên quan đến các quy định,
tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn; nếu các hiệp định này
có ảnh hưởng về thương mại đến các nước thành viên khác thì phải thông
qua Ban Thư ký WTO thông báo về các sản phẩm thuộc phạm vi điều
chỉnh của hiệp định, kèm theo 1 bản mô tả vắn tắt hiệp định.
Ngoài ra, theo nguyên tắc minh bạch, các nước thành viên WTO còn
phải thành lập "điểm trả lời các câu hỏi liên quan đến các quy định, tiêu
chuẩn, thủ tục kiểm tra kỹ thuật – inquiry poins".
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
17
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
Cuối cùng, để tăng thêm sự đảm bảo tính minh bạch trong thực thi
hiệp định TBT, WTO cũng đã thành lập 1 cơ quan chuyên trách đó là Ủy
ban TBT. Ủy ban này sẽ cung cấp cho các nước thành viên WTO các thông
tin liên quan đến hoạt động của hiệp định và việc xúc tiến thực hiện các
mục đích của hiệp định.
Ngoài các nội dung trên, một phần không thể thiếu trong các nội dung
cấu thành của các hiệp định trong khuôn khổ WTO, và đã được cụ thể hoá
thành một chương riêng biệt trong nội dung hoạt động của WTO, đó là các
quy định về hỗ trợ kỹ thuật đối với các nước đang và chậm phát triển.
Các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật dành cho các nước đang và chậm phát
triển thực chất là một phần trong nội dung về đối xử đặc biệt và khác biệt,
tuy nhiên do tính phức tạp của nội dung này nên ngay cả trong hiệp định
TBT, nội dung về hỗ trợ kỹ thuật cũng được tách thành 1 phần riêng biệt.
1.3/ Sự cần thiết phải vượt qua các rào cản kĩ thuật khi tiếp cận
thị trường EU đối với Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu

của các nước là thước đo đánh giá kết quả cảu quá trình hội nhập quốc tế
và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Sự
độc lập phát triển của mỗi quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự
phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất nhập khẩu còn là
yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư
để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Ngày 7/11/2007 là mốc lịch sử quan trọng mở đường cho sự chuyển
mình của nền kinh tế Việt Nam : Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Đây là sự kiện có ý
nghĩa quan trọng đã và đang tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
18
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
thức mới. Từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay, nông nghiệp vẫn luôn là một
trong những thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, trên đường hội
nhập thì nông sản lại là mặt hàng gặp nhiều chông gai nhất.
Có thể nói, nông nghiệp đã và đang là chìa khóa của sự ổn định và
phát triển của người dân Việt Nam, bởi lẽ nông nghiệp đang là nguồn thu
nhập chính của hơn 60% dân số cả nước, có hơn 2/3 số hộ gia đình làm
nông nghiệp trong đó có 44% dân số thuộc diện khó khăn và có nguy cơ
tiềm ẩn cái nghèo. Với vị trí quan trọng như hiện nay thì việc thúc đẩy xuất
khẩu nông sản của Việt Nam sang thì trường các nước phát triển nói chung
và thị trường EU nói riêng là hoạt động hết sức cần thiết.
Là một trong 3 trụ cột kinh tế của thế giới ( Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU),
EU là trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới. EU đã thành công trong việc tạo
ra một thị trường chung có khả năng đảm bảo cho hàng hoá, con người,dịch
vụ, tiền vốn được tự do lưu thông giữa các nước thành viên. Việc sử dụng
đồng tiền chung Euro đã nâng cao sức cạnh tranh của thị trường chung

châu âu, xoá bỏ rủi do trong việc chuyển đổi tiền tệ, tạo thuận lợi trong
chuyển giao vốn trong EU, đơn giản hoá công tác kế toán doanh nghiệp đa
quốc gia. Kim ngạch nhập khẩu của EU không ngừng gia tăng hàng năm,
trong đó khoảng 60% là nhập khẩu từ các nước thuộc liên minh, còn 40 %
là nhập khẩu từ các nước ngoại khối. Giá trị nhập khẩu từ các nước ngoài
khối luôn có chiều hướng gia tăng với tốc độ khoảng 1 % và rất ổn định.
Xu thế từ nhiều năm nay là EU nhập siêu đối với hầu hết các nước, trừ
Mỹ vẫn đang tiếp tục. Trong đó, nhập siêu từ Trung Quốc luôn lớn nhất,
chiếm gần 60% tổng nhập siêu của EU.
Do có trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao, những
mặt hàng mà các nước EU có thế mạnh và có tính cạnh tranh cao hầu hết
thuộc các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, hoá chất, giao thông vận tải,
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
19
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
hàng không, dược phẩm, mỹ phẩm cao cấp, thực phẩm, đồ uống và dịch vụ
có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng lớn… Nhu cầu nhập khẩu của
EU phần lớn là nguyên, nhiên vật liệu, hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép,
may mặc, thuỷ sản, nông sản, lương thực…
Tháng 11 năm 1990, Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao. Trong khu vực EU, cộng hòa Séc, Slovakia, Hungari, Ba Lan…
là những quốc gia có mối quan hệ với Việt Nam từ lâu; do đó các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi trong việc xuất khẩu hàng hóa nói
chung và hàng nông sản nói riêng sang thị trường EU khi nối lại quan hệ
truyền thống với họ.
Từ năm 1995 đến nay, trao đổi thương mại của Việt Nam với các
nước thành viên EU tăng hàng năm khoảng 15 - 20% và EU đã trở thành
một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam vào EU 5 tháng đầu năm 2008 đứng thứ 5 trong

khối ASEAN, sau Thái Lan (5,531 tỉ Euro), Malaysia (5,497 tỉ Euro),
Singapore (5,329 tỉ Euro), Indonesia (4,348 tỉ Euro). Các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của ta sang EU gồm: giày dép, dệt may, cà phê, gỗ và sản
phẩm gỗ, thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ
Hiện nay các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: cà phê,
chè, điều nhân, hồ tiêu, rau quả, cao su… đang có một vị trí đáng kể trên
thị trường EU và nhu cầu của thị trường này đối với các mặt hàng trên
không ngừng gia tăng. Mặt hàng mật ong của Việt Nam mới thâm nhập thị
trường EU nhưng cũng đã nhận được những phản hồi tích cực từ phía
người tiêu dùng EU.
Có thể nói nông sản là mặt hàng xuất khẩu đóng vai trò chủ đạo của
nước ta. EU là thị trươngc có sức hấp dẫn cao đối với doanh ngiệp Việt
Nam, tuy nhiên việc xuất khẩu hàng hóa vào thị trường EU vẫn còn nhiều
mảng trống mà doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác hết. Chính vì vậy,
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
20
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói riêng của Việt
Nam sang thị trường EU là việc làm hết sức cần thiết trong điều kiện hội
nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.
Tuy nhiên, EU là một thị trường thực sự khó tính. Mặc dù thuế quan
và hạn ngạch không còn được EU sử dụng phổ biến, nếu có thì mức thuế
cũng không cao, nhưng các tiêu chuẩn kĩ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu
lại được EU lập ra và thực hiện rất nghiêm ngặt và chặt chẽ, đặc biệt là đối
với mặt hàng nông sản. Mỗi một mặt hàng, thị trường châu Âu đều có
những tiêu chuẩn áp dụng riêng, chẳng hạn như: mặt hàng rau quả tươi yêu
cầu đạt chứng chỉ chất lượng GAP (Good agricultural Practice - thực hành
canh tác tốt), mặt hàng thủy sản phải đạt chứng nhận chất lượng của Cục
Quản lý an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIQUAVED) cấp, mặt hàng

lâm sản, đồ gỗ khi xuất vào thị trường châu Âu phải có chứng chỉ rừng
FSC (Forest Stewardship Council - Hội đồng Quản lí rừng Quốc tế. Có thể
nói rằng rào cản thuế quan đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu sang EU
không phải là trở ngại lớn, vấn đề khó khăn nhất hiện nay là làm thế nào để
nông sản có thể vượt qua các rào cản phi thuế quan để có thể khẳng định vị
thế của mình trên thị trường đầy tiềm năng này.
Là thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu của hầu hết các nước
đang phát triển có sản phẩm tương tự Việt Nam nên thị trường EU là nơi
cạnh tranh thực sự gay gắt. Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam vào thị trường EU thời gian qua chưa thực sự xứng đáng với
tiềm năng của mình. Trên thực tế, thị trường EU vẫn chưa được các doanh
nghiệp Việt Nam khai thác triệt để mặc dù chúng ta rất có tiềm năng đối
với mặt hàng nông sản xuất khẩu. Một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến thực trạng trên là do nông sản Việt Nam vẫn chưa khẳng
định được thương hiệu của mình.Vì vậy, việc vượt qua các rào cản kĩ thuật
với nông sản của EU sẽ góp phần khẳng định thương hiệu nông sản Việt
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
21
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
Nam, gia tăng kim ngạch xuất khẩu của nước ta với các nước trong cũng
như ngoài liên minh, cải thiện cán cân thương mại, góp phần thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Tóm lại, tuần thủ nghiêm ngặt các quy định, tiêu chuẩn kĩ thuật khắt
khe của EU là việc làm bắt buộc và cần thiết đối với các doanh nghiệp
nông sản Việt Nam khi muốn thâm nhập vào thị trường này.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
22
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG EU
VÀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU
2.1/ Khái quát về thị trường EU
2.1.1/ Về lịch sử hình thành:
Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành của EU là bản “Tuyên bố
Schuman” của Bộ trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09
tháng 05 năm 1950 với đề nghị đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của
Cộng hoà liên bang Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung, trong
một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng tham gia. Sau đó,
Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), một tổ chức tiền
thân của EU ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết giữa các
quốc gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu
với đỉnh cao là một Liên minh châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và
trong tương lai có thể sẽ đạt tới cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại hơn 50
năm hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu, có thể thấy quá trình
này gắn liến với các hiệp ước chủ yếu sau đây (từ năm 1951 đến nay):
•Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (ECSC)
được ký ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức, Italy, Bỉ,
Hà Lan và Luxembourg, nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai
sản phẩm chính là thép và than trên toàn lãnh thổ châu Âu. Hiệp ước này đã
chứa đựng ý đồ của các nhà sáng lập ECSC là gây dựng nền tảng cho việc
nhất thể hoá kinh tế châu Âu.
• Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu
Âu (EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày
25/31957 với sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Mục đích thành lập
EURATOM là để thống nhất việc quản lý ngành năng lượng nguyên tử của
6 nước thành viên; trong khi đó EEC ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tăng
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
23
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang

Lớp: Kinh tế quốc tế 47
cường liên kết kinh tế giữa 6 nước này, tạo ra một tập hợp sức mạnh kinh tế
tổng hợp dưới hình thưc một “thị trường chung” mà lao động hàng hoá
được tự do di chuyển như một thị trường nội địa. Hiệp ước Rome là kết quả
của những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế và chính trị mà ECSC đã đạt
được. Và có thể nói, hiệp ước này đã mở ra một hướng liên kết giữa các
quốc gia châu Âu đánh giá sự ra đời của một liên minh kinh tế thật sự Cộng
đồng kinh tế châu Âu (EE).
•Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu (EC) được ký ngày
08/04/1965 giữa các nước của 3 nước Cộng đồng này dưới tên gọi: Cộng
đồng châu Âu. Đây là văn bản xác nhận một cấp độ nhất thể hóa kinh tế
cao hơn giữa các quốc gia này thể hiện việc thành lập một thị trường thống
nhất; trong đó, ngoài việc hàng hoá, lao động và vốn đầu tư được tự do di
chuyển, hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng được rỡ bỏ, hệ thống
thuế quan và chính sách thương mại chung được thành lập, một số chính
sách đối với các lĩnh vực kinh tế khác cũng được thống nhất nhằm tăng sức
cạnh tranh với các khối kinh tế bên ngoài, tiến tới một liên minh chặt chẽ
về chính trị.
•Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu được ký ngày
07/2/1992 tại Maastricht – Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của nguyên
thủ quốc gia các nước thành viên (lúc này, số thành viên của EC là 12 nước
bao gồm: Pháp, Đức, Bỉ, Italy, Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan mạch,
Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) nhằm thành lập một “không
gian châu Âu” thống nhất về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và các
chính sách về xã hội. Như vậy, EU đã được bổ sung thêm các nội dung liên
kết mới (an ninh, chính trị , đối ngoại) mà các tổ chức tiền thân của nó chưa
có, để đạt được các mục tiêu toàn diện hơn như: duy trì bảo vệ hoà bình và
thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất về kinh tế vì lợi
ích chung của các dân tộc châu Âu thông qua việc tạo ra một khu vực kinh
tế rộng lớn, một khu vực thị trường tự do, thống nhất, tạo điều kiện cho

G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
24
Sinh viên: Ngô Thị Mai Trang
Lớp: Kinh tế quốc tế 47
việc thống nhất về chính trị và hài hoà về xã hội trong liên minh. Với mục
tiêu như vậy, EU đã thực sự bước vào một thời kỳ mới, tồn tại như một
thực thể thống nhất, hay những nói đúng hơn là đóng vai trò như một “Đại
quốc gia” ở châu Âu, một “Ngôi nhà chung châu Âu”.
•Hiệp ước Amsterdam được ký vào ngày 2/10/1997 bởi các nguyên
thủ của 15 nước thành viên (năm 1995 EU đã kết nạp thêm 3 nước thành
viên nữa là: Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo). Hiệp ước này được hình thành trên
cơ sở sửa đổi hiệp ước Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong
việc xây dựng một liên minh kinh tế - tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực.
Hiệp ước này đã tao cơ sở pháp lý để đồng EU đồng tiền chung của các
nước châu Âu chính thức ra đời với tư cách đầy đủ của một đồng tiền thực
thụ và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1999 trong phạm vi 11 nước (EU-11):
Đức, Pháp, Ailen, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italy, Luxembourg, Phần Lan.
Theo kế hoạch đã được định trước, đúng ngày 1/1/2002, các đồng Euro
bằng giấy và bằng kim loại đã chính thức đi vào lưu thông tiền tệ song
hành với các đồng bản tệ và bắt đầu giai đoạn đổi tiền. Và kể từ ngày
1/7/2002, các đồng bản tệ của tất cả 11 nước thuộc EU -11 đã kết thúc lịch
sử tồn tại của mình, vĩnh viễn rút khỏi lưu thông, chính thức nhường chỗ
hoàn toàn cho đồng Eurro đang là đồng tiền chung, duy nhất lưu hành trong
tất cả các quan hệ kinh tế - xã hội các những nước thành viên. Một “Ngôi
nhà chung châu Âu” đã hình thành.
 Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề
cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới.
Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là cả một quá trình phát triển
phức tạp với các hình thức liên kết kinh tế quốc tế được phát triển chặt chẽ,
toàn diện và hoàn toàn mới về vật chất. Và cho đến nay, sau nhiều nỗ lực

thiết thực của EU, tiến trình nhất thể hoá châu Âu đã đạt được các kết quả
rất khả quan trên nhiều lĩnh vực.
G/v hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thúy Hồng
25

×