Luận văn: Giải quyết các tranh chấp trong thương mại
Quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Giải quyết các tranh chấp trong thương
mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay
CHƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƠNG MẠI BẰNG THỦ TỤC TRỌNG TÀI
1.1. TRANH CHẤP THƠNG MẠI
1.1.1. Tranh chấp kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm
Ngay từ xa xa, khi Nhà nớc còn cha hình thành thì mọi ngời đã tiến hành các hoạt
động sản xuất và trao đổi sản phẩm hàng hoá theo các phơng thức giản đơn khác nhau.
Hay nói một cách khác, lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế có từ rất lâu trớc khi Nhà
nớc xuất hiện và đa ra nx chế định để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội cùng với sự ra
đời và phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội, tranh chấp cũng phát sinh và đặt ra nhu
cầu đợc giải quyết sao cho công bằng và hợp lý nhất trong bối cảnh kinh tế - chính trị - xã
hội đó.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung đợc hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi
và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn này có thể phát
sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng đợc gọi theo
ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lơng giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động
đợc gọi là tranh chấp lao động. Tơng tự nh vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai
những tranh chấp rõ là có liên quan đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó chúng có thể
đợc gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trng của các tranh chấp kinh tế theo
nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này không nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận.
Trong phạm vi hẹp, quan hệ kinh tế là quan hệ giã các chủ thể kinh doanh trong lĩnh
vực kinh tế. Kể từ khi nớc ta có pháp luật về hợp đồng kinh tế, những tranh chấp phát sinh
từ quan hệ hợp đồng kinh tế gọi là tranh chấp kinh tế, đó là sự bất đồng quan điểm của các
bên về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng kinh tế. Song trong
nền kinh tế thị trờng mở cửa và nhiều thành phần kinh tế hiện nay, tranh chấp kinh tế
không chỉ đơn thuần là tranh chấp hợp đồng kinh tế, mà còn nhiều loại tranh chấp khác,
phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh nh: tranh chấp giã công ty và các thành
viên công ty; giữa các thành viên công ty với nhau, các tranh chấp liên quan đến việc mua
bán cổ phiếu, trái phiếu
Tóm lại: "tranh chấp kinh tế là tranh chấp trong quan hệ kinh doanh " Kinh doanh nh
quy định tại Khoản 2 - Điều 3 - Luật doanh nghiệp "Là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu t, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh lời" Chủ thể của các hoạt động kinh doanh là
các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, vì thế có thể có một khái niệm về tranh chấp kinh tế
nh sau: "Tranh chấp kinh tế là những bất đồng, xung đột, mâu thuẫn xảy ra ở các doanh
nghiệp, đơn vị kinh tế trong quá trình thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể doanh
nghiệp".
1.1.1.2. Phân loại tranh chấp kinh tế
Trong nền kinh tế thị trờng mở, nhiều thành phần các quan hệ kinh doanh rất đa
dạng và phức tạp. Tranh chấp kinh tế cũng vì vậy mà phức tạp không kém. Việc phân loại
tranh chấp kinh tế giúp chúng ta đơn giản hoá đợc chúng và có cách xa phù hợp.
* Theo mối quan hệ giữa các chủ thể thì tranh chấp kinh tế có thể là:
- Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với
cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Tranh chấp giữa các công ty với các thành viên công ty hoặc giữa các thành viên
công ty liên quan đến việc thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật
* Tranh chấp trong hợp đồng kinh tế và tranh chấp ngoài hợp đồng kinh tế.
* Tranh chấp kinh tế trong nớc và tranh chấp kinh tế có yếu tố nớc ngoài.
* Theo lĩnh vực kinh doanh thì gồm: tranh chấp thơng mại, tranh chấp về tài chính,
tranh chấp đầu t, tranh chấp về bảo hiểm, tranh chấp về vận chuyển hàng hoá
* Theo thẩm quyền giải quyền thì gồm có tranh chấp do Toà án giải quyết và tranh
chấp do các tổ chức khác giải quyết.
* Theo số lợng đơng sự trong tranh chấp gồm có tranh chấp liên quan đến hai bên và
tranh chấp liên quan đến nhiều bên.
1.1.2. Tranh chấp thơng mại
1.1.2.1. Khái niệm
Một cách đơn giản có thể hiểu tranh chấp thơng mại là tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực thơng mại. Điều 238 Luật thơng mại Việt Nam nêu ra khái niệm về tranh chấp
thơng mại "là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt đồng thơng mại".
Tại Khoản 2 - Điều 5 cũng quy định "hoạt động thơng mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thơng mại của thơng nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch
vụ thơng mại và các hoạt động xúc tiến thơng mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm
thực hiện các chính sách kinh tế xã hội".
Tuy nhiên, hành vi thơng mại gồm những hành vi nào là điều đáng quan tâm hơn cả.
Hiện nay trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về hành vi thơng mại:
Ở Việt Nam, Điều 45 Luật thơng mại quy định các loại hành vi thơng mại gồm:
1. Mua bán hàng hoá
2. Đại diện cho thơng nhân
3. Môi giới thơng mại
4. Uỷ thác mua bán hàng hoá
5. Đại lý mua bán hàng hoá
6. Gia công trong thơng mại
7. Đấu giá hàng hoá
8. Dịch vụ giao nhận hàng hoá
9. Đấu thầu hàng hoá
10. Dịch vụ giám định hàng hoá
11. Khuyến mại
12. Quảng cáo thơng mại
13. Trng bày giới thiệu hàng hoá
14. Hội chợ, triển lãm thơng mại
Tuy vậy, ngoại diên của khái niệm hành vi thơng mại ở các nớc có nền kinh tế thị
trờng phát triển có phạm vi rộng hơn nhiều. Ở Anh nói riêng và cộng đồng Anh ngữ nói
chung thuật ngữ "Commerce" không đồng nhất với "trade", mà nó bao gồm cả "trade",
"bank", "insurrance" , "transport", hay nói một cách khác thơng mại bao gồm cả việc
mua, bán, các sản phẩm vô hình có tính chất đặc thù khác. Tác động thơng mại là hoạt
động "thờng xuyên, độc lập và mu cầu lợi nhuận", và theo luật thơng mại của Pháp, hoạt
động thơng mại bao gồm:
1. Mua bán động sản với mục đích bán lại để kiếm lời
2. Hoạt động trung gian trong việc mua bán động sản và bất động sản.
3. Cho thuê động sản và bất động sản.
4. Chế tạo và chuyên chở
5. Hoạt động đổi tiền và ngân hàng
6. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Và tranh chấp thơng mại là tranh chấp trong các hoạt động trên. Trong giới hạn của
bài viết ở đây chỉ làm rõ tranh chấp trong hoạt động thơng mại đã đợc quy định tại luật
thơng mại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/1998.
1.1.2.2. Phân loại tranh chấp thơng mại
Tranh chấp thơng mại cũng là một tranh chấp kinh tế, do đó tranh chấp thơng mại có
thể là:
* Theo phạm vi lãnh thổ: Tranh chấp thơng mại trong nớc và tranh chấp thơng mại
quốc tế.
* Tranh chấp hai bên và tranh chấp nhiều bên
* Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên
- Tranh chấp do ngời mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo quy định
của hợp đồng.
- Tranh chấp do ngời bán không thực hiện hay thực hiện không đúng theo quy định
hợp đồng.
* Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tơng lai. Tranh chấp hiện tại là tranh chấp đã xảy
ra đang cần đợc giải quyết. Tranh chấp tơng lai đợc hiểu là tranh chấp có thể xảy ra và
việc giải quyết đợc dự liệu trong một điều khoản của hợp đồng.
* Theo nghiệp vụ giao dịch
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến viêc thanh toán
* Theo tính pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý và hiệu lực của hợp đồng)
- Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng
Vi phạm nguyên tắc ký kết
Căn cứ ký kết không hợp pháp
Chủ thể ký kết hợp đồng không hợp pháp, hợp lệ
- Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng
- Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng
* Theo tiến trình thực hiện hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng
+ Do ngời bán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình
nh đã thoả thuận trong hợp đồng (liên quan đến nghĩa vụ giao hàng, cung cấp chứng từ
hàng hoá, thông qua kiểm định ).
+ Do ngời mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình
trong hợp đồng (không mở L/C đúng hạn, thanh toán chậm hay không thanh toán, không
hoặc trì hoãn việc nhận hàng).
1.1.2.3. Tranh chấp thơng mại.
* Tranh chấp thơng mại là tranh chấp phát sinh từ những quan hệ có do ngành luật
thơng mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trng khác biệt so với tranh chấp dân sự,
tranh chấp lao động.
Thứ nhất, tranh chấp thơng mại thờng là nguyên nhân phát sinh thiệt hại về vật chất
đối với các bên khi các bên có sự thoả thuận thông nhất một cách giải quyết có lợi nhất
cho cả hai bên. Khác với các tranh chấp khác, tranh chấp thơng mại thờng có giá trị lớn
đợc phát sinh trong việc đầu t vốn, tài sản nhằm thu lợi nhuận. Tranh chấp nảy sinh sẽ ảnh
hởng đến hoạt động kinh tế của không những các đơng sự mà còn ảnh hởng đến các chủ
thể kinh doanh khác.
Thứ hai, quan hệ thơng mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thơng mại là
điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Hoạt động thơng mại của doanh nghiệp là
hoạt động thiết lập một mạng lới các hành vi thơng mại, mà mục tiêu của các bên khi tham
gia vào các quan hệ này là lợi nhuận. Các bên tuy hợp tác, song vẫn canh tranh nhau để
thu về đợc lợi ích nhiều nhất. Chính vì thế sẽ không tránh khỏi những mâu thuẫn bất đồng
trong việc giải thích về quyền và nghĩa vụ, cũng nh quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ
đó của các bên - đó chính là những tranh chấp thơng mại.
Thứ ba, tranh chấp thơng mại là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể đợc Nhà nớc
thừa nhận quyền doanh nghiệp có chức năng kinh doanh đó là các doanh nghiệp. Vì vậy
không phải tranh chấp nào phát sinh từ hoạt động kinh doanh cũng là tranh chấp thơng mại.
Là tranh chấp thơng mại khi các đơn vị kinh tế có đăng ký kinh doanh thuộc tất cả các
thành phần kinh tế (các doanh nghiệp Nhà nớc, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Doanh
nghiệp t nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, hộ kinh doanh cá thể ).
Thứ t, tranh chấp thơng mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể
dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị trờng. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt
động diễn ra thờng xuyên, liên tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối
quan hệ kinh tế khiến cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan
đến nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến tranh chấp
trong mối quan hệ khác. Chẳng hạn doanh nghiệp A vay tiền của ngân hàng để mua nguyên
vật liệu của doanh nghiệp B và bán sản phẩm cho doanh nghiệp C theo các hợp đồng đã ký.
Nếu doanh nghiệp B không cung cấp đúng nguyên vật liệu nh đã thoả thuận thì doanh nghiệp
A cũng sẽ không giao đợc hàng cho bên C nh trong hợp đồng và không thu hồi đợc vốn đầu
t để trả cho ngân hàng. Tranh chấp phát sinh giữa doanh nghiệp A và doanh nghiệp B;
doanh nghiệp A và doanh nghiệp C; doanh nghiệp A và ngân hàng.
1.1.2.4. Tính tất yếu tồn tại tranh chấp thơng mại trong nền kinh tế thị trờng.
Kinh tế thị trờng là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, sản phẩm đợc sản xuất ra để bán,
trao đổi trên thị trờng, mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều là đối tợng tự do mua bán trên thị
trờng kể cả sản phẩm chất xám. Kinh tế thị trờng là nền kinh tế tiền tệ hoá rất cao, mục
đích của các chủ thể khi tham gia vào kinh tế thị trờng là lợi nhuận, lợi nhuận càng cao
càng tốt.
Trong cơ chế thị trờng, các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ rất cao và họ có toàn
quyền quyết định việc thiết lập các quan hệ kinh tế - thơng mại của mình miễn là không
trái với quy định của pháp luật. Chính vì vậy các quan hệ thơng mại trong nền kinh tế rất
đa dạng và phức tạp. Tính phức tạp và chồng chéo đan xen của các quan hệ thơng mại ẩn
chứa một nguy cơ cao phát sinh tranh chấp. Chỉ một trục trặc nhỏ trong "mắt xích" sẽ làm
kéo theo hàng loạt các trục trặc khác và làm nảy sinh tranh chấp.
Các chủ thể kinh kế khi tham gia vào những quan hệ thơng mại mà họ cho là có lợi,
có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất và khi mà mục đích có nguy cơ không đạt đợc
cũng sẽ làm phát sinh tranh chấp. Trong quan hệ thơng mại, quyền lợi của bên này cũng
tơng ứng với một nghĩa vụ của bên kia, điều đó khiến cho xung đột lợi ích sẽ phát sinh nếu
các bên không đi đến một thoả thuận thống nhất dung hoà đợc quyền lợi và nghĩa vụ của
họ. Đảm bảo nguyền tắc cùng có lợi trong quan hệ thơng mại.
Đặc biệt trong thơng mại quốc thế sự khác nhau về tập quán kinh doanh cũng là một
lý do quan trọng dẫn đến tranh chấp. Tập quán kinh doanh ở đây đợc hiểu là toàn bộ các
quyết định luật pháp, quy tắc thực hành, thông lệ trong hoạt động thơng mại ở mỗi quốc
gia, mỗi khu vực kinh tế. Một hành vi đợc coi là hợp pháp ở quốc gia này nhng rất có thể
là hành vi vi phạm pháp luật ở nớc khác. Chẳng hạn theo quy định nhập khẩu của Trung
Quốc, hàng hoá nhập khẩu vào Trung Quốc bắt buộc phải in mã số mã vạch trên bao bì,
nhãn hiệu hàng hoá. Các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trờng Trung Quốc nếu không tìm
hiểu rõ quy định này và xuất hàng cha đăng ký và in mã số, mã vạch thì sẽ không đợc
thông qua nhập khẩu và thế là tranh chấp phát sinh. Hay nh quy định về hạn ngạch dệt
may của Mỹ khác với quy định của EU là ở loại hạn ngạch tính theo số lợng nhập khẩu
Các rủi ro khách quan nh: sự thay đổi pháp luật, cấm vận, chiến tranh, bạo loạt, đình
công ảnh hởng đến việc thực hiện hợp đồng của các bên làm phát sinh tranh chấp. Mặc
dù đó có thể là những trờng hợp bất khả kháng, song việc giải quyết hậu quả, phân định mức
thiệt hại cho mỗi bên cũng có thể phát sinh tranh chấp. Tranh chấp còn phát sinh khi một bên
cho rằng rủi ro không nằm trong các trờng hợp đợc miễn trách.
Trong nền kinh tế thị trờng đạo đức kinh doanh không phải lúc nào cũng đợc các bên
tôn trong, đặc biệt là việc giữ chữ tín với bạn hàng. Vì lợi nhuận họ sẵn sàng có những
hành động cố tình vi phạm hợp đồng, hoặc lừa đào khách hàng làm thiệt hại cho đối tác.
Bản thân mục tiêu lợi nhuận không mang tính đạo đức nhng cách thức để đạt đợc lợi
nhuận thì có và tranh chấp phát sinh, trong trờng hợp này thuộc về lý do chủ quan. Rõ
ràng trong nền kinh tế thị trờng quan hệ kinh tế trở lên sống động, đa dạng và phức tạp.
Mục đích nhằm tối đa hoá lợi nhuận trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia
quan hệ kinh tế thơng mại. Trong điều kiện đó, tranh chấp là một vấn đề tất yếu, không thể
tránh khỏi, đòi hỏi phải có sự quan tâm giải quyết một cách thoả đáng. Điều này vừa là
một yêu cầu nghiêm ngặt của nguyên tắc pháp chế vừa là một đòi hỏi bức xúc của quan hệ
kinh tế nói chung và quan hệ thơng mại nói riêng.
1.1.3. Giải quyết tranh chấp thơng mại trong nền kinh tế thị trờng
Cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong quan hệ thơng mại
làm cho tranh chấp thơng mại cũng trở lên phức tạp về nội dung, gay gắt về mức độ tranh
chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại xuất phát từ lợi nhuận của các bên và sự hấp
dẫn của nền kinh tế, việc giải quyết tranh chấp là hết sức quan trong và cần thiết.
1.1.3.1. ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả.
Khi bắt đầu một thơng vụ, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp xảy ra bởi
tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hởng đến hoạt động kinh doanh của họ, làm gián đoạn
quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức để giải quyết tranh chấp. Không
những thế còn liên quan đến chủ thể khác có quan hệ với các bên tranh chấp, uy tín của
chủ thể trên thơng trờng có thể bị ảnh hởng, cũng nh các yếu tố khác thuộc về bí mật kinh
doanh có thể bị tiết lộ hoặc bị lợi dụng
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn chế đến mức
tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng nh đặt ở mức chi phí thấp nhất. Song,
quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các
bên khi tham gia vào kinh tế thơng mại.
Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Muốn có
một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ kinh tế thơng mại
nói riêng phải đợc điều chỉnh bằng pháp luật, phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên
là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng cách đặt ra các chế định và chế tài tạo thành
một "sân chơi" lành mạnh và công bằng. Khi tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện
pháp để giải quyết, nếu không giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây da kéo dài và thiệt hại
rất lớn. Điều đó không những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền kinh tế mà còn gây nên
một khuyết điểm lớn của môi trờng kinh doanh, các chủ thể sau tranh chấp có thể "quay
lng" lại với nhau đố kỵ và không tin tởng lẫn nhau. Một tâm lý yên tâm làm ăn kinh tế,
mạnh dạn đầu t sẽ góp phần cải thiện nền kinh tế.
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan trong việc quản
lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiập, vừa góp phần tạo
môi trờng pháp lý có kỷ cơng. Trong sản xuất kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công
bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nớc và ngoài nớc. Thực hiện sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
Tính hiệu quả đợc xét ở hai góc độ hiệu quả chuyên môn và hiệu quả kinh tế. Muốn
vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh chấp nào cũng phải tuân thủ một số
nguyên tắc.
1.1.3.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
Dựa trên cơ sở tự do và tự chủ trong kinh doanh, bình đẳng trớc pháp luật, việc giải
quyết tranh chấp phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự định đoạt: Theo nguyên tắc này thể hiện trớc hết là ở chỗ các bên có
quyền thoả thuận phơng thức giải quyết tranh chấp có lợi nhật có thể là tự thơng lợng,
hoặc thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua một hình thức tài phán. Sau đó các bên
có thể không nhất thiết phải tham gia tố tụng mà có thể uỷ quyền cho ngời khác tham gia
tố tụng, có quyền nhờ luật s hoặc ngời khác bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cuối cùng
khi đã đa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà án các bên có quyền hoà giải hoặc thay đổi nội
dung đơn kiện hoặc rút đơn kiện.
- Nguyên tắc bình đẳng trớc pháp luật: Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.
- Nguyên tắc hoà giải: Trớc hết các bên phải tiến hành tự hoà giải, chỉ khi nào không
hoà giải đợc mới nhờ đến các cơ quan tài phán giải quyết. Khi thụ lý vụ án các cơ quan tài
phán cũng tiến hành các biện pháp hoà giải và công nhận hoà giải trớc khi xét xử. (Quy
định tại Điều 35 pháp lệnh giải quyết vụ án tranh chấp kinh tế, Điều 35 quy tắc tố tụng
trọng tài trong nớc và Điều 35 quy tắc tố tụng của trung tâm trong tài quốc tế Việt Nam).
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo hạn chế gián
đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh đợc thực hiện theo chu trình
sản xuất khép kín, vì vậy ở bất kỳ một công đoạn nào xảy ra trục trặc đều dẫn đến ảnh
hởng toàn bộ quá trình kinh doanh. Giải quyết tranh chấp không đợc tiến hành một cách
nhanh chóng kịp thời sẽ ảnh hởng tới sự tồn tại và phát triển vững mạnh của chủ thể kinh
doanh. Nhanh chóng, kịp thời nhng phải dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ
lợi ích hợp pháp của các bên.
Ngoài ra, xuất phát từ mức độ lợi ích của doanh nghiệp, việc giải quyết tranh chấp
phải quan tâm đến một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, là giải quyết đớc tranh chấp với chi phí thấp nhất về tiền bạc và thời gian chi
phí để bỏ ra giải quyết tranh chấp cũng là chi phí kinh doanh, vì vậy khi phát sinh tranh chấp
là nảy sinh thêm chi phí. Đặt ra yêu cầu phải hạn chế ở mức thấp nhất các chi phí không mang
lại hiệu quả kinh doanh này. Các bên nên lựa chọn giải quyết với chi phí thấp nhất, đồng thời
các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng phải tính đến yêu cầu này để đặt ra nhng quy định phù
hợp, tạo niềm tin cho ngời kinh doanh.
Thứ hai, phải bảo vệ đợc uy tín của các bên trong thơng trờng. Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, không bên nào đợc đa ra bất kỳ một thông tin nào ngoài phạm vi giải
quyết tranh chấp, nhằm hạ uy tín hay ảnh hởng tiêu cực đến hình ảnh của đối phơng trên
thơng trờng, trớc công luận, hay trớc tổ chức giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp phải bảo đảm các yếu tố bí mật trong kinh doanh trong
hoạt động kinh doanh để có đợc thành công thì các chủ thể đều có những bí quyết riêng
của mình vì vậy họ không muốn đề ngời khác biết. Khi mà quyền kinh doanh đợc coi là
hợp pháp thì quyền giữ bí mật trong kinh doanh cũng đợc pháp luật bảo hộ.
Trong các phơng thức giải quyết tranh chấp chỉ có thông qua toà án là xét xử công
khai nhng ngay cả trong trờng hợp các bên kiện ra toà, thì yêu cầu về tính bảo mật và uy
tín cũng đợc tôn trọng nh quy định ở Điều 7 pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế: "Các vụ án kinh tế đợc xét xử công khai trừ trờng hợp cần giữ bí mật Nhà nớc hoặc giữ
bí mật của đơng sự theo yêu cầu chính đáng của họ".
Trong nền kinh tế, có nhiều phơng thức và loại hình giải quyết tranh chấp khác nhau,
tất cả đều nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất, quyền và lợi ích của các bên đều
đợc bảo đảm. Các khả năng, hình thức và biện pháp giải quyết tranh chấp đợc quy định
trong pháp luật của mỗi quốc gia thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Đó là việc giải quyết tranh chấp thông qua một cơ quan tài phán có đơn kiện, hoặc giải
quyết tranh chấp thông qua thủ tục đơn kiện.
1.1.3.3. Các biện pháp giải quyết tranh chấp.
a. Giải quyết tranh chấp bằng thơng lợng.
Đây là biện pháp các bên áp dụng trớc khi đi kiện khi pháp sinh tranh chấp. Các bên
sẽ đa ra trao đổi bàn bạc các biện pháp để đi đến thống nhất chung cho việc giải quyết
tranh chấp. Các bên có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện gặp nhau đàm phán để giải
quyết những vấn đề phát sinh. Đại diện củ7a mỗi bên có thể là giám đốc, là ngời đợc giám
đốc uỷ quyền hoặc luật s thay mặt doanh nghiệp đó tham gia vào quá trình thơng lợng. Việc
thơng lợng có thể tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các hình thức trao đổi thông tin.
Trong hình thức thơng lợng, các bên có quyền tự do ý trí, bình đẳng, cùng nhau xem
xét vấn đề trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành. Nếu các bên đạt đợc sự thoả
thuận thì coi nh tranh chấp đợc giải quyết.
Biện pháp thơng lợng là biện pháp giải quyết đơn giản, tiết kiệm đợc thời gian và
chi phí đối với mỗi bên. Việc thơng lợng còn thể hiện sự thiện chí thơng lợng của các bên
trong việc giải quyết tranh chấp, sau khi đã thoả thuận thống nhất các bên vẫn giữ đợc mối
quan hệ tốt với nhau trong các thơng vụ sau này, cũng nh giữ đợc uy tín và bảo vệ đợc bí
mất kinh doanh.
Tuy vậy biện pháp này thờng chỉ thành công khi các bên cùng có thiện chí trong việc
giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên tỏ ra quá nóng vội, khiêu khích thì quá trình
thơng lợng coi nh thất bại. Mặt khác, nếu mâu thuẫn quá phức tạp các bên không giữ đợc
cách đánh giá khách quan thì rất khó thoả hiệp. Hoặc nếu tranh chấp liên quan đến nhiều
bên, tranh chấp mà việc giải quyết nó nằm ngoài khả năng của các bên thì phải có một bên
thứ ba hoặc một cơ quan hoà giải mới giải quyết đợc chứ thơng lợng không giúp ích gì
nhiều.
b. Giải quyết tranh chấp bằng trung gian hoà giải.
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên thông qua một ngời thứ ba
gọi là hoà giải viên. Hoà giải viên đợc các đơng sự chọn có nghĩa vụ "trung lập" tạo điều
kiện giúp đỡ các bên tranh chấp đạt đợc một giải pháp để điều hoà lợi ích khắc phục mâu
thuẫn bất đồng đã phát sinh.
Hoà giải viên sẽ tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai bên
để tìm hiểu kỹ nội dung tranh chấp, đa ra những lý giải, phân tích cho các bên thấy rõ lợi
ích của mình và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống nhất giải quyết tranh chấp
hợp tình hợp lý. Hoà giải viên không có quyền hạn gì để ra quyết định hoặc áp đặt một
giải pháp nào đối với các bên, cũng nh không thể đa ra các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính chất tự nguyện, nó mang đầy
đủ những u điểm của thơng lợng. Ngoài ra, hoà giải còn có những u điểm khiến không giải
quyết tranh chấp dễ dàng hơn. Chẳng hạn hoà giải viên thờng là những chuyên gia am hiểu
về vấn đề đang tranh chấp, họ lại có một đánh giá sự việc khách quan hơn, hoà giải viên có
thể đa ra giải quyết cho cả hai bên cùng tham khảo, họ thờng có những phân tích chính xác,
rõ ràng các vấn đề thực tế trong tranh chấp, từng bớc gỡ từng bớc "mút" bất đồng.
Hoà giải cũng chỉ thành công khi hai bên có thiện chí giải quyết tranh chấp và nhìn
chung thể thức này không có giá trị bắt buộc trừ khi các bên đạt đợc sự thoả thuận. Nếu
các bên cứ khăng khăng bảo thủ thì tranh chấp cũng không giải quyết đợc vì hoà giải viên
không đa ra những quyết định buộc các bên phải thi hành.
Ngời trung gian hoà giải đợc chọn thông qua sự thống nhất thoả thuận của các bên.
Đó có thể là các tranh chấp trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Trong hoạt động kinh tế
đối ngoại, đặc biệt trong thơng mại quốc tế trung gian hoà giải có thể là một tổ chức Chính
phủ nh đại sứ quán các trung tâm xúc tiến thơng mại hoặc là các tổ chức phi Chính phủ .
Hai phơng thức trên có giải quyết tranh chấp thành công hay không đều phụ thuộc
rất lớn vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên. Thiếu những yếu tố đó việc giải quyết
tranh chấp sẽ thất bại. Do đó cần giải quyết bằng những phơng thức khác, quyết định của
cơ quan giải quyết tranh chấp phải đợc tuân thủ. Ngời có quyền lợi bị vi phạm sau khi
không thành công trong việc áp dụng của các biện pháp trên (hoặc bỏ qua) có thể kiện ra
toà án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền lợi của mình.
c. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục toà án.
Điều 1 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định về quyền yêu cầu Toà
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nh sau "cá nhân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật
quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu toàn án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình''.
Tranh chấp kinh tế nói chung và tranh chấp thơng mại nói riêng đợc kiện đối và xét
xử ở toà kinh tế. Toà án có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp sinh từ tất cả các mối
quan hệ kinh tế trong nớc kể cả thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Thẩm quyền giải quyết của toà án đợc phân cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn
của nguyên đơn.
+ Thẩm quyền theo cấp:
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp
đồng kinh tế mà giá trị thấp dới 50 triệu, trừ những tranh chấp có yếu tố nớc ngoài.
Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án kinh tế thuộc
thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm các vụ
án kinh tế.
Toà án phúc thẩm Toà án nhân dân tối cac xét xử phúc thẩm các bản án sơ thẩm của
toà án kinh tế Toà án nhân dân cấp huyện.
+ Thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ: Toà án cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là
Toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc c trú. Nếu vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì toà án
có nơi có bất động sản giải quyết.
+ Theo yêu cầu giải quyết của nguyên đơn: Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án
để yêu cầu giải quyết trong các trờng hợp sau: Toà án an có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi
c trú của bị đơn hoặc chi nhánh của bị đơn.
Toà án nơi thực hiện hợp đồng kinh tế nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi c trú khác
nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi c trú hoặc có trụ sở của một trong các bị
đơn giải quyết vụ án.
Nếu vụ án có liên quan đến bất động sản thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi
có bất động sản hoặc nơi c trú của bị đơn giải quyết, hoặc chọn một trong các nơi nếu liên
quan đến bất động sản ở nhiều nơi.
Đối với tranh chấp có yếu tố nớc ngoài xảy ra ở Việt Nam, Toà án cũng có thẩm
quyền xét xử, trừ trờng hợp điều ớc quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký
kết hoặc tham gia có quy định khác.
Muốn đa tranh chấp ra kiện ở Toà án nguyên đơn phải có đơn và tài liệu chứng minh
cho yêu cầu của mình, đồng thời phải tạm ứng án phí. Trớc khi xét xử Toà sẽ tiến hành
hoà giải. Nếu hoà giải thành thì thẩm phán lập biên bản hòa giải thành và coi đây nh là
quyết định của Toà án, bằng không cũng lập biên bản hoà giải không thành và tiếp tục xét xử.
Việc xét xử gồm xét xử sơ thẩm và phúc thẩm (nếu có). Sau phiên sơ thẩm, nếu không nhất trí
với quyết định của Toà thì các đơng sự vẫn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, trong
thời gian 10 ngày, lên Toà án trên một cấp. Bản án phúc thẩm sau khi tuyên thì có hiệu lực
pháp luật ngay và không đợc quyền kháng cáo.
Trong một số trờng hợp đặc biệt sau khi thi hành án, có thể có những phiên giám đốc
thẩm và tái thẩm.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Toà án thờng là giải pháp cuối cùng
của các bên bởi quyết định của Toà án có tính cỡng chế rất cao vì đợc đảm bảo bằng bộ
máy thi hành và giám sát thi hành án của Nhà nớc. Ngoài ra trong quá trình thụ lý và xét
xử , Toà án có thể đa ra những "biện pháp khẩn cấp tạm thời" nh tạm giữ tài sản, phong
toả tài khoản để bảo vệ bằng chứng, bảo đảm việc thi hành án.
Tuy nhiên, tranh chấp kinh tế trên thế giới thờng ít đợc kiện ra Toà án vị nhiều lý do.
Trớc hết đó là trong thủ tục Toà án, quyền tự quyết của các đơng sự ở mức thấp nhất so
với các phơng thức khác, pháp luật can thiệp trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp.
Các bên sẽ phải tuân thủ theo những thủ tục cứng nhắc, bắt buộc, phức tạp và kéo dài, án
phí lại thờng cao. Thứ hai, một khi đã đa tranh chấp ra Toà thì những bí mật kinh doanh
cũng nh uy tín của doanh nghiệp sẽ không đợc bảo toàn, cho dù doanh nghiệp là bên thắng
kiện. Thứ ba, khi đã kiện tụng trớc Toàn thì quan hệ hợp tác giữa hai bên khó có thể duy
trì, doanh nghiệp sẽ mất một đối tác, một bạn hàng nghĩa là mất nguồn lợi do quan hệ kinh
tế đem lại.
d. Giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục trọng tài
Tranh chấp thơng mại có thể đợc giải quyết thông qua trọng tài kinh tế. Đây là một
phơng thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thoả thuận lập ra nhằm giải quyết dứt điểm
các vụ tranh chấp. Trọng tài kinh tế tồn tại từ rất lâu và phát triển mạnh mẽ trên thế giới nh
ngày nay vì tố tụng của nó đã mang lại những lợi ích thiết thực cho các nhà doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở Việt Nam trọng tài phi Chính phủ vẫn còn cha quen thuộc với đa số các nhà
doanh nghiệp. Phần tiềp theo, ngời viết sẽ tập trung vào phơng pháp giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, đặc biệt trong lĩnh vực thơng mại quốc tế.
1.2. TRONG TÀI KINH TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG THỦ TỤC
TRONG TÀI.
1.2.1. Trọng tài.
1.2.1.1. Khái niệm.
Theo từ điển luật học của Black's "Trọng tài là cơ quan xét xử do các bên đơng sự
thoả thuận thành lập để giải quyết tranh chấp giữa chính các bên đơng sự đó. Thành phần
của trong tài do các bên đơng sự thoả thuận giải quyết định "
Theo Điều 1, Nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế quy
đinh: "Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty và các thành viên công ty; giữa các
thành viên của công ty với nhau; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái
phiếu.
Ở Việt Nam và các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây còn có hệ thống trọng tài kinh tế
của Nhà nớc, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trởng hoặc Uỷ ban nhân dân
cùng cấp và chịu sự chỉ đạo, giám sát của trọng tài kinh tế cấp trên. Các cơ quan trọng tài
này hoạt động nh một cơ quan Nhà nớc có chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế và
xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế.
1.2.1.2. Các hình thức trọng tài kinh tế.
Đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp vốn đa dạng và phức tạp, tạo điều kiện cho
các bên tranh chấp thực hiện quyền lựa chọn của mình đối với các hình thức trọng tài kinh
tế trong nền kinh tế thị trờng có thể đợc phần ra theo những tiêu thức sau:
a. Căn cứ vào quy chế tổ chức gồm trọng tài vụ việc (trọng tài AD -HOC) và trọng
tài thờng trực
Trọng tài AD-HOC: Là loại hình trọng tài không có cơ quan thờng trực do các bên
tranh chấp lập ra để giải quyết vấn đề mà họ yêu cầu. Trọng tài AD - HOC không có quy
chế hoạt động riêng và chỉ giải quyết vấn đề xong thì giải tán.
Khi áp dụng hình thức trọng tài AD - HOC, các bên phải tự thoả thuận và lập ra
quy tắc tố tụng, lựa chọn trọng tài viên và địa điểm xét xử. Về cơ bản các bên không
bị ràng buộc bởi các quy định pháp lý về tố tụng khi mà họ vẫn đảm bảo đợc nguyên
tắc khách quan trong quá trình xét xử trờng hợp của họ.
Giải quyết bằng trọng tài AD - HOC khá đơn giản, nhanh chóng và tiết kiệm đợc chi
phí do không phải trả phí cho bộ máy hành chính. Đây là biện pháp giải quyết tranh chấp
mềm dẻo, linh hoạt, phán quyết của trọng tài AD - HOC vẫn đợc công nhận có giá trị
chung thẩm và đợc thi hành.
Để thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp thì khi lựa chọn trọng tài vụ việc,
các bên nên thoả thuận quy tắc tố tụng trong hợp đồng để khi muốn áp dụng thì chỉ cần dẫn
chiếu. Trong trờng hợp cần thiết, các bên có thể sửa đổi, bổ sung một số chi tiết cho phù hợp
với tính chất từng vụ việc. Việc áp dụng các quy tắc này không đòi hỏi các bên phải trả thêm
bất kỳ một khoản lệ phí nào mà lại có thể mang lại cho các bên một cách thức giải quyết
nhanh.
Tuy nhiên trọng tài vụ việc còn có nhợc điểm là tính hiệu quả của nó phụ thuộc vào
tinh thần hợp tác toàn diện của các bên tranh chấp và cần có sự hỗ trợ của một hệ thống
pháp luật kinh tế hoàn chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa chọn" sẽ chỉ là hình thức nếu các bên
không có thiện chí với nhau. Trình tự xét xử dễ bị trì hoãn nếu các bên không thống nhất
đợc thủ tục giải quyết hoặc trở ngại trong việc lựa chọn trong tài viên.
Trọng tài vụ việc trên thực tế chỉ thích hợp với những tranh chấp nhỏ, khi các đơng
sự có sự am hiểu về pháp luật, dày dạn trên thơng trờng và có kinh nghiệp tranh tụng.
Trọng tài thờng trực: bên cạnh loại hình trọng tài AD - HOC, còn có loại hình trọng
tài hoạt động thờng xuyên, theo thông lệ quốc tế đợc gọi là trọng tài thờng trực hay trọng
tài quy chế. Trọng tài thờng trực có điều lệ riêng và quy chế hoạt động cụ thể. Mỗi tổ chức
trọng tài quy chế đều đa ra một bản quy tắc tố tụng hớng dẫn trình tự tiến hành thủ tục giải
quyết tranh chấp. Các trung tâm trọng tài này đơc gọi dới các tên nh Toà án trọng tài (Ví
dụ Toà án trọng tài quốc tế, Toà án trọng tài Luân Đôn); Trung tâm trọng tài (Ví dụ Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế Hông kông ); hay Hiệp hội
trọng tài (Hiệp hội trọng tài Mỹ ). Các Trung tâm trọng tài đợc tổ chức dới dạng công ty
hoặc Hiệp hội.
Về cơ cấu tổ chức, mỗi tổ chức trọng tài quy chế gồm một bộ phận thờng trực hoặc
ban th ký nhằm cung cấp các dịch vụ hành chính và giám sát việc áp dụng các quy tắc
trọng tài. Thành phần thứ hai không thể thiếu ở các tổ chức trọng tài qui chế là các trọng
tài viên, họ là các luật s, các chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực thơng mại,
hàng hải, bảo hiểm
Trọng tài thờng trực là hình thức trung gian giữa Toà án và Trọng tài vụ việc, Trọng
tài thờng trực giống trọng tài AD - HOC ở khả năng lựa chọn trọng tài viên, tuy có hạn
chế hơn (vì phải chọn một hoặc tất cả trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên có sẵn
của Trung tâm trọng tài). Mặt khác, trong tố tụng trọng tài thờng trực, các bên đơng sự
buộc phải tuân theo các quy chế xét xử của từng Trung tâm trọng tài, bất luận nó có phức
tạp hoặc không hợp lý đến mức nào. Tuy nhiên, trên thực tế điều này là rất hãn hữu, vì để
tồn tại và phát triển, bên cạnh chất lợng của đội ngũ trọng tài viên thì quy chế tố tụng của
từng Trung tâm trọng tài phải rất linh hoạt, có khả năng đáp ứng đòi hỏi của các nhà kinh
doanh trong việc giải quyết tranh chấp.
Lợi thế lớn nhất của trọng tài thờng trực là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài và
các bên đơng sự chỉ cần thoả thuận áp dụng quy tắc là đủ mà không cần phải tốn công tạo
ra một bộ quy tắc mới. Các bản quy tắc trọng tài cũng đợc bổ sung thờng xuyên, điều
chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của môi trờng kinh doanh. Những điều này rất thuận lợi
cho các doanh nghiệp mới bớc vào nghề, hoặc không am hiểu nhiều về luật pháp, về thủ
tục kiện tụng. Nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình thì họ chọn trọng tài thờng
trực với bộ quy tắc có sẵn để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa trọng tài quy chế hoạt động
thờng xuyên, có tổ chức chặt chẽ tạo điều kiện cho các bên dễ dàng quy định một thoả
thuận trọng tài riêng. Một u điểm khác của trọng tài quy chế là vấn đề lựa chọn trọng tài
viên. Trong trờng hợp vụ việc tranh chấp bị một bên gây căng thẳng làm cản trở việc lựa
chọn trọng tài viên thì sự chỉ định của Chủ tịch Trung tâm trọng tài là hết sức cần thiết.
Các trọng tài Trung tâm là những ngời đợc tuyển chọn kỹ càng, và các bên hoàn toàn có
thể đặt niềm tin vào trình độ chuyền môn cũng nh sự khách quan của họ. Ngoài ra còn
phải kể đến vai trò của ban th ký đối với quá trình giải quyết tranh chấp, họ có nhiệmvụ
theo dõi, giám sát việc giải quyết tranh chấp làm cho quá trình thụ lý và xét xử không bị
gián đoạn.
Bên cạnh những u điểm trên thì trọng tài quy chế cũng có những hạn chế nhất định
nh chi phí trọng tài cao hơn so với trọng tài AD - HOC. Ngoài chi phí trọng tài, các tổ
chức trọng tài còn thu thêm phí hành chính. Và cũng do bộ máy hành chính nên đôi khi
quá trình tố tụng trọng tài quy chế kéo dài vì phải tuân thủ những thủ tục trong quy tắc tố
tụng một cách tuần tự và nghiêm chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa chọn" của các bên thực chất
đã bị hạn chế trong quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.
Theo kinh nghiệm, khi phải giải quyết những vụ tranh chấp phức tạp, có giá trị kinh
tế cao thì nên kiện ra trong trọng tài quy chế.
b. Căn cứ theo vị trí trọng tì trong hệ thống tổ chức gồm:
Trọng tài Nhà nớc: (hay còn gọi là trọng tài Chính phủ): Là cơ quan thuộc hệ thống
cơ quan chấp hành và điều hành Nhà nớc, có chức năng quản lý Nhà nớc đối với công tác
hợp đồng kinh tế. Hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế cũng
chính là phơng tiện để đạt đợc mục đích là trực tiếp tham gia việc điều hành, tổ chức các
quan hệ kinh tế.
Trọng tài kinh tế Nhà nớc tồn tại ở các nớc có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nh
ở các nớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu và ở Việt Nam trớc đây (từ những năm 1960 cho đến
tận đầu thập kỷ 90). Và hiện nay khi chuyển sang cơ chế thị trờng, các quốc gia này cũng
tiến hành đổi mới cách thức tổ chức giải quyết tranh chấp.
Trọng tài phi Chính phủ: là một tổ chức độc lập, không phụ thuộc hệ thống các cơ quan
Nhà nớc. Nó có thể đợc thành lập ở dạng công ty hoặc Hiệp hội trọng tài. Mô hình này phổ
biến ở nớc có nền kinh tế thị trờng.
c. Căn cứ vào mô hình tổ chức:
- Trọng tài độc lập: ví dụ nh: Hiệp hội trọng tài Mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản,
Toà án trọng tài quốc tế Luân Đôn.
- Trọng tài bên cạnh phòng thơng mại: ví dụ: Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh
phòng thơng mại quốc tế, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thơng
mại và chủ nghĩa Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore.
d. Căn cứ vào thẩm quyền giải quyết vụ việc: gồm trọng tài chuyên ngành và trọng
tài tổng hợp.
e. Căn cứ theo đặc điểm thành lập: Trọng tài quốc tế, trọng tài quốc gia.
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
Theo pháp luật và thực tiễn trọng tài của các nớc trọng tài thì có thẩm quyền xét xử
khi các bên đơng sự thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu các bên trớc và
sau khi phát sinh tranh chấp không thống nhất giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì
tranh chấp đợc giải quyết bằng Toà án. Tuy nhiên, việc thoả thuận giải quyết tranh chấp
phải đợc thực hiện trong khuôn khổ do pháp luật quy đinh.
Theo mục một, Thông t 02 - PLDSKT ngày 03/01/1995 hớng dẫn thi hành về thẩm
quyền của trọng tài kinh tế đợc quy định tại Nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động của
trọng tài kinh tế, "trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sau đây, không phụ thuộc vào
quốc tịch của các bên tranh chấp.
Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với
doanh nghiệp t nhân, giữa doanh nghiệp t nhân với doanh nghiệp t nhân và giữa pháp nhân,
doanh nghiệp t nhân với cá nhân kinh doanh
Vấn đề thoả thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp còn đợc quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Ví dụ Mục 3 Điều 239 Luật Thơng mại quy
định: "Trong trờng hợp thơng lợng hoặc hoà giải không đạt kết quả thì tranh chấp thơng mại
tại trọng tài, Toà án đợc tiến hành theo các thủ tục tố tụng của trọng tài, Toà án mà các bên
lựa chọn". Điều 21b Điều lệ mua bán licent, Điều 241 Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Khoản 2
Điều 30 Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Điều 38 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế,
Điều 24 Luật đầu t nớc ngoài cũng có những quy định tơng tự.
1.2.3. Nguyên tắc của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Quy tắc tố tụng là khung pháp lý mà Uỷ ban trọng tài và các bên đơng sự phải tuân
theo. Do trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp đợc hình thành trên cơ sở tự nguyện của
các trọng tài viên, theo quy định của Pháp luật; hoặc trên cơ sở lựa chọn của các đơng sự
(trọng tài AD - HOC), nên không tồn tại một tố tụng thống nhất. Tuy vậy, thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài của tất cả các tổ chức, hình thức trọng tài phải đảm bảo các
nguyên tắc sau mà nếu vi phạm các nguyên tắc này sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý rất phức
tạp.
+ Nguyên tắc tự nguyện: Là nguyên tắc cốt lõi trong vấn đề trọng tài vì trọng tài đợc
hình thành là do ý chí tự nguyện của các bên đơng sự và trong quá trình giải quyết tranh
chấp, trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đơng sự. Họ có thể thoả thuận chọn
hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, trọng tài viên, địa điểm mà họ thấy thuận tiện và
thậm chí là cả quy tắc tố tụng áp dụng trong vụ kiện. Trong quá trình tranh tụng, nếu các
bên đạt đợc sự thống nhất trên cơ sở thơng lợng hoặc hoà giải thì trọng tài phải tôn trọng
sự thoả thuận đó và chấm dứt việc giải quyết vụ việc.
+ Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp: Trong mọi việc: từ lựa chọn hay
bãi miễn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm tố tụng, trong việc đa đơn yêu cầu hay đơn biện
minh trong việc nhận thông tin từ trọng tài và phía bên kia. Mọi tài liệu thông tin cho trọng
tài đều phải thông báo cho bên kia, mọi biện pháp, quyết định của trọng tài đều phải đảm
bảo sự bình đẳng giữa các bên tranh chấp.
+ Nguyên tắc độc lập của các trọng tài viên trong khi giải quyết tranh chấp trong quá
trình giải quyết tranh chấp, không ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên.
Các trọng tài viên bình đẳng với nhau và xét xử độc lập căn cứ vào những Điều khoản của
hợp đồng và pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, với t cách là những ngời hoàn toàn độc lập
trong xét xử tranh chấp, trọng tài phải đảm bảo thái độ khách quan, vô t nếu không muốn
bị các bên khớc từ hoặc phải tự khớc từ.
+ Nguyên tắc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp: đây là nguyên tắc xuất phát từ
mong muốn và lợi ích của các doanh nghiệp. Theo đó, các buổi họp xét xử của trọng tài
trên cơ sở sự thoả thuận của các trọng tài viên sẽ đợc tiến hành tại nơi mà ngoài trọng tài
viên và các đơng sự thì những ngời không có trách nhiệm hoặc không liên quan thì không
đợc có mặt. Trọng tài viên có trách nhiệm phải đảm bảo bí mật mọi vấn đề mà mình biết
khi tiến hành giải quyết vụ việc, kể cả phán quyết cuối cùng trừ khi đợc sự đồng ý của các
đơng sự.
+ Quyết định của trọng tài có giá trị bắt buộc với các bên và không thể bị kháng cáo.
1.2.4. Các vấn đề khi đa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài.
1.2.4.1. Thoả thuận trọng tài.
Nh trên đã đề cập, để giải quyết tranh chấp kinh tế, thơng mại bằng trọng tài thì điều
kiện cần là phải có tranh chấp phát sinh và điều kiện đủ là phải có một thoả thuận giữa các
bên thống nhất đa ra tranh chấp ra giải quyết ở trọng tài.
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận của các bên có liên quan đa ra tranh chấp đã xảy
ra hoặc có thể xảy ra để giải quyết thông qua thủ tục trọng tài.
Thoả thuận trọng tài có giữa các bên đồng nghĩa với việc các bên đã gián tiếp thoả
thuận khớc từ thẩm quyền xét xử của Toà án quốc gia. Nếu không có thoả thuận sẽ không
có trọng tài, hoặc nếu trọng tài không đợc tiến hành dựa trên cơ sở thoả thuận thì trọng tài
này bị pháp luật coi là vô hiệu khi đã thoả thuận, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh
từ thoả thuận này. Nếu một bên vi phạm thoả thuận trọng tài, bên kia có quyền yêu cầu
Toà án can thiệp buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ thoả thuận trọng tài không dẫn
đến các chế tài phạt nh trong chế tài phát hợp đồng. Thay cho chế tài buộc thực hiện hợp
đồng phạt hoặc bồi thờng thiệt hại trong hợp đồng, thông thờng là quy định của pháp luật
đảm bảo cho thoả thuận trọng tài đợc thực hiện mà không phụ thuộc vào ý chí của các bên
liên quan.
Thoả thuận trọng tài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Đó chính là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ hoạt động của trong tài: từ lúc
đa tranh chấp ra trọng tài nào, chọn trọng tài viên ra sao cho đến cách thức thủ tục giải
quyết tranh chấp.
Thoả thuận trọng tài tồn tại dới hai dạng đó là Điều khoản trọng tài trong hợp đồng
và thoả thuận trong tài riêng biệt. Điều khoản trọng tài trong hợp đồng là thoả thuận giữa
cá bên hợp đồng chon trọng tài để giải quyết tranh chấp có thể xảy ra trong tơng lai. Điều
khoản này nằm ở phần cuối hợp đồng, không phải là do nó không quan trọng bằng các
điều khoản khác mà là do trình tự đàm phán. Sau khi các bên đã thoả thuận xong phần lớn
điều khoản chủ yếu khác rồi mới thoả thuận điều khoản này. Nó còn đợc gọi một cách
hình ảnh là "Điều khoản nửa đêm" (midnight clause). Do tranh chấp hợp đồng cha xảy ra
và có thể không bao giờ xảy ra nên Điều khoản trọng tài thờng rất ngắn gọn, đôi khi quá
đơn giản, ví dụ "trọng tài: theo quy tắc của ICC; Luật áp dụng; Luật Việt Nam; nơi xét xử
Singapore". Tuy vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn có thể tiến hành đợc.
Thoả thuận trọng tài riêng biệt đợc lập khi giữa các bên đã có tranh chấp xảy ra. Do các
bên đã biết rõ về loại tranh chấp nên thoả thuận trọng tài trong trờng hợp này thờng đợc
các bên soạn thảo một cách chi tiết, cụ thể và do vậy thờng hiệu quả hơn. Tuy vậy, đàm
phán cho thoả thuận trọng tài riêng biệt thờng khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều so với
điều khoản trọng tài vì không phải lúc nào bên vi phạp cũng có thiện ý giải quyết tranh
chấp, họ thờng lảng tránh hoặc cố tình kéo dài thời gian đàm phán để chiếm dụng vốn
hoặc làm mất thời hiệu khởi kiện.
Theo pháp luật trọng tài của phần lớn các nớc trên thế giới thì thoả thuận trọng tài
phải đợc lập bằng văn bản. Văn bản có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng thoả
thuận trọng tài riêng biệt hoặc thoả thuận trọng tài đợc lập thông qua các hình thức trao đổi
th từ, công văn, qua các phơng tiện thông tin điện tử nh Telex, Fax
Trong thoả thuận trọng tài, một trong những nội dung cơ bản là các bên phải thoả thuận
đa tranh chấp ra trọng tài giải quyết. Tên cơ quan trọng tài có thẩm quyền giải quyết, luật áp
dụng cho hợp đồng, luật áp dụng cho thủ thục tố tụng, giá trị của phán quyết, chi phí trọng tài,
địa điểm trọng tài, ngôn ngữ xét xử, thời hiệu khởi kiện, nội dung tranh chấp đợc giải quyết
bằng trọng tài.
Chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài cũng là một vấn đề quan trọng. Những ngời có
quyền ký kết hợp đồng thì cũng có nghĩa là họ có quyền ký thoả thuận trọng tài. Năng lực
chủ thể ký kết hợp đồng đợc pháp luật các quốc gia quy định khác nhau. Nếu là cá nhân
thì phụ thuộc vào quốc tịch hoặc nơi cá nhân này thờng trú. Nếu là doanh nghiệp thì phụ
thuộc vào nơi tiến hành hợp đồng kinh doanh hoặc là nơi thành lập. Vì không đủ năng lực
chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài, phán quyết trọng tài có thể bị từ chối công nhận và thi
hành theo quy định tại Mục a, Khoản 1 Điều V Công ớc NewYork 1958.
Thoả thuận trọng tài hoàn chỉnh sẽ giúp các bên hạn chế tổn thất khi xảy ra tranh
chấp. Sự chặt chẽ, cụ thể của thoả thuận trọng tài sẽ phần nào hạn chế vi phạm thoả thuận
trọng tài của các bên.
1.2.4.2. Luật áp dụng trong hợp đồng - cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp.
Luật áp dụng để xét xử tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để xem xét việc thực
hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật này đợc gọi
là luật áp dụng cho hợp đồng.
Đối với các tranh chấp thơng mại nội địa, đơng nhiên, luật áp dụng trong hợp đồng
là luật quốc gia, chẳng hạn nh ở Việt Nam thì căn cứ vào luật thơng mại, pháp lênh hợp
đồng kinh tế, luật đất đai Vấn đề chọn luật áp dụng trong hợp đồng không đặt ra với các
hợp đồng nội.
Trong thơng mại quốc tế, luật của rất nhiều nớc liên quan đến quan hệ của các bên
trong hợp đồng và cùng có khả năng điều chỉnh hợp đồng ngang nhau. Giữa các nguồn
luật đó luôn tồn tài hiện tợng xung đột luật, vì thế khi đa tranh chấp ra trong tài, các bên
đơng sự phải thoả thuận thống nhất về luật áp dụng trong hợp đồng. Các nguồn luật áp
dụng trong thơng mại quốc tế bao gồm: Các điều ớc quốc tế, các tập quán thơng mại quốc
tế và luật quốc gia.
+ Điều ớc quốc tế: là những văn bản có chứa những quy phạm pháp luật đợc các
quốc gia và các chủ thể khác xây dựng, ký kết, công nhận và có hiệu lực pháp lý đối với
chủ thể của các quốc gia thành viên. Nó có thể là: Hiệp ớc, Hiệp định, Nghị định th, công
hàm trao đổi khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhng không đợc quy định hoặc quy
định không đầy đủ thì các bên có thể đa điều ớc quốc tế vào để xử lý vấn đề đó. Các điều
ớc này không có giá trị bắt buộc đối với các quan hệ thơng mại quốc tế nếu nh nó cha đợc
quốc gia đó phê chuẩn. Khi quốc gia đã phê chuẩn, tất cả những trờng hợp mà hợp đồng
không dẫn chiếu thì điều ớc đó vẫn đơng nhiên đợc áp dụng.
Có hai loại điều ớc quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hoá: Thứ nhất, loại điều ớc
quốc tế đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thơng mại, nó
không điều chỉnh trực tiếp các vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các bên
tham gia hợp đồng mà chỉ đề ra các nguyên tắc pháp lý có tính chất định hớng, chỉ đạo: ví
dụ nh Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định thơng mại Việt Nam -
Mỹ; Hiệp định cắt giảm thuế quan với ASEAN Thứ hai, là loại điều ớc quốc tế trực tiếp
điều chỉnh đến các vấn đề có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của các
bên trong ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây chính là nguồn quy phạm pháp luật dùng để
giải quyết tranh chấp, thờng đợc các bên và cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong quá
trình giải quyết tranh chấp. Loại điều ớc này điển hình có Công ớc Brussel 1964 về chuyên
chở hàng hoá, Công ớc viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế.
+ Tập quán thơng mại: là những quy tắc xử sự có hệ thống, những thói quen thơng
mại phổ biến đợc áp dụng một cách thờng xuyên, liên tục trong một thời gian dài và phải
có nội dung rõ ràng mà qua đó có thể xác định đợc quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Các
tập quán thơng mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý và có hiệu lực bắt buộc đối với các chủ
thể ký kết khi nó đợc quy định hoặc dẫn chiếu vào hợp đồng. Điều 135 quy tắc ICC về trọng
tài quy định "Các trọng tài không chỉ áp dụng luật áp dụng mà còn phải dùng tới các điều khoản
trong hợp đồng và những "Tập quán thơng mại" thích hợp để giải quyết vụ việc". Trong những
luật trọng tài của các quốc gia cũng quy định nh vậy.
Một ví dụ về tập quán thơng mại quốc tế thông dụng đợc phòng thơng mại quốc tế
soạn thảo và ban hành đó là các bản Incoterm: quy định về điều kiện cơ sở giao hàng. Hay
là quy tắc thống nhất và thực hành tín dụng chứng từ - UCP cũng tỏ ra rất hữu dụng trong
việc hớng dẫn đến một chuẩn mực quốc tế duy nhất cho quyền và nghĩa vụ của các bên.
Ngoài ra, đối với các quốc gia theo hệ thống "common low" còn có các án lệ là các quy
tắc xét xử đợc hình thành từ thực tiễn xét xử. Khi lựa chọn luật của các quốc gia này, các chủ
thể cần để ý đến những án lệ này.
+ Luật quốc gia: trong thực tiễn và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tê,
bên cạnh các điều ớc quốc tế, các tập quán thơng mại quốc tế và án lệ, luật quốc gia cũng
đóng một vai trò khá quan trọng và trong nhiều trờng hợp là nguồn luật điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên luật quốc gia chỉ trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế trong các trờng hợp sau:
- Khi các bên ký kết hợp đồng thoả thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp
đồng việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không đợc
quy định trong các điều ớc quốc tế liên quan, luật quốc gia đơng nhiên trở thành luật áp
dụng cho hợp đồng đó.
Nói đến luật quốc gia nh một nguồn luật của thơng mại quốc tế không có nghĩa là tất
cả các luật đều đợc áp dụng mà chỉ có một số luật, văn bản pháp luật có liên quan đến
thơng mại quốc tế đợc áp dụng, bởi vì luật quốc gia không chỉ điều chỉnh các quan hệ
thơng mại quốc tế mà nó còn điều chỉnh rất nhiều mối quan hệ khác.
Luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá thông thờng là luật của nớc
nào có quan hệ gần nhất với hợp đồng, tuy theo cách xác định, nhng phải là luật đặc trng,
thờng là luật của nớc bên bán, luật của nớc nơi hợp đồng đợc ký kết, nhng cũng có thể là
luật của bên mua, có thể là luật của nớc thứ ba, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ của hợp
đồng đợc thực hiện
Trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế điều khoản luật áp
dụng thờng đợc ghi một cách rõ ràng trong hợp đồng để tránh tình trạng khó xác đinh luật
quốc gia điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Việc thoả thuận luật quốc gia áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một vấn đề phức tạp, cho nên các chủ thể ký kết không
những phải thông thạo luật của nớc mình mà còn phải tìm hiểu kỹ luật của nớc khác quan
hệ với hợp đồng để đảm bảo quyền lợi của mình, tránh đợc những thiệt thòi do sự thiếu
hiểu biết pháp luật gây ra.
Tuy nhiên việc áp dụng luật của quốc gia nào để giải quyết tranh chấp trong hợp
đồng đôi khi không chỉ phụ thuộc vào ý chỉ chủ quan của một chủ thể mà thờng bị chi
phối bởi nhiều yếu tố khác nh: tơng quan lực lợn giữa các bên tham gia hợp đồng, do điều
kiện đặc thù khi triển khai hợp đồng đó Trờng hợp phải áp dụng luật của nớc thứ ba, ít
nhất phải hiểu đợc luật của nớc đó có tiện cho ngời mua hay ngời bán, liên quan đến hợp
đồng đã ký kết nh thế nào, những điểm gì kiêng kị cần tránh
Đôi khi các bên thoả thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp đồng đã
đợc ký kết. Trờng hợp này thờng xảy ra khi ký kết hợp đồng, vì một lý do khách quan nào
đó, các bên tiến hành rất nhanh chóng (để chớp thời cơ ) nên cha kịp nêu điều khoản luật
áp dụng trong hợp đồng.
Tại Việt Nam, Luật thơng mại đã đợc Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1998. Đây là nguồn luật
quan trọng để các thơng nhân Việt Nam nắm vững, áp dụng trong đàm phán ký kế hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Luật thơng mại Việt Nam ra đời đã tạo một trờng pháp lý
vô cùng thuận lợi cho các thơng nhân Việt Nam, đó là công cụ pháp lý quan trọng, là chỗ
dựa pháp lý rất tin cậy cho các thơng nhân Việt Nam tiến hành các hoạt động thơng mại
trong kinh doanh quốc tế. Do đó, trong trờng hợp mặc dù hợp đồng thơng mại đã đợc thực
hiện hoặc bị vi phạm, thậm chí bị vô hiệu thì điều khoản về thoả thuận trọng tài của hợp
đồng vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý.
1.2.4.3. Luật tố tụng của trọng tài.
Việc xác định luật áp dụng trong tố tụng trọng tài thơng mại quốc tế bị chi phối bởi
nguyên tắc tự do thoả thuận của các bên và nguyên tắc nơi toạ lạc của trọng tài.
Thứ nhất, tôn trọng nguyên tắc tự do thoả thuận của các bên. Nguyên tắc thoả thuận của
các bên chủ thể trong hợp đồng thơng mại quốc tế không những chi phối việc chọn luật để
điều chỉnh nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn chi phố cả việc
thành lập hoặc chọn trọng tài trong đó bao gồm cả việc đa ra các nguyên tắc xét xử hoặc
chọn luật tố tụng cho quá trình xét xử của trọng tài.
Trên thực tế, khi thoả thuận về trọng tài để xét xử tranh chấp, các bên có thể chỉ định
một hội đồng trọng tài thờng trực (trọng tài thiết chế) hoặc cũng có thể thoả thuận thành
lập trọng tài AD - HOC (trọng tài vụ việc). Trong mỗi trờng hợp chọn hình thức trọng tài
thì việc chọn luật áp dụng cho tố tụng trọng tài cũng khác nhau đó là: Trong trờng hợp các
bên thoả thuận chọn trọng tài thờng trực cụ thể để xét xử tranh chấp của mình thì đã đồng
nghĩa với viẹc các bên thoả thuận chọn luật tố tụng để áp dụng cho trọng tài đó. Bởi vì cơ
quan trọng tài sẽ áp dụng thủ tục tố tụng của mình để tiến hành xét xử . Theo Bản quy tắc
trọng tài UNCITRAL thì các tranh chấp này sẽ đợc giải quyết bằng bản quy tắc đó. Điều
15 của Bản quy tắc này chỉ rõ: "Trọng tài có thể tiến hành thủ tục tố tụng trọng tài theo
cách thức mà trọng tài cho là thích hợp nhng phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên và
đảm bảo cho mỗi bên có đủ cơ hội trình bày vụ việc của mình ở bất cứ giai đoạn nào của
quá trình tố tụng". Tơng tự nh vậy, Điều 8 quy định về hoà giải và trọng tài của Phòng
thơng mại quốc tế (ICC) đã đợc sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực từ ngày 01/01/1988 ghi
nhận: "Khi các bên thoả thuận nhờ đến trọng tài cảu phòng thơng mại quốc tế thì họ qua
đó phục tùng quy đinh này." hoặc Điều 22 quy định này ghi nhận: "Các nguyên tắc áp
dụng trong tố tụng trớc trong tài viên là các nguyên tắc xuất phát từ quy định này và trong
trờng hợp quy định này không đề cấp thì áp dụng các nguyên tắc mà các bên đã xác định
và trong trờng hợp các bên không xác định thì trọng tài viên xác định bằng cách dựa bào
hoặc không dựa vào một luật quốc gia về tố tụng áp dụng cho trọng tài". Trong trờng hợp
các bên thoả thuận thành lập trọng tài AD - HOC thì việc xác định luật áp dụng cho tố
tụng trọng tài sẽ do các bên tự quyết định. Các bên có thể thoả thuận xây dựng nên các
nguyên tắc một cách độc lập và cũng có thể chọn các quy định về tố tụng của một tổ chức
trọngt ài quy định về tố tụng của một tổ chức trọng tài thờng trực nào đó để áp dụng cho
trọng tài mà các bên đã lập ra. Trong trờng hợp các bên lựa chọn các quy định của tổ chức
trọng tài thờng trực nào đó thì các quy định này có thể đợc các bên thoả thuận giữ nguyên
hoặc sửa đổi, bổ sung trớc khi áp dụng cơ chế giám sát thực hiện hoạt động tố tụng của
trọng tài AD - HOC không chặt chẽ bằng trọng tài thờng trực.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc nơi toạ lạc của trọng tài theo học thuyết nơi toạ lạc thì
trọng tài tiến hành xét xử ở đâu thì sẽ áp dụng luật tố tụng trọng tài ở nơi đó. Thuyết này
đợc áp dụng để xác định luật tố tụng cho trọng tài trong trờng hợp nếu các bên không thoả
thuận chọn luật tố tụng việc áp dụng thuyết này để xác định luật áp dụng cho tố tụng trọng
tài quốc tế thờng xảy ra trong trờng hợp các bên thànhlập trọng tài AD - HOC. Thuyết
"nơi toạ lạc của trọng tài" không những đợc áp dụng trên thực tế mà nội dung của thuyết
này còn đợc ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng nh: Công ớc