Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn: Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.19 KB, 99 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………





Luận văn

Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực
tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội















2

LỜI NÓI ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa việc giao lưu buôn bán giữa các quốc gia, mà sau này được
gọi là hoạt động ngoại thương, đã gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
loài người. Hoạt động ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng của một
nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng
nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong
nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. Hơn thế nữa,
thông qua ngoại thương một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng
mình mong muốn mà không cần phải sản xuất mặt hàng đó. Chính vì vậy,
ngoại thương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế của các quốc gia nói riêng và nền kinh tế thế giới
nói chung.
Cùng với quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ
trên khắp thế giới, Việt nam cũng đang trên đà hội nhập kinh tế theo hướng
đa dạng hoá, đa phương hoá theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Hoạt
động ngoại thương của nước ta cũng vì thế mà ngày càng phát triển, đem lại
những lợi ích to lớn cho nền kinh tế nước nhà. Hoạt động buôn bán quốc tế
được tiến hành thông qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng trong ngoại
thương. Khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên đều muốn tốt đẹp nhưng do
những khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp…nên tranh chấp là khó
tránh khỏi. Việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh luôn là vấn
đề được các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu quan tâm.
3
Với mong muốn giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu và bạn
đọc quan tâm có thêm tài liệu tham khảo về các phương pháp giải quyết
tranh chấp trong ngoại thương cả trên lý thuyết và thực tế, tìm hiểu một số
biện pháp nhằm giúp cho việc giải quyết tranh chấp trong ngoại thương đạt
hiệu quả cao để từ đó rút ra kinh nghiệm cho riêng mình, tôi chọn đề tài:
“Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh
chấp tại Công ty dệt may Hà nội” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt

nghiệp đại học của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
- Khoá luận trước tiên nhằm nghiên cứu một cách tương đối bao quát
các tranh chấp trong ngoại thương và các phương pháp giải quyết
tranh chấp.
- Tiếp đó, khoá luận tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp trong
ngoại thương tại một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, cụ
thể là Công ty dệt may Hà nội.
- Sau khi nghiên cứu lý thuyết và tìm hiểu thực tiễn, khoá luận đề
xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
trong ngoại thương nói chung và ở Công ty dệt may Hà nội nói
riêng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là các phương pháp giải quyết
tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn ứng dụng các phương pháp này
tại một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Cụ thể, khoá luận nghiên
cứu cách thức áp dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp trong ngoại
4
thương và việc áp dụng như thế nào để đem lại hiệu quả cao, từ đó rút ra
phương pháp giải quyết phù hợp cho mỗi một tranh chấp thực tế xảy ra.
Phạm vi khoá luận giới hạn chỉ ở việc nghiên cứu và phân tích các
tranh chấp trong ngoại thương phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế của Công ty dệt may Hà nội trong thời gian vừa qua.
4. Bố cục khoá luận
Khoá luận được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương I : Một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp trong ngoại
thương.
Chương II : Thực trạng giải quyết tranh chấp trong ngoại thương tại

Công ty dệt may Hà nội.
Chương III : Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp trong ngoại thương ở Công ty dệt may Hà nội trong thời gian tới.
Mặc dù đã được các thầy cô nhiệt tình hướng dẫn trong quá trình làm
khoá luận, cùng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và kiến thức đã được
học, nhưng do hạn chế về thời gian, tài liệu và kinh nghiệm nên khoá luận
khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp từ các độc giả có quan tâm để giúp cho việc tiếp tục nghiên cứu
sau này được tốt hơn.






5



CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG

I/ TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ

1. Nhận xét chung về tranh chấp và tranh chấp trong ngoại thương

Tranh chấp là những xung đột phát sinh từ những mâu thuẫn xảy ra
trong đời sống xã hội.

Trong cuộc sống hàng ngày tranh chấp thường xuyên xảy ra, từ những
mâu thuẫn nhỏ mà các bên có thể tự giải quyết được với nhau đến những
mâu thuẫn lớn phải nhờ đến sự giải quyết của cơ quan có thẩm quyền. Tranh
chấp có thể nảy sinh từ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực
thương mại nói chung hay lĩnh vực ngoại thương nói riêng là một trong
những lĩnh vực hay xảy ra tranh chấp nhất và việc giải quyết các tranh chấp
này thường là khó khăn, phức tạp hơn so với các lĩnh vực khác.
Tranh chấp trong ngoại thương là mọi tranh chấp, xung đột phát sinh
giữa các bên trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng trong ngoại thương.
Tranh chấp trong ngoại thương trước hết phát sinh trong quá trình đàm
phán, ký kết hợp đồng ngoại thương. Trong quá trình này các tranh chấp
6
phát sinh chủ yếu là do các bên có cách hiểu, cách quan niệm khác nhau về
khía cạnh pháp lý của việc hình thành một hợp đồng. Hợp đồng trong ngoại
thương mang “tính chất quốc tế” nên nó chịu sự điều chỉnh và chi phối của
rất nhiều nguồn luật: điều ước quốc tế, luật quốc gia, tập quán quốc tế, Các
nguồn luật khác nhau thường có các qui định không giống nhau về chủ thể
ký kết hợp đồng, hình thức của hợp đồng, trình tự ký kết hợp đồng, nội dung
hợp đồng,…dẫn đến sự hiểu lầm, bất đồng và tranh chấp, làm phát sinh
những xung đột về mặt pháp lý. Ví dụ, Luật Thương mại Việt nam 1997
Điều 49 qui định hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật
qui định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo qui định đó, trong
khi đó luật của Pháp cho phép ký kết hợp đồng bằng miệng. Hay như về nội
dung của hợp đồng thì Luật Thương mại Việt nam 1997 qui định các điều
khoản về tên hàng, số lượng, qui cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh
toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng là các điều khoản chủ yếu của hợp
đồng mua bán hàng hoá. Theo luật Pháp thì điều khoản chủ yếu chỉ bao gồm
tên hàng, số lượng, qui cách chất lượng, giá cả và phương thức thanh
toán.v.v…
Bên cạnh đó, tranh chấp trong ngoại thương còn phát sinh trong quá

trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng sau khi được ký kết là cơ
sở pháp lý qui định quyền và nghĩa vụ của các bên. Bản chất của hợp đồng
là đem lại lợi ích cho tất cả các chủ thể tham gia. Song quyền lợi của các bên
chỉ được đảm bảo trong chừng mực mà nghĩa vụ của các bên qui định trong
hợp đồng phải được thực hiện đầy đủ và chính xác. Tuy quan hệ hợp đồng là
quan hệ “hai bên cùng có lợi” nhưng do quyền lợi của các bên lại khác nhau
nên việc một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình tất yếu làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia. Khi
quyền lợi của các bên không được đảm bảo thì tranh chấp phát sinh là điều
7
không thể tránh khỏi. Ví dụ, trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương, khi người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng hay người mua vi
phạm nghĩa vụ trả tiền hàng thì đều ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia và
dẫn đến tranh chấp xảy ra. Như vậy, sự khác nhau về quyền lợi của các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh
chấp.
2. Đặc điểm của tranh chấp trong ngoại thương

Vì tranh chấp trong ngoại thương cũng là một tranh chấp nên tranh
chấp trong ngoại thương có những đặc điểm của một tranh chấp thông
thường. Tranh chấp trong ngoại thương cũng có ít nhất là hai bên tranh chấp,
có đối tượng tranh chấp, có nội dung tranh chấp, tranh chấp có thể được giải
quyết giữa các bên với nhau hoặc do một cơ quan có thẩm quyền giải
quyết…
Bên cạnh đó, tranh chấp trong ngoại thương còn mang một số đặc điểm
của hợp đồng mua bán ngoại thương do chúng cùng liên quan và có ảnh
hưởng quan trọng đến hoạt động ngoại thương. Các đặc điểm đó như sau:
Thứ nhất, tranh chấp trong ngoại thương có yếu tố quốc tế. Yếu tố quốc
tế của tranh chấp trong ngoại thương thể hiện ở chỗ các bên tranh chấp có
trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.

Thứ hai, tranh chấp trong ngoại thương mang tính thương mại. Tất cả
các tranh chấp trong ngoại thương đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
đến hoạt động buôn bán, cụ thể là hoạt động buôn bán với nước ngoài.
Thứ ba, cơ quan giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là toà án hay
trọng tài của một nước nào đó được coi là toà án hay trọng tài nước ngoài.
Thứ tư, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là luật
nước ngoài đối với ít nhất là một trong các bên hoặc với tất cả các bên.
8
Thứ năm, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp trong ngoại thương rất
đa dạng và phức tạp: luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán quốc tế và các án
lệ. Các bên có thể thoả thuận lựa chọn nguồn luật thích hợp để áp dụng trong
việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng ngoại thương hoặc thoả thuận sau
khi ký kết hợp đồng. Việc áp dụng nguồn luật nào cũng có thể do pháp luật
qui định.

II/ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG

1. Nhận xét chung

Bất kỳ một hợp đồng nào trong lĩnh vực ngoại thương nếu được các bên
đương sự thực hiện đúng thì không xảy ra tranh chấp và do đó cũng không
cần việc giải quyết tranh chấp. Nhưng trong thực tế sự tranh chấp gần như là
một người bạn đồng hành với hoạt động ngoại thương. Khi tham gia vào hợp
đồng mua bán ngoại thương các bên đều không muốn tranh chấp phát sinh,
nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà tiêu biểu
nhất là sự đối lập quyền lợi giữa các bên, tranh chấp vẫn thường xảy ra. Có
tranh chấp phát sinh cũng có nghĩa là tranh chấp đó phải được giải quyết
thoả đáng. Như vậy, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là khâu
cuối cùng không thể thiếu được của cả một quá trình ký kết và thực hiện hợp
đồng trong ngoại thương.

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong ngoại thương thường được tiến hành theo hai phương pháp và
cũng là hai giai đoạn, đó là khiếu nại và đi kiện.
Khiếu nại là biện pháp thường được sử dụng trước tiên đem lại hiệu quả
cao đồng thời tạo thuận lợi cho các bên trong việc giải quyết tranh chấp. Khi
9
tranh chấp không thể giải quyết được bằng khiếu nại, bên bị vi phạm mới
nên đi kiện. Việc đi kiện có thể đưa ra toà án hoặc trọng tài tuỳ theo qui định
trong hợp đồng, theo luật định hay theo sự thoả thuận của hai bên. Biện pháp
này có hiệu lực thi hành cao hơn nhưng lại tốn kém thời gian, tiền bạc và dễ
làm xấu đi mối quan hệ buôn bán của các bên. Tuy nhiên, nhiều khi để bảo
vệ quyền lợi của mình, việc đi kiện với bên bị vi phạm là cần thiết.

2. Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng khiếu nại và đặc
điểm

2.1. Khái niệm
Khiếu nại là việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên có liên
quan bằng con đường thương lượng và đàm phán trực tiếp giữa hai bên và
nếu thương lượng có kết quả thì tranh chấp được giải quyết tốt đẹp.
Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp
đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, khiếu nại là bắt buộc nếu điều đó
được qui định cụ thể trong hợp đồng hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng.
Khi hợp đồng hoặc luật áp dụng cho hợp đồng không có qui định gì về khiếu
nại thì khiếu nại không phải là bắt buộc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể
bỏ qua bước khiếu nại mà đi kiện ngay.
Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng
đường biển thì điều ước quốc tế và luật liên quan của các nước không qui
định bắt buộc phải khiếu nại rồi mới đi kiện, mà có thể đi kiện ngay ra toà án
hoặc trọng tài thương mại. Tuy vậy, trong thực tế các bên đương sự thường

tiến hành khiếu nại nhau trước, rồi sau đó mới đi kiện nếu như khiếu nại
không được thoả mãn. Sở dĩ trước hết cần phải tiến hành khiếu nại chứ chưa
đi kiện ngay vì các bên đương sự là những người hiểu rõ tranh chấp cho nên
10
dễ dàng nhân nhượng với nhau, rút ngắn được thời gian giải quyết tranh
chấp, không bị đọng vốn và lệ phí giải quyết tranh chấp đỡ tốn kém.
Mặc dù khiếu nại có thể là bắt buộc hoặc không bắt buộc tuỳ theo qui
định trong hợp đồng hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng và khi hợp đồng
hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng không có qui định gì về khiếu nại thì
khiếu nại không phải là bắt buộc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể bỏ qua
bước khiếu nại mà đi kiện ngay, nhưng trước tiên các bên tranh chấp nên
giải quyết tranh chấp phát sinh trong ngoại thương bằng khiếu nại. Luật
pháp nhiều nước qui định khiếu nại là phương thức bắt buộc đầu tiên để giải
quyết tranh chấp. Cụ thể, khoản 1 điều 239 Luật thương mại Việt nam 1997
đã qui định : “Tranh chấp thương mại trước hết phải được giải quyết thông
qua thương lượng giữa các bên”. Khi đó, khiếu nại là cơ sở pháp lý để giải
quyết tranh chấp ở các mức cao hơn là Toà án và Trọng tài.
Khiếu nại là một khâu rất quan trọng trong hoạt động ngoại thương cho
nên người làm công tác xuất nhập khẩu cần nắm vững kiến thức về nghiệp
vụ ngoại thương cũng như kiến thức pháp lý về khiếu nại.
Trong hoạt động thương mại và hàng hải quốc tế, khiếu nại liên quan
đến nhiều bên như người bán, người mua, người chuyên chở, người thuê
chở, người gửi hàng, người nhận hàng, người uỷ thác, người nhận uỷ thác,
người bảo hiểm v.v… Song khiếu nại người bán hàng, người chuyên chở
hàng hoá bằng đường biển, người bảo hiểm hàng hoá là những trường hợp
hay xảy ra nhất.

2.2. Đặc điểm
Để có thể tiến hành giải quyết thành công tranh chấp trong ngoại thương
bằng phương pháp khiếu nại các bên cần tuân thủ chặt chẽ thời hạn khiếu nại

và thủ tục khiếu nại.
11

a) Thời hạn khiếu nại
Thời hạn khiếu nại là một khoảng thời gian nhất định cho phép các bên
tiến hành giải quyết tranh chấp với nhau bằng con đường khiếu nại.
Thời hạn khiếu nại được chia làm hai loại: thời hạn khiếu nại theo luật
định và thời hạn khiếu nại qui ước.
Thời hạn khiếu nại theo luật định là thời hạn khiếu nại được qui định
trong luật mà các bên đương sự phải tuân theo, không được làm khác đi.
Thời hạn khiếu nại được qui định trong điều ước quốc tế về hợp đồng mua
bán ngoại thương là thời hạn khiếu nại luật định. Ví dụ, Điều 49 Công ước
La Hay 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình qui định thời hạn
khiếu nại về phẩm chất hàng hoá là 1 năm kể từ lúc người mua thông báo
cho người bán biết về hàng không phù hợp. Hay như Điều 39 Công ước
Viên của Liên hợp quốc về mua bán quốc tế hàng hoá thời hạn khiếu nại về
hàng không phù hợp là 2 năm kể từ ngày hàng đã thực sự được giao cho
người mua.
Thời hạn khiếu nại qui ước là thời hạn khiếu nại do các bên qui định
trong hợp đồng. Việc qui định thời hạn khiếu nại ngắn hay dài do các bên tự
thoả thuận quyết định. Thông thường, thời hạn khiếu nại qui ước ngắn hơn
thời hạn khiếu nại luật định, thậm chí là rất ngắn. Chẳng hạn, hợp đồng mẫu
của tập đoàn mua bán gỗ thông Bắc Âu qui định thời hạn khiếu nại chỉ là 7
ngày.
Luật Thương mại Việt nam 1997 đề cập đến cả thời hạn khiếu nại luật
định và thời hạn khiếu nại qui ước. Điều 241 khoản 2 Luật Thương mại Việt
nam qui định thời hạn khiếu nại do các bên thoả thuận trong hợp đồng, trong
trường hợp không có thoả thuận thì thời hạn khiếu nại được qui định như
sau:
12

- Ba tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hoá;
- Sáu tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về qui cách, chất
lượng hàng hoá; trong trường hợp hàng hoá có bảo hành thì thời hạn
khiếu nại là ba tháng kể từ ngày hết thời hạn bảo hành;
- Ba tháng kể từ khi bên vi phạm theo hợp đồng đối với khiếu nại về các
hành vi thương mại khác.
Khi qui định thời hạn khiếu nại cần xác định vị trí của mình, có ưu thế
hay không; cần căn cứ vào tính chất, đặc điểm của hàng hoá, căn cứ vào
khoảng cách xa gần giữa người bán và người mua, mức độ hiện đại của
phương tiện giao thông,…để qui định là dài hay ngắn.
Trong trường hợp cả hợp đồng lẫn luật áp dụng cho hợp đồng đều
không qui định gì về thời hạn khiếu nại thì thông thường đó là một khoảng
thời gian hợp lý kể từ ngày bên bị vi phạm biết được hoặc đáng lẽ ra phải
biết được quyền lợi của mình bị vi phạm. Do vậy, trong trường hợp này khi
phát hiện ra quyền lợi của mình bị vi phạm, bên bị vi phạm phải nhanh
chóng lập bộ hồ sơ khiếu nại để gửi đi trong thời gian nhanh nhất và hợp lý.
Các bên tranh chấp cần phải đặc biệt chú ý tới thời hạn khiếu nại. Nếu
bên bị vi phạm bỏ lỡ thời hạn khiếu nại thì sẽ mất quyền khiếu nại và hoặc
mất quyền đi kiện, quyền thắng kiện, còn bên vi phạm có quyền bác khiếu
nại nếu thấy thời hạn khiếu nại đã hết.
Để thấy rõ tác hại của việc bỏ lỡ thời hạn khiếu nại chúng ta xem xét ví
dụ sau:
Một công ty của Việt nam mua bông của một công ty của Xuđăng.
Hợp đồng qui định một số nội dung chính như sau:
- Số lượng: 650 MT bông cấp 4 và 3249 MT bông cấp 6
- Thời hạn giao hàng: tháng 11 và 12 năm 1978
13
- Thời hạn khiếu nại: 30 ngày sau khi dỡ hàng đối với khuyết tật rõ rệt
và 90 ngàyđối với khuyết tật không rõ rệt.
Quá trình thực hiện hợp đồng diễn ra như sau:

+ Ngày 29/01/1979, tàu đến cảng Việt nam.
+ Ngày 05/02/1979, phía Việt nam yêu cầu Vinacontrol giám định hàng.
+ Ngày 24/02/1979, bên Việt nam nhận được biên bản giám định của
Vinacontrol và gửi thư nhắc nhở phía Xuđăng về phẩm chất hàng, đề
nghị tránh lặp lại chuyến sau.
+ Ngày 01/03/1979, bên Việt nam gửi thư cho phía Xuđăng tiếp tục
phàn nàn về phẩm chất hàng.
+ Ngày 12/03/1979, bên Việt nam gửi cho phía Xuđăng biên bản giám
định do Vinacontrol cấp.
+ Ngày 08/05/1979, phía Việt nam khiếu nại đòi giảm giá với số tiền là
732.250 USD.
Kết quả: phía Xuđăng từ chối đơn khiếu nại. Lý do là đối với bông các
khuyết tật về màu sắc, tạp chất, độ ẩm là khuyết tật rõ rệt. Theo như qui định
về thời hạn khiếu nại đối với khuyết tật rõ rệt trong hợp đồng thì trong vòng
30 ngày sau khi dỡ hàng (07/02/1979) người mua phải gửi cho người bán bộ
hồ sơ khiếu nại hợp lệ. Nhưng mãi đến ngày 08/05/1979, khi đã hết thời hạn
khiếu nại, người mua mới gửi đơn khiếu nại. Do đó, yêu sách của người mua
đã bị từ chối. Qua vụ việc trên ta thấy việc tuân thủ thời hạn khiếu nại là vô
cùng quan trọng. Bỏ lỡ thời hạn này, bên Việt nam đã phải gánh chịu thiệt
hại, mặc dù bên nước ngoài vi phạm điều kiện về chất lượng hàng.

b) Thủ tục khiếu nại
Việc giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng phương pháp khiếu
nại muốn đạt được hiệu quả cao thì người khiếu nại cũng phải tuân thủ thủ
14
tục khiếu nại.Thủ tục khiếu nại là bên khiếu nại phải gửi cho bên bị khiếu
nại một bộ hồ sơ khiếu nại đầy đủ và hợp lệ. Bên bị khiếu nại sẽ xem xét,
nghiên cứu rồi trả lời có thoả mãn yêu cầu của bên khiếu nại không.
Bộ hồ sơ khiếu nại mà bên khiếu nại gửi cho bên bị khiếu nại bao gồm:
đơn khiếu nại và các chứng từ kèm theo.

Đơn khiếu nại được lập bởi người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải hợp lệ.
Tính hợp lệ được thể hiện ở những điểm sau:
+ Về hình thức: Đơn khiếu nại phải được làm thành văn bản, ghi rõ tiêu
đề là “Đơn khiếu nại” và nêu rõ tên, địa chỉ đầy đủ của người khiếu nại
và người bị khiếu nại.
+ Về nội dung: Đơn khiếu nại phải nêu rõ nội dung khiếu nại, tức là
người khiếu nại khiếu nại ai (tên, địa chỉ, số tài khoản,…), khiếu nại về
vấn đề gì. Một điều quan trọng là trong đơn người khiếu nại phải nêu ra
yêu sách cụ thể đối với người bị khiếu nại. Ở đây, người khiếu nại tính
toán và phải nêu rõ các chi phí, thiệt hại…cần được bồi thường. Nội
dung này rất cần thiết vì nó là cơ sở để người bị khiếu nại xem xét xem
có nên thoả mãn yêu sách của người khiếu nại hay không, và nó cũng là
cơ sở để người khiếu nại có thể đòi được các chi phí, thiệt hại…mà
mình phải gánh chịu.
Ngoài những yêu cầu như trên, đơn khiếu nại hợp lệ cũng cần phải rõ
ràng, ngắn gọn, lịch sự trong cách sử dụng ngôn ngữ giao tiếp, lời lẽ trong
đơn hợp tình, hợp lý và có sức thuyết phục cao thì việc khiếu nại mới có thể
thành công.
Các chứng từ kèm theo có vai trò rất quan trọng trong quá trình khiếu
nại. Các chứng từ này là toàn bộ các thư từ, điện tín trao đổi giữa các bên từ
khi kí kết, thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương cho đến khi phát sinh
và giải quyết tranh chấp để làm bằng chứng cho việc khiếu nại. Trong mỗi
15
một trường hợp khác nhau, bộ hồ sơ khiếu nại bao gồm các chứng từ khác
nhau, nhưng thông thường bao giờ cũng có:
- Hợp đồng mua bán ngoại thương và các văn bản sửa đổi, bổ xung
hợp đồng.
Chứng từ này là cơ sở để xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên,
do đó cũng là cơ sở để xác định mức độ vi phạm hợp đồng của các bên.
- Thư tín dụng L/C và các văn bản sửa đổi, bổ xung L/C.

Khi hợp đồng qui định thanh toán bằng thư tín dụng thì việc nộp L/C
trong bộ hồ sơ khiếu nại là cần thiết. Nếu người mua là người khiếu nại,
bộ hồ sơ khiếu nại có L/C chứng tỏ người mua đã sẵn sàng thanh toán
mà người bán không thực hiện nghĩa vụ thì lỗi là ở người bán. Còn nếu
người mua mở L/C không phù hợp với hợp đồng thì khi người bán
khiếu nại người bán sẽ nộp L/C trong bộ hồ sơ khiếu nại để chứng minh
việc mở L/C sai với hợp đồng.
- Vận đơn.
Có thể là vận đơn đường biển (Bill of lading), vận đơn đường sắt
(Railway bill), vận đơn hàng không (Airway bill)… tuỳ theo hàng hoá
được chuyên chở bằng phương tiện gì. Vận đơn phản ánh tình trạng bên
ngoài của hàng hoá khi được giao cho người chuyên chở và số, trọng
lượng hàng được giao, ngày giao hàng Trên vận đơn có ghi chi tiết về
việc giao hàng là cơ sở để so sánh và xác nhận thực tế giao hàng so với
hợp đồng. Các bên có thể dùng vận đơn để làm căn cứ khiếu nại những
người có liên quan nếu tranh chấp có liên quan đến việc giao hàng.
- Biên bản giám định phẩm chất và số, trọng lượng.
Biên bản giám định là văn bản, chứng từ do người mua lập ra ở bến
đến. Biên bản giám định phẩm chất và số, trọng lượng có ghi những kết
luận của cơ quan giám định có thẩm quyền về chất lượng, số, trọng
16
lượng hàng hoá thực tế đã giao. Trong trường hợp kết quả giám định
không phù hợp với hợp đồng thì người mua có quyền dựa vào đó để
khiếu nại người bán về việc giao hàng không phù hợp về chất lượng, số,
trọng lượng. Tuy nhiên, các bên cần chú ý đến giá trị pháp lý của biên
bản giám định. Về tính chất pháp lý có 2 loại biên bản giám định: biên
bản giám định có tính quyết định và biên bản giám định không có tính
quyết định. Chỉ có biên bản giám định có tính quyết định mới có thể
ràng buộc các bên một cách chặt chẽ. Các biên bản giám định khác rất
dễ bị phía bên kia bác bỏ.

Ngoài ra, trong bộ hồ sơ khiếu nại còn có thể bao gồm các thư từ giao
dịch qua lại giữa các bên mua và bán.
Tuy nhiên, các tranh chấp trong ngoại thương thường rất phức tạp và đa
dạng, do đó tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các bên lựa có thể thêm hay bớt
các chứng từ để lập bộ hồ sơ khiếu nại phù hợp.

2.3. Ưu điểm và của giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại
Giải quyết tranh chấp bằng con đường khiếu nại thường đem lại hiệu
quả rất cao và có nhiều ưu điểm vì những lý do sau:
- Phương pháp này thể hiện thái độ tôn trọng của bên bị vi phạm đối
với bên vi phạm nên bên vi phạm cũng sẽ phải suy nghĩ và cố gắng
giải quyết tranh chấp một cách hợp tình hợp lý nhất.
- Hai bên hiểu rõ nội dung sự việc, nội dung tranh chấp nên dễ có thể
đạt được sự thống nhất nếu như cả hai bên đều thiện chí.
- Vì giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại thì chỉ có các bên tranh chấp
với nhau nên những thông tin cần thiết và bí mật không bị lộ ra bên
ngoài và giữ được uy tín của các bên trong hoạt động kinh doanh lâu
dài.
17
- Tiết kiệm được thời gian và chi phí. Khiếu nại giữa hai bên không
bắt buộc phải tuân theo thủ tục tố tụng nào nên tranh chấp có thể
được giải quyết nhanh chóng. Hơn nữa, không phải trả tiền công cho
hoà giải viên, không mất phí trọng tài, án phí cho nên chi phí bỏ ra là
ít nhất.
- Sau khi tranh chấp được giải quyết ổn thoả bằng khiếu nại, các bên
thường vẫn giữ được mối quan hệ buôn bán với nhau còn nếu như đã
đi kiện ra toà án hoặc trọng tài thì mối quan hệ này thường là chấm
dứt, các bên mất hẳn một đối tác làm ăn.
Nhìn chung, phương pháp giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại là
phương pháp tối ưu thường được áp dụng. Tuy nhiên, dù bên vi phạm chấp

nhận khiếu nại và chấp nhận nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại cho bên bị vi
phạm thì việc thực hiện nghĩa vụ của bên vi phạm là hoàn toàn trên cơ sở tự
nguyện không mang tính cưỡng chế, bên bị vi phạm không thể ép buộc
được. Nếu bên vi phạm không thực hiện thì khiếu nại là không thành công.
Hơn nữa, trong thực tế buôn bán quốc tế không phải lúc nào các bên cũng
sẵn sàng nhân nhượng với nhau để giải quyết tranh chấp bằng con đường
khiếu nại vì bản chất của tranh chấp là sự vi phạm quyền lợi của nhau. Do
vậy, để giải quyết tranh chấp các bên có khi phải tiến hành việc tố tụng. Đối
với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương các bên có
thể đi kiện ra toà án hoặc trọng tài. Vì vậy, chúng ta sẽ tiếp tục tiến hành
nghiên cứu các phương pháp giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là
việc đi kiện ra toà án hoặc trọng tài.

3. Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng Toà án và đặc
điểm

18
3.1. Khái niệm
Giải quyết tranh chấp bằng toà án là việc giải quyết tranh chấp phát sinh
giữa các bên bởi một cơ quan tư pháp gọi là toà án.
Toà án là cơ quan tư pháp của một nước được thành lập ra để xét xử các
tranh chấp giữa các công dân, pháp nhân của nước đó. Song toà án cũng có
thể xét xử tranh chấp phát sinh trong ngoại thương. Ở các nước tư bản chủ
nghĩa, toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong ngoại
thương thường được gọi là toà án thương mại, còn ở các nước xã hội chủ
nghĩa trong đó có Việt nam, toà án kinh tế (nằm trong hệ thống Toà án nhân
dân tối cao) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong ngoại
thương.
Toà án kinh tế Việt nam được thành lập ngày 1/7/1994 sau khi kì họp
thứ tư Quốc hội khoá IX thông qua Luật sửa đổi bổ xung Luật tổ chức Toà

án nhân dân với phần sửa đổi chủ yếu là các điều kiện có liên quan đến việc
thành lập Toà án kinh tế, tổ chức và thẩm quyền của Toà án kinh tế nhân dân
trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Toà án kinh tế được tổ chức thành
các toà chuyên trách nằm trong hệ thống Toà án nhân dân cấp tỉnh trở lên.
Doanh nghiệp Việt nam có thể thoả thuận với bên nước ngoài đưa tranh
chấp ra xét xử tại Toà án kinh tế Việt nam.

3.2. Đặc điểm

a) Thẩm quyền xét xử
Toà án của bất kì nước nào cũng không có thẩm quyền đương nhiên đối
với các tranh chấp phát sinh trong ngoại thương. Toà án chỉ có thẩm quyền
xét xử khi các bên đương sự thoả thuận thống nhất giao tranh chấp cho xét
xử. Các bên đương sự chỉ được thoả thuận giao tranh chấp cho toà án xét xử
19
bằng một điều khoản của hợp đồng (hoặc bằng một văn bản riêng) khi trong
điều ước quốc tế có liên quan không qui định giao tranh chấp cho trọng tài
giải quyết. Mặt khác, thẩm quyền xét xử của toà án đối với các tranh chấp
trong ngoại thương cũng có thể được qui định trong điều ước quốc tế. Do
vậy, muốn biết kiện tới toà án của nước nào phải căn cứ vào hợp đồng, văn
bản thoả thuận giữa hai bên, vào điều ước quốc tế đang có hiệu lực trong
quan hệ giữa hai nước tương ứng.
Khi toà án nhận được đơn kiện thì cần phải dựa trên đơn kiện xem xét
mình có thẩm quyền xét xử không. Trong các tranh chấp thương mại thuộc
thẩm quyền xét xử của toà kinh tế, chỉ có toà án cấp tỉnh hoặc thành phố
trực thuộc trung ương mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp có nhân tố
nước ngoài, nhưng phải ở nơi bị đơn cư trú hoặc nơi có bất động sản (nếu là
tranh chấp bất động sản) hoặc nơi bị đơn có tài sản hoặc đóng trụ sở chính.
Ở Việt nam, theo Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
(16/3/1994), toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau đây:

- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động,
giải thể công ty;
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
- Các tranh chấp kinh tế khác theo qui định của pháp luật.
Luật Thương mại Việt nam qui định ở Điều 240 rằng: “Đối với các
tranh chấp thương mại với thương nhân nước ngoài, nếu các bên không thoả
thuận hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam ký kết
hoặc tham gia không có qui định thì tranh chấp được giải quyết tại Toà án
Việt nam”.
20
Như vậy, toà án Việt nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong ngoại thương khi điều này được qui định trong hợp đồng, trong
văn bản thoả thuận giữa các bên hoặc trong pháp luật có liên quan.

b) Hồ sơ kiện ra toà án
Toà án của bất kỳ nước nào cũng chỉ tuân thủ luật tố tụng của nước
mình, nghĩa là nhận đơn kiện, chuẩn bị xét xử, tiến hành xét xử theo đúng
luật tố tụng của nước toà án. Còn khi giải quyết tranh chấp toà án phải áp
dụng luật thực chất điều chỉnh hợp đồng.
Toà án Việt nam không phải là trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn, bên Việt
nam và bên Nhật bản ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương có điều khoản
về luật điều chỉnh là luật Nhật bản. Khi tranh chấp phát sinh, hai bên thống
nhất đưa tranh chấp ra xét xử tại Toà án Việt nam thì Toà án Việt nam sẽ
tuân thủ luật tố tụng của Việt nam trong việc nhận đơn kiện, chuẩn bị xét xử,
tiến hành xét xử và Toà án Việt nam sẽ tuân thủ luật Nhật bản để thực hiện
việc xét xử, bởi vì ở đây luật Nhật bản là thực chất điều chỉnh HĐMBNT ký
kết giữa bên Việt nam và bên Nhật bản.

Hồ sơ kiện tới toà án gồm đơn kiện và các chứng từ làm bằng chứng.
Đơn kiện phải được làm bằng văn bản. Nội dung của đơn kiện thường
theo đúng qui định của luật tố tụng nước toà án. Nhìn chung, đơn kiện phải
bao gồm: tên, địa chỉ của toà án, tên, địa chỉ đầy đủ của bên đi kiện và bên bị
kiện, trình bày nội dung kiện, căn cứ pháp lý của vụ kiện, trị giá vụ kiện và
yêu cầu của bên đi kiện đề nghị giải quyết.
Chẳng hạn, đơn yêu cầu Toà án Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương
mại Quốc tế gồm các chi tiết:
+ Họ tên đầy đủ, địa chỉ, nghề nghiệp của bên nguyên và bên bị. Nội
dung tranh chấp.
21
+ Hợp đồng và các văn bản thoả thuận giữa hai bên, đặc biệt là thoả
thuận về trọng tài, các tài liệu xác lập rõ ràng, chi tiết vụ tranh chấp.
+ Tài liệu liên quan đến số lượng trọng tài viên và lựa chọn trọng tài
viên.
Đơn kiện ra toà án theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
ngày 16/3/1994 (khoản 2 điều 31) phải có các nội dung sau đây:
+ Ngày, tháng, năm viết đơn;
+ Toà án được yêu cầu giải quyết vu án;
+ Tên của nguyên đơn, bị đơn;
+ Địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn; trong trường hợp không có địa chỉ
của bị đơn thì ghi địa chỉ nơi có trụ sở hoặc cư trú cuối cùng của bị đơn;
+ Tóm tắt nội dung tranh chấp, giá trị tranh chấp;
+ Quá trình thương lượng của các bên;
+ Các yêu cầu đề nghị toà án xem xét, giải quyết.
Ngoài đơn kiện, bộ hồ sơ kiện tới toà án còn có các chứng từ làm bằng
bị đơn chứng. Các chứng từ làm bằng chứng kèm theo đơn kiện bao gồm
toàn bộ các chứng từ có trong bộ hồ sơ khiếu nại, ngoài ra còn có thêm thư
từ, điện tín trao đổi giữa hai bên trong quá trình giải quyết khiếu nại giữa các
bên nhưng không đạt kết quả, các bằng chứng mới mà lúc khiếu nại chưa

tìm ra… Khi thiếu các chứng từ làm bằng chứng thì bộ hồ sơ kiện vẫn có thể
hợp lệ (toà án vẫn thụ lý) nếu đơn kiện hợp lệ nhưng đơn kiện sẽ bị bác toàn
bộ hoặc một phần do thiếu các chứng từ làm bằng chứng. Do vậy, việc
chuẩn bị và nộp đầy đủ các chứng từ làm bằng chứng đi kèm theo đơn kiện
khi đi kiện là một nhân tố quan trọng giúp cho việc đi kiện thành công.
Pháp luật qui định người đi kiện có quyền bổ sung các bằng chứng và
người bị kiện cũng có quyền cung cấp các bằng chứng bổ sung để bác lại.
Toà án không có nghĩa vụ phải thông báo cho các bên nếu thiếu chứng từ.
22
Ngoài ra, toà án có quyền điều tra, xác minh các chứng từ trong quá trình xét
xử.
Muốn được thụ lý đơn kiện để đưa ra xét xử, nguyên đơn phải nộp một
số tiền nhất định gọi là chi phí hành chính. Chẳng hạn, Toà án trọng tài quốc
tế của Phòng thương mại quốc tế khi nhận hồ sơ kiện thu 2000 USD trả
trước chi phí hành chính.
c) Thời hiệu khởi kiện
Người đi kiện phải tuân thủ đúng thời hiệu khởi kiện. Thời hiệu khởi
kiện (hay còn gọi là thời hiệu tố tụng) là khoảng thời gian do pháp luật qui
định cho bên có quyền lợi bị vi phạm đi kiện ra toà án, nếu bỏ qua thời hiệu
khởi kiện mới đi kiện thì đơn kiện sẽ bị bác.
Thời hiệu khởi kiện được qui định trong điều ước quốc tế. Chẳng hạn,
theo Điều 20 Công ước Hamburg 1978, thời hiệu khởi kiện người chuyên
chở là 2 năm kể từ ngày đã giao toàn bộ hàng cho người nhận hàng.
Thời hiệu khởi kiện cũng được qui định trong luật quốc gia của các
nước. Ví dụ, Luật hàng hải Việt nam 1990 qui định thời hiệu khởi kiện đối
với Công ty bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm hàng hoá là 2 năm kể từ ngày
phát sinh vụ việc (Điều 209), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994 qui định thời hiệu khởi kiện là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh
chấp, trừ trường hợp có qui định khác (Điều 31).
Như vậy, nếu hợp đồng không do điều ước quốc tế điều chỉnh thì bên đi

kiện phải tuân thủ đúng thời hiệu khởi kiện được qui định trong luật của
nước đó.
d) Nguyên tắc xét xử
Toà án xét xử theo những nguyên tắc sau:
 Toà án chỉ tuân theo pháp luật và sẽ không bị ảnh hưởng cũng như không
có sự can thiệp của bất cứ cơ quan nào.
23
 Toà án xét xử công khai, trừ khi vì những bí mật của quốc gia hay an
ninh của đất nước mà phải xét xử bí mật.
 Toà án luôn giữ vững quan điểm, đường lối của giai cấp thống trị.
Trên cơ sở những nguyên tắc xét xử chung của toà án, Toà án Việt nam
cũng có những nguyên tắc xét xử của riêng mình:
Nguyên tắc tự định đoạt : Các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh
tế ngoại thương chỉ có thể đưa ra giải quyết tại toà án khi có yêu cầu của các
bên đương sự. Các bên đương sự có quyền quyết định có đưa vụ việc ra toà
án để giải quyết hay không sau khi các bên không thể hoà giải, thương lượng
với nhau được hoặc các bên không thoả thuận trước sẽ giải quyết theo thủ
tục trọng tài. Nguyên tắc tự định đoạt này còn được thể hiện ở việc khi đã
lựa chọn toà án là nơi giải quyết tranh chấp thì các bên vẫn có quyền rút đơn
kiện hoặc thay đổi nội dung đơn kiện. Sau khi đã nộp đơn mà các bên có thể
tự hoà giải thì cũng được toà án công nhận. Ngoài ra, các bên tranh chấp có
quyền tự định đoạt về hình thức tài phán để giải quyết tranh chấp của mình.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật : trong quá trình giải quyết
tranh chấp các bên đương sự có quyền và nghĩa vụ như nhau trước toà án
không phân biệt đương sự có quốc tịch nước ngoài hay quốc tịch Việt nam.
Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ được bảo vệ chính đáng. Bên vi
phạm nghĩa vụ sẽ bị áp dụng các biện pháp chế tài phù hợp. Khi tham gia
quan hệ tố tụng trước toà án để giải quyết tranh chấp quyền và nghĩa vụ của
các bên là bình đẳng.
Nguyên tắc tự hoà giải : nội dung của nguyên tắc này là trước khi đưa

tranh chấp ra toà án xét xử các bên phải hoà giải, thương lượng với nhau để
giải quyết tranh chấp theo nguyện vọng chính đáng của các bên. Khi đã đưa
tranh chấp ra toà án các bên vẫn phải hoà giải, thương lượng dưới sự công
24
nhận, hướng dẫn của toà án. Biên bản hoà giải thành công có giá trị pháp lý
như biên bản xét xử của toà và buộc các bên phải thực hiện.
Nguyên tắc toà án không tiến hành điều tra mà chỉ thu thập và xác
minh chứng cứ : toà án ra phán quyết trên cơ sở các chứng cứ mà các bên
đương sự đưa ra. Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ này để
chứng minh và bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án không tiến hành điều tra
để xác minh các tình tiết, sự thật của vụ tranh chấp mà chỉ thông qua các
biện pháp nghiệp vụ như nghe các bên trình bày, xem xét các chứng cứ, tiến
hành tranh luận…để đánh giá, kết luận và đưa ra phán quyết.
Nguyên tắc xét xử công khai : mọi tranh chấp được xét xử công khai ,
trừ khi luật pháp cho phép, toà án sẽ xét xử kín. Toà án có thể được xét xử
kín đối với các vụ tranh chấp liên quan đến bí mật của các quốc gia hay bí
mật của các bên đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Bí mật của các
quốc gia có thể là các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, liên quan đến
việc duy trì nền kinh tế, hay chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia.
Bí mật của các bên đương sự có thể là sự sống còn của các bên, là vấn đề
liên quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuấtkinh doanh, uy tín của các bên…
Nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật : theo nguyên tắc này, toà án chỉ
tuân theo pháp luật khi xét xử các tranh chấp và không bị ảnh hưởng bởi sự
chi phối của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khác. Việc ra phán quyết phải
hoàn toàn dựa vào tình tiết khách quan cụ thể và luật áp dụng. Toà án độc
lập trong việc ra phán quyết và chịu trách nhiệm đối với các phán quyết đó.

3.3. Nhược điểm của xét xử bằng toà án
So với biện pháp giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại thì giải quyết
tranh chấp bằng toà án có tính bắt buộc thi hành cao hơn nhưng biện pháp

này còn nhiều nhược điểm như sau:
25
- Các toà án luôn tìm cách bảo vệ công dân của nước mình, do vậy
việc xét xử của toà án bị yếu tố chính trị ảnh hưởng.
- Thủ tục xét xử của toà án tương đối phức tạp, rườm rà. Ví dụ, ở Việt
nam khi xét xử, toà án phải lập hội đồng xét xử bao gồm hai thẩm
phán, một hội thẩm, một chánh án, một thư ký và đại diện cho viện
kiểm sát, một phiên dịch…
- Nguyên tắc xét xử công khai của toà án làm cho việc xét xử bằng toà
án không mấy hấp dẫn các nhà kinh doanh ngoại thương vì họ luôn
muốn giữ bí mật hoạt động kinh doanh của mình.
- Việc xét xử bằng toà án là theo hai cấp, nếu không thoả mãn xét xử
sơ thẩm (của toà cấp tỉnh) thì được kháng cáo lên toà án nhân dân tối
cao nên thường tốn kém thời gian và chi phí. Hơn thế, nhiều khi các
bên phải sử dụng toà án nước ngoài thì lại phải nghiên cứu thẩm
quyền xét xử của toà án theo luật nước toà án.
- Các nguyên tắc xét xử của toà án còn cứng nhắc, không linh động
như nguyên tắc việc xét xử tranh chấp chỉ tuân theo pháp luật hay
nguyên tắc toà án không tiến hành điều tra mà chỉ thu thập và xác
minh chứng cứ của toà án Việt nam.
- Sự hiểu biết chuyên sâu về thương mại quốc tế của toà án thường bị
hạn chế, do đó việc đưa tranh chấp ra xét xử tại toà án là không phải
là phương pháp ưu việt.

4. Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng Trọng tài và đặc
điểm

4.1. Khái niệm

×