Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TÌNH HÌNH NUÔI DẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIÊP HOÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.78 KB, 39 trang )

Bộ Giáo Dục Đào Tạo
Trường ĐH Quang Trung
BÀI TIỂU LUẬN
TÌNH HÌNH NUÔI DẾ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIÊP HOÀ
Lớp : k2 405
Ngành : kinh tế nông nghiệp
Khoa : kỹ thuật công nghệ
Nhóm sinh viên : Võ Anh Mạnh Quân
Trần thị kiều Trinh
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nhiều nước, nhất là các nước ở châu Á coi một số loại côn trùng là món
ăn ngon. Ở nước ta các loại côn trùng như cào cào, châu chấu, dế, tằm,
sâu chit, nhộng tằm, rươi. là những loại côn trùng được dùng làm món
ăn, một số nơi được coi là món ăn quý. Với loài dế cũng có nhiều giống
như: dế ché, dế cơm to con, thân màu nâu đen, hai chân sau to có màu
nâu sẩm.
Dế cơm có cùng kích cỡ như dế ché, cánh màu đen đậm, chân nâu nhạt,
đây là hai giống to con và lịch lỡm nhất trong họ nhà dế.
Ngoài ra còn có các loại dế nhỏ con hơn như dế mọi, dế ta, dế nhủi, dế
mèn - cái tên quen thuộc trong tiểu thuyết "Dế mèn phiêu lưu ký" của
nhà văn Tô Hoài, nhỏ con nhất và thường sống dưới lớp vỏ cây là dế
dủi, không cánh.
1.2. Mục đính nghiên cứu
- Dế là một loại côn trùng mà ta có thể nuôi và chế biến ra nhiều món
ăn khác nhau ở một số nước như Ấn Độ , Đài Loan, Trung Quốc, thái
Lan. Dế còn được coi là món ăn ngon, ở nhiêu nơi dế còn được coi đó
như là một đăc sản. Những năm gần đây phong trào ăn dế và nuôi dế ở
một số nước ngày càng phổ biến, thì ở VN ta một vài năm trở về đây


cũng vậy nhất là ở trong TPHCM dế là một món ngon luôn có ở trên
bàn nhậu, nhờ đó mà phong trào nuôi dế bắt đầu hình thành và đã có
người giàu lên nhờ nuôi dế.
- Vậy để đáp ứng nhu cầu một số nhà hàng và một số hộ chăn nuôi.
Chúng tôi nghiên cứu vấn đề này để giúp các hộ nuôi dế, Trang trại dế
đả cung cấp dế giông cho các hộ chăn nuôi và hướng dẫn kỹ thuật một
cách nhiệt tình giúp người nuôi đạt hiệu quả tốt nhất.
1.3. Nhiệm vụ
- Tìm ra đươc kĩ thuật nuôi phù hợp với từng vùng, từng miền.
- Xác định được thời điêm nuôi, thời gian sinh trưỡng, và các kĩ thuật
chăm sóc từng thời kì.
1.4. phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.5. cấu trúc của khoá luận
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN
Hiệp Hòa là một huyện trung du, nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Bắc
Giang, cách thành phố Bắc Giang 30 km. Phía Bắc giáp huyện Tân
Yên. Phía Nam giáp huyện Yên Phong (Bắc Ninh). Phía Đông giáp
huyện Việt Yên. Phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên. Tổng diện tích tự
nhiên của huyện là 20.110 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 67%; đất
lâm nghiệp chiếm 0,9%. Đây là một vùng có đất đai đa dạng, thích nghi
với nhiều loại cây trồng về lương thực, thực phẩm, công nghiệp. Trên
địa bàn huyện có con sông Cầu chảy qua, không chỉ cung cấp nguồn
nước tưới mà còn chứa trữ lượng tài nguyên cát, sỏi khá lớn. Các xã
ven sông Cầu có nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa nổi tiếng, điển hình là
làng nghề ươm tơ truyền thống tại xã Mai Đình. Gần đây còn nổi lên
phong trào nuôi dế xoá đối giảm nghèo và làm giàu… Về giao thông
đường bộ còn có tuyến Quốc lộ 37 chạy qua dài 14km, nối huyện Hiệp
Hòa với tỉnh Thái Nguyên. Về nguồn nhân lực, dân số toàn huyện có
khoảng 21 vạn người. Trong đó, độ tuổi lao động chiếm khoảng 45%,

chủ yếu là lao động nông nghiệp. Về tiềm năng du lịch, huyện Hiệp
Hòa có điểm du lịch văn hóa An toàn khu 2 tại núi Y Sơn (thuộc xã
Hòa Sơn), thu hút nhiều khách du lịch tới thăm quan.
Nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm
gần đây Hiệp Hòa đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
sản xuất hàng hóa. Trong đó, phát huy lợi thế vùng đẩy mạnh sản xuất
lương thực, rau màu, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản;
xây dựng các cụm công nghiệp tại thị trấn Thắng và các xã nhằm thu
hút đầu tư; chú trọng qui hoạch, đầu tư nâng cấp hệ thống chợ nông
thôn tạo điều kiện đẩy mạnh giao lưu hàng hóa, phát triển thương mại –
dịch vụ.
Theo hướng đó, huyện đã ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thôn; củng cố đội ngũ cán bộ theo hướng chuẩn hoá, nâng cao năng lực
công tác, chất lượng quản lý, chỉ đạo điều hành từ huyện đến cơ sở.
Trong phát triển kinh tế, đảng bộ, chính quyền huyện tập trung chỉ đạo
chuyển dịch cơ cấu theo hướng thâm canh, khuyến khích nông dân áp
dụng khoa học kỹ thuật, từng bước làm thay đổi nhận thức, tập quán sản
xuất, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Không cổ
động làm kinh tế theo phong trào, huyện chủ trương căn cứ vào đặc
điểm địa thế, đất đai, dân cư để gợi mở người dân chủ động lựa chọn
những cách làm phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Tại xã Danh Thắng,
giữa không gian xanh yên bình của những cánh đồng lúa và lạc bạt
ngàn, đã xuất hiện những dãy phố làng, không thiếu những ngôi nhà
xây kiên cố, kiến trúc hiện đại trị giá bạc tỷ. Phó Chủ tịch UBND xã Tạ
Xuân Kiệm dẫn chúng tôi thăm cơ sở nuôi dế của anh Nguyễn Văn
Phương tại thôn Trung Phú - chủ nhân của một trong những ngôi nhà
như thế. Làm nghề nuôi dế trước đây anh chủ yếu dùng phương pháp
thủ công. Sau này, khi ăn nên làm ra, vốn liếng kha khá, anh tính
chuyện làm ăn lớn bằng cách đầu tư xây dựng cơ sở lơn mạnh, mở rộng
quy mô sản xuất. Mỗi năm tháng anh xuất trại hàng chục kg dế thịt

Cùng với anh Phương, xã Danh Thắng còn có gần chục hộ nuôi dế
chuyên cung cấp con giống cho người chăn nuôi dế thịt ở huyện Yên
Thế và một số nơi như Hải Dương, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên.
Cũng từ đây, hàng trăm hộ dân trong xã đã có thêm nghề nuôi dế cung
cấp cho các trang trại và các nhà hàng, nhiều hộ nuôi đến hàng nghìn
thùng. Để có thêm thu nhập trang trải cuộc sống, nuôi con ăn học và có
vốn liếng "lấy ngắn nuôi dài", người dân xã Danh Thắng cũng đổ đi các
nơi kiếm kế sinh nhai. Các thôn như Trung Phú, Đại Đồng có tới 70%
số hộ có người đi làm ăn ở Hà Nội, Quảng Ninh... Nhưng điều đáng ghi
nhận là không những nông dân không bỏ ruộng mà đồng đất ở đây vẫn
quay vòng đủ ba vụ mỗi năm. Từ nguồn vốn hỗ trợ và huy động trong
nhân dân, Danh Thắng đã có 70% đường và hơn 50% kênh mương
được cứng hoá. Ba trường học và trạm y tế xã đều đạt chuẩn quốc gia.
Hơn một nửa số hộ trong xã có kinh tế khá trở lên.
Ảnh: Đường thôn An Hòa - Xã Đoan Bái.
Còn ở xã Đoan Bái, ông Đặng Văn Thiện, Chủ tịch UBND xã cho biết:
"Từ nhiều năm nay, Đoan Bái có duyên với các dự án khoa học nông
nghiệp của một số bộ, ngành. Vì thế cán bộ và nhân dân có điều kiện
thuận lợi để tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa các
giống cây, con có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao vào sản
xuất." Nông dân ở đây vốn có truyền thống trồng các giống đậu tương
cao sản, nay thêm cây dưa bao tử, ớt, cà chua xuất khẩu, liên kết với
Viện Ngô Trung ương trồng ngô giống, chăn nuôi lợn siêu nạc; đưa cây
bưởi Diễn trồng thành trang trại, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý
tàn dư thực vật trên đồng ruộng thành phân bón hữu cơ, giảm thiểu ô
nhiễm môi trường. Trong xã đã xuất hiện nhiều mô hình mới như nuôi
dế, nuôi hươu lấy nhung, mở ra triển vọng đa dạng hoá sản phẩm chăn
nuôi.
Các biện pháp chỉ đạo sát thực tế của cấp uỷ, chính quyền các cấp cùng
với đức cần kiệm, năng động, sáng tạo của người dân đã cho ra đời

nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao như: luân
canh lạc xuân - lúa mùa - khoai tây Đức ở các xã Danh Thắng, Đoan
Bái, Hùng Sơn; nuôi cá bán thâm canh cho năng suất tăng gấp đôi so
với phương pháp truyền thống (4 tấn lên 8 tấn) tại Đông Lỗ, Mai Đình,
Xuân Cẩm, Hợp Thịnh; lúa - cá - cần ở Hoàng Lương; nhãn - bưởi Diễn
- keo ở Lương Phong, Ngọc Sơn, Đức Thắng. Bên cạnh đó còn xuất
hiện mô hình phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ như làng nghề ở
Mai Trung... Thu nhập của người dân nông thôn Hiệp Hoà đến từ nhiều
nguồn: sản xuất nông nghiệp, làm dịch vụ, xuất khẩu lao động, làm
thuê... Những nguồn thu đó đều nhằm mục đích đóng góp xây dựng cơ
sở vật chất, mở mang sản xuất, dịch vụ, cải thiện đời sống làm cho bộ
mặt nông thôn thay đổi. Chạy dọc sông Cầu giờ đây là những làng quê
trù phú của các xã Châu Minh, Mai Đình, Xuân Cẩm, Hợp Thịnh... Chỉ
đạo phát triển sản xuất, huyện hướng các xã tập trung đầu tư theo
khoảnh, theo vùng, khuyến khích chăn nuôi theo quy mô trang trại, gia
trại để thuận lợi cho việc thâm canh, phòng chống dịch bệnh và tiêu thụ
sản phẩm. Theo đó, các trang trại ngày càng phát triển cả về số lượng,
quy mô và chất lượng. Đến thời điểm này, toàn huyện có gần 500 trang
trại và gia trại, tăng 145% so với 5 năm trước. Tổng doanh thu của các
trang trại khoảng 100 tỷ đồng/năm. Kinh tế trang trại góp phần quan
trọng thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn
huyện. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 1.000 ha với sản lượng hàng năm
đạt 2.460 tấn. Tổng diện tích cây ăn quả toàn huyện khoảng 2.000 ha,
sản lượng 10 nghìn tấn, gấp gần 3 lần so với 5 năm trước (trong đó diện
tích cây ăn quả chủ lực như nhãn, bưởi Diễn tăng nhanh). Thu nhập
bình quân trên một ha đất canh tác đến nay đạt 53 triệu đồng/năm (tăng
23 triệu đồng/ha/năm so với mục tiêu đại hội đảng bộ huyện nhiệm kỳ
2005-2010 đề ra). Tuy nguồn kinh phí hỗ trợ không nhiều (khoảng 5-6
tỷ đồng/năm) nhưng nhờ lựa chọn đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, kế
hoạch hợp lý, đến nay đã có 100% các tuyến đường huyện và liên xã,

554 km đường nông thôn được cứng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho
giao thông, vận tải hàng hoá, thúc đẩy KT-XH phát triển. Thu nhập
bình quân đầu người toàn huyện đạt gần 10 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ
nghèo giảm còn 7%.
đây là hình ảnh mô hình nuôi dế rất phổ biến hiện nay
- Dế là loài đa thực, thức ăn gồm nhiều loại như rau, củ, mầm non cây
cỏ, cây hoa màu... Nhà đầu tư có thể tận dụng nguồn rau củ, quả có sẵn
trong tự nhiên để tiết kiệm chi phí, nhưng phải chọn cây tươi, không bị
hư, úng. Mỗi tháng, 1 kg dế thịt (khoảng 1.000 con) ăn hết 3 kg cám, 6
kg cỏ, cà rốt, rau. Mỗi ngày, dế ăn 3 bữa: sáng, trưa và chiều.
Dế sinh sản mạnh ở vùng đất khô ráo, ấm, nơi có nhiều cây cối phát
triển. Chúng lớn lên bằng cách lột xác nhiều lần. Trứng dế thường được
đẻ thành từng ổ trong môi trường đất ẩm. Mỗi ổ có từ vài chục đến
hàng trăm trứng. Trứng hình hạt gạo hơi dài và có màu vàng pha nâu,
kích thước khoảng 2,5-3 mm x 0,8-1mm. Mỗi con dế cái đẻ trung bình
300 - 500 trứng và có thể đẻ liên tục trong 7-10 ngày. Sau khi đẻ từ 10-
15 ngày, dế mẹ chết và 7-10 ngày sau trứng sẽ nở. Sau 2 lần lột xác, dế
non xuất hiện mầm cánh. Quá trình trưởng thành là từ 1,5-2 tháng. Và
đây là giai đoạn bắt đầu thu hoạch, lấy thịt.
Thu hoạch dế cũng là khâu quan trọng vì phải giữ cho thịt dế không bị
mất chất lượng. Một mẹo nhỏ là có thể đựng dế trong bịch ni lông nhỏ
rồi bỏ vào thùng giấy, bên trong đặt một ít cỏ tươi, vài cái rế. Cách này
chỉ bảo đảm được chất lượng thịt dế trong điều kiện di chuyển xa
khoảng 100 km, đến nơi thì chế biến ngay. Nếu nuôi tốt, một cặp dế bố
mẹ có thể cho 1 kg dế con. Giá thịt dế trên thị trường hiện tại khoảng
250.000 đồng/kg. Như vậy với 80 cặp dế giống ban đầu, trừ chi phí cho
điện, nước và nhân công thì 6 tháng sau nhà đầu tư có thể hoàn vốn, 1
năm sau đó là có thể thu về 160 triệu đồng.
- Dế là một loài côn trùng ăn hại lá rất mạnh. Ðể tiến hành nuôi với số
lượng lớn, quy trình nuôi phải khép kín thành từng khu hoặc tại các hộ

gia đình, có quản lý chặt chẽ không để chúng trốn chạy ra ngoài làm
ảnh hưởng đến cây trồng xung quanh
Nếu di chuyển xa hơn nên đông lạnh trước khi di chuyển. Dế đông lạnh
bằng cách rửa sạch dế đã thu hoạch qua nước sạch, hoặc nước muối
5%, sau đó cho vô khay rồi đem đông lạnh. Cách này có thể giữ dế
được lâu hơn khoảng 1 tuần đến 10 ngày.
Giá dế giống: 15.000 đồng (1 con đực và 2 con cái)
Giá thương phẩm: 250.000 đồng/kg
CHƯƠNG 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Cơ sở lí luận
Ở nước ta các loại côn trùng như cào cào, châu chấu, dế, tằm, sâu chit,
nhộng tằm, rươi. là những loại côn trùng được dùng làm món ăn, một số
nơi được coi là món ăn quý. Với loài dế cũng có nhiều giống như: dế
ché, dế cơm to con, thân màu nâu đen, hai chân sau to có màu nâu sẩm.
-Trong tự nhiên có rất nhiều loại dế như: dế ta, dế mèn, dế cơm, dế mọi,
dế chó, dế dũi… Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật nuôi dế ta.
Xuất phát từ thực tế sản xuất chăn nuôi các con vật truyền thống,
những năm gần đây gặp rủi ro do dịch bệnh, giá cả bấp bênh… nên
nhiều nông dân ở huyện Hiệp Hòa đã mạnh dạn chuyển sang mô hình
nuôi dế thâm canh cho hiệu quả kinh tế cao và dễ nhân ra diện rộng.
Một số món ăn từ dế: Trước khi chế biến các món ăn từ dế, cần rút ruột,
bóp bụng dế để bỏ ruột phân, rửa sạch sau đó mới chế biến. Dế có thể
chế biến được nhiều món như chiên giòn, chiên bơ, lăn bột, kho tiêu,
xào mì, trộn gỏi, rim mặn, lẩu... ăn cùng với bánh phồng tôm, bánh
tráng hoặc cuốn bánh tráng với rau sống là những món ăn đặc sản từ dế.
Hiện nay, dế là một trong những món ăn được các nhà hàng, quán nhậu
tiêu thụ rất mạnh với giá 250.000- 300.000 đồng/kg.
Hiện nay các món ăn chế biến từ dế đang được nhiều người ưa thích và
coi là món "đặc sản". sau đây xin trân trọng giới thiệu kỹ thuật nuôi Dế

3.2. Kỉ thuật nuôi dế
1. Đặc điểm sinh học của Dế
Dế thuộc loại côn trùng ăn tạp và phát triển rất nhanh, từ khi nở ra đến
45 ngày nó đã nặng tới 15 – 17 gram (trùng bình khoảng 700 con/kg),
chúng bắt đầu mọc cánh (nếu nuôi dế thương phẩm thì 45 ngày là thời
điểm xuất bán hiệu quả tốt nhất).
Dế thành thục lúc 60 ngày tuổi, theo kinh nghiệm phân biệt Dế cái khác
dế đực ở phần hậu môn: dế cái có “máng đẻ” còn dế đực phần hậu môn
tròn hơn.
Mỗi Dế cái đẻ khoảng 30 – 40 trứng/ngày
2. Kỹ thuật chăn nuôi:
2.1. Dụng cụ nuôi:
Có thể tận dụng các thùng hàng bằng nhựa, chum, vại có đường kính từ
20 – 50 cm, nắp thùng làm bằng bìa cứng, phên tre, tấm ván mỏng…có
khoét một lỗ ở giữa khoảng 3 – 4 xm để thông khí và quan sát bên trong
và cung cấp ánh sáng.
Khay cho dế đẻ có thể làm khay chuyên dùng bằng gỗ như khuôn gói
bánh chưng hình vuông cỡ 5cm, cao 2cm; trong khay đẻ để một ít đất
ẩm tơi, lượng đất ẩm trong khay dầy khoảng 1,5 cm.
2.2. Thức ăn chăn nuôi
Thức ăn cho Dế là các loại cỏ hoà thảo tự nhiên và cám hỗn hợp như
cám cho gia cầm úm (chủ yếu cho dế non)
Cỏ được rửa sạch, nếu cỏ chuẩn bị từ trước đã ráo nước thì phun nước
cho cỏ hơi ướt rồi bó thành từng bó nhỏ cỡ bằng nắm tay (0,1 – 0,2
kg/bó) để trong thùng nuôi cho dế ăn và leo trèo.
Bột cám hỗn hợp của gia cầm úm để vào đĩa nhỏ với số lượng bằng 3%
trọng lượng Dế cho ăn tự do.
Nước uống của dế: có thể sử dụng bình phun nhỏ tưới hoa phun dưới
dạng phun bụi vào thành thùng nhựa hoặc chum, vại đang nuôi Dế.
2.3. Kỹ thuật ấp trứng

Mỗi ngày lấy khay đẻ trứng ra một lần và đưa khay mới vào để nhân
trứng cho hôm sau. Khi đưa khay trứng vào hộp ấp (dùng cái hộp nhỏ
như hộp đựng mì tôm) chuẩn bị khăn bông thấm nước ẩm (loại khăn
rửa mặt trẻ em nhỏ, cỡ 10 x 10 cm, 1 cái đặt dưới đáy thùng ấp để đè
khay trứng lên và 1 cái phủ lên mặt khay, đậy nắp hộp lại, để trong
chuồng nuôi có che xung quanh, nhiệt độ thích hợp nhất từ 22 – 26
o
C,
cứ 3 – 4 ngày thay khăn ướt 1 lần để giữ độ ẩm, sau 9 -10 ngày trứng
bắt đầu nở, khi thấy dế đã nở hết (vào ngày thứ 11) thì lấy khay ra đưa
Dế con vào hộp nuôi.
2.4. Kỹ thuật nuôi Dế con
Tận dụng các hộp, thùng hoặc chum, vại nuôi Dế con cần về sinh sạch
sẽ, sau đó xông hơi focmol để khử trùng
Ban đầu Dế con ăn ít, cần cho cỏ non và bột cám tổng hợp có 17 – 21 %
chất đạm (tương đương cám úm gia cầm), lượng cám tổng hợp khoảng
3 % trọng lượng dế; cho ăn theo bữa, mỗi bữa cách nhau khoảng 4 – 6
giờ, chú ý vệ sinh hộp nuôi, bỏ cỏ cũ ra, đưa cỏ mới vào.
Cho Dế uống nước bằng cách phun ướt cỏ non rồi đưa vào thùng nuôi,
khi Dế lớn có thể phun nước vào thành dụng cụ nuôi để cho uống.
Khi Dế lớn cần san bớt đàn sang hộp mới tránh mật độ quá dầy
2.5. Kỹ thuật nuôi Dế bố mẹ
Tỷ lệ ghép đôi giao phối đực cái là 1 đực : 1,5 - 2 cái
Mật độ nuôi là 30 – 40 con/m2
Thức ăn cho Dế bố mẹ tương tự như Dế con
3. Một số chú ý về phòng chống địch hại
Địch hại của Dế là chuột và kiến
Đối với kiến cần phòng bằng rành nước xung quanh khu vực nuôi (đối
với quy mô chăn nuôi lớn), Nếu nuôi ít có thể đặt các hộp nuôi trên các
giá có chân giá ngâm trong bát nước.

Đối với chuột cần dùng cả sinh học để diệt chuột. Theo các hộ đã chăn
nuôi dế ở Lương Tài, Bắc Ninh và chuyên gia Nguyễn Lân Hùng thì
ngoài các thiên địch trên, chưa thấy dế mắc bệnh gì khác. Hiện nay
chưa có các công trình nghiên cứu sâu về con Dế, chúng tôi mong nhận
được sự bổ sung của bạn đọc cùng chia sẻ kinh nghiệm nuôi Dế qua bản
tin khuyến nông.
Phân biệt dế đực, cái
- Dế đực phần ''đầu ngực'' to hơn dế cái.
- Dế đực cánh màu đen pha màu nâu không bóng mượt.
- Dế cái cánh màu đen bóng mượt hơn dế đực.
- Dế đực bụng nhỏ hơn dế cái vì bụng dế cái có trứng nên to hơn.
- Dế đực không có bộ phận để đào đất ( giông như cái kim khâu quần
áo) ở phần đuôi , còn dế cái thì có để chúng đào ổ đẻ.
- Dế đực trưởng thành kêu vể ban đêm còn dế cái không kêu.
4. Cách cho dế đẻ
- Khi thấy dế gáy và xù cánh là lúc dế chuẩn bị đẻ ta chuẩn bị khay đẻ
và đất cho dế đẻ.
- Đến chiều tối bạn thử đặt hai khay đất vào và theo dõi xem dể có bò
lên đẻ không.
- Nếu thấy dể đẻ thì sáng hôm sau các bạn lấy khay trứng ra và đưa đi
ấp.
- Thường trứng của 2- 3 ngày đầu tỷ lệ nở ít do trứng không được thụ
tinh 100%.
- Dế đẻ liên tục khi rac thì chết ( trung bình 30 - 35 ngày)
Chú ý: Chỉ bỏ khay trứng vào thùng dể đẻ, sau khi trời đã tối và phải
lấy ra vào sáng hôm sau. Nếu không dế bố mẹ có thể đào bới khay
trứng lôn tung.
5. Cách ấp trứng
- Tôi thường lấy khay trứng ra xịt nước xếp chúng chồng lên nhau cứ 2
- 3 khay 1. Sau đó dùng một cái khăn loại dày nhúng nước và vắt bớt

một ít rồi chùm kín khay trứng.
- Cứ một ngày xịt nước cho khay trứng 2 lần vào mùa hè 1 lần vào mùa
đông, conf 2 ngay nhúng khăn ướt một lần.
- Trứng ấp trong vòng từ 9 - 12 ngày là nở, trúng nở trong vỏng -4 ngày
là hết.
- Tôi thường để 2 khay trong một chậu, như vậy dế nở ra sẽ rất đều.
- Các bạn không nen để trứng của 2 -3 ngàycungf một chậu, như vậy
khi dế nở sẽ dẫn đến con to, con nhỏ không đồng đều.
Chú ý: Khi các bạn xịt nước cho trứng thấy bề mặt đất có màu thâm nâu
là được. Không nên xịt quá nhiều vì như vậy trứng sẽ rất dễ bị ung.
6. Cách nuôi dế từ mới nở đến 15 ngày tuổi.
- Dế nở ra từ 2 khay trung bình được 2000 con.
- Các bạn để từ 1 - 2 dế ( cái dế để bắc nồi cơm) vào chậu nuôi để cho
dế đậu trèo leo.
- Để 2 -3 búi cỏ vào chậu và một khay thức ăn ( cám gà)
Chú ý: Các bạn tuyêt đối không được để khay nước vào chậu nuôi vì

×