Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế và xử lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.13 KB, 39 trang )

Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
DANH SÁCH NHÓM 13
1. Vương Thị Thùy Linh
2. Nguyễn Thị Nhật Vy
3. Hồ Thị Thu Hiền
4. Trần Thị Ngọc Huệ
5. Lương Thị Hồng Quế
6. Trần Thị Cẩm Tú
7. Nguyễn Thị Phương Thủy
8. Đặng Đức Thắng
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 1
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
MỤC LỤC
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 2
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Golden Growth, “Restructuring privat debt: Republic of Korea”.
2. Waxman, M. (1998), “A legal framework for systemic bank restructuring”, The World
Bank.
3. TS Lê Xuân Nghĩa, “Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2011 và triển vọng 2012-
2015”.
4. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/04/2005” quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
5. “Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007” chỉnh sửa, bổ sung quyết định
493/2005/QĐ- NHNN
2. Trang web: />4. Trang web: />5. Trang web:
6. Trang web:


7. Trang web:
8. Trang web:
9. Trang web: />10. Trang web:
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 3
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
PHỤ LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng tín dụng, GDP bình quân của các nước từ năm 2000 - 2011
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng GDP, CPI và tín dụng tại Việt Nam qua các năm 2007 –
2011
Bảng 3: Dư nợ theo nhóm của hệ thống Ngân hàng Việt Nam
Bảng 4: Tỷ trọng các nhóm nợ so với dư nợ
Bảng 5: Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu của toàn hệ thống
Bảng 6: Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu của khối NHTM
Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng tín dụng và GDP
Biểu 2: Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ, nợ quá hạn và tốc độ tăng nợ xấu
Biểu 3: Cơ cấu nợ xấu của khối NHTM so với toàn ngành tháng 09/2012
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 4
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
TCTD : Tổ chức Tín dụng
BTC : Bộ tài chính
ĐBQH : Đại biểu quốc hội
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
CPI : Chỉ số giá tiêu dùng
BQ : Bình quân
TD : Tín dụng

VN : Việt Nam
TS : Tài sản
DPRR : Dự phòng rủi ro
BIDV : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
VCB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam
VDB : Ngân hàng phát triển Việt Nam
Agribank : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
ACB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu
BaoVietbank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bảo Việt
Sacombank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín
Navibank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt
LienVietPostbank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt
KienLongbank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long
MB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần quân đội
Saigonbank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Công Thương
VIB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế
DAB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á
Eximbank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
ABBank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình
OceanBank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 5
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
SHB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
GPBank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần dầu khí toàn cầu
TrustBank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Tín
WesternBank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Tây
DaiABank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Á
PGBank : Ngân hàng Thương mại Cổ phần xăng dầu Petrolimex
MekongDevBank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần phát triển Mê Kông

DN : Doanh nghiệp
EVN : Tập đoàn điện lực Việt Nam
Vinacomin : Tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam
PetroVietnam : Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam
Vinashin : Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 6
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thời gian gần đây, nợ xấu ngân hàng luôn là đề tài được dư luận xã hội cũng như
các cơ quan chức năng của Chính phủ và Quốc hội đặc biệt quan tâm. Tại kỳ họp thứ 4
Quốc hội khóa XIII, Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được các Đại biểu
Quốc hội chất vấn về vấn đề nợ xấu và các giải pháp tiếp theo của NHNN để điều hành
chính sách tiền tệ mà mối quan tâm hàng đầu là giải quyết nợ xấu. Như vậy vấn đề tìm
cách xử lý nợ xấu cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả, thúc đẩy phát
triển và tăng trưởng kinh tế là việc làm cấp thiết hiện nay, bởi lẽ như ĐBQH Trần Du
Lịch ví đây là “cục máu đông” làm tắc nghẽn huyết mạch của nền kinh tế; còn Tiến sĩ Lê
Xuân Nghĩa đã dí dỏm ví, đây như “dòng sữa mẹ” bị tắc. “Nợ xấu như là người mẹ cho
con bú, nhưng bị tắc, mẹ thì đau, con thì đói. Thậm chí nếu tình hình này kéo dài thì có
người sẽ tử vong”.
Nợ xấu luôn tồn tại trong hoạt động của các TCTD, là một phần rủi ro phát sinh
trong quá trình hoạt động ngân hàng. Nợ xấu lớn cũng đồng nghĩa với một lượng vốn
tương ứng không được quay vòng, dòng tiền trong nền kinh tế không lưu thông được và
hệ thống ngân hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản. Nợ xấu lớn cũng làm ảnh hưởng
đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất và quản lý thị trường tiền tệ của
NHNN, nếu để nợ xấu kéo dài thì số lượng doanh nghiệp không có vốn sản xuất kinh
doanh phải dừng hoạt động, thậm chí phá sản sẽ gia tăng. Điều này sẽ đe dọa đến sự phát
triển bền vững của hệ thống tài chính quốc gia nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Do
vậy, khi nợ xấu đủ lớn sẽ đe dọa sự an toàn hệ thống ngân hàng và ổn định kinh tế vĩ mô.

Làm thế nào để hạn chế, quản lý và xử lý được nợ xấu là một đề tài mà các nhà
quản trị ngân hàng đã và đang nghiên cứu nhằm hoàn thiện trong điều kiện mới. Nghiên
cứu được nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu từ đó mới có thể đưa ra những biện pháp,
chính sách phù hợp trong việc điều tiết các hoạt động tín dụng nhằm đảm bảo được nợ
xấu ở mức quy định của ngành, đảm bảo được một tiền đề vững chắc cho sự phát triển có
định hướng, có mục tiêu và an toàn, hiệu quả về lâu dài. Do đó Nhóm 13 đã lựa chọn đề
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 7
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
tài “Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ năm 2008 đến nay - một số giải
pháp hạn chế và xử lý” để làm đề tài nghiên cứu của nhóm.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nợ xấu, thực trạng nợ xấu, tìm hiểu nguyên nhân,
tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế, trên cơ sở đó đề ra một số kiến nghị nhằm hạn
chế nợ xấu, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương
mại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề cơ bản về nợ xấu và thực trạng nợ xấu tại các Ngân
hàng thương mại Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài gồm: Phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh kết hợp với phương pháp thống kê sử dụng trong quá
trình nghiên cứu để đưa ra nhận xét, đánh giá các vấn đề.
5. Kết cấu của đề tài:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ xấu
Chương 2: Thực trạng nợ xấu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam từ năm
2008 đến nay
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý nợ xấu tại các Ngân hàng

thương mại
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 8
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU
1.1 Khái niệm về nợ xấu
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005
về phân loại nợ; trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và theo quyết định số 18/2007 QĐ – NHNN ngày
25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 493 thì nợ xấu được định
nghĩa như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”, cụ thể là các khoản
nợ khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày và các NHTM căn cứ vào khả năng trả nợ
của khách hàng để phân vào nhóm nợ thích hợp (Điều 6).
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc: “về cơ bản một
khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản
lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả
thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc
chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Như vậy về cơ bản thì nợ xấu được xác định dựa vào 2 yếu tố: đã quá hạn trên 90
ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ. Ở Việt Nam hầu như các Ngân hàng chỉ mới hạch toán
nợ xấu căn cứ vào thời gian khoản nợ quá hạn trên 90 ngày, còn yếu tố đánh giá khả năng
trả nợ của khách hàng chưa được áp dụng.
1.2. Dấu hiệu nhận biết một khoản vay có nguy cơ phát sinh nợ xấu
Nợ xấu làm cho giảm doanh thu của ngân hàng, đồng thời làm giảm hình ảnh cũng
như uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, tác động rất tiêu cực đối với hoạt động của
cả hệ thống. Vì vậy, dự báo nợ xấu phát sinh từ các dấu hiệu định tính và định lượng là
một công việc có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Các dấu hiệu có thể
dẫn đến khoản vay có vấn đề từ đó dẫn đến nợ xấu gồm:
1.2.1 Dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của Ngân hàng

• Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát
cũng như nguồn vốn của Ngân hàng cũng như Chính sách tín dụng quá cứng nhắc
hoặc lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng;
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 9
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
• Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn
thị trường tối ưu của Ngân hàng. Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung
vào một số lĩnh vực nóng trong nền kinh tế như đầu tư vào bất động sản …;
• Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay
thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ
không quan hệ với các TCTD khác mặc dù biết rõ các khoản tín dụng sẽ cấp tiềm
ẩn nguy cơ rủi ro cao;
• Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sáp nhập,
thay đổi địa vị pháp lý từ Chi nhánh lên Công ty “con” hạch toán độc lập;
• Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng;
• Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy
định hiện hành về phê duyệt tín dụng; Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong
hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng.
1.2.2 Dấu hiệu từ phía khách hàng
1.2.2.1 Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với Ngân hàng
• Phát sinh các khoản nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc
khách hàng không muốn trả nợ hoặc là do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi công nợ
chậm hơn dự tính; hoặc có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu
nhập bất thường để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán;
• Việc thanh toán nợ gốc và/hoặc lãi không đúng kỳ hạn. Đề nghị gia hạn, điều
chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang
tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ;
• Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê khai đầy
đủ, chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng phải nộp cho

ngân hàng như: báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính, báo
cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán, … liên tục bị trì hoãn một cách bất
thường mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục. Số liệu kê khai, hay số
liệu về doanh thu và dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có chênh lệch khá lớn so với
mức dự kiến khi khách hàng xin vay;
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 10
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
• Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự
kiến; có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc
biệt từ đối thủ cạnh tranh của Ngân hàng đang quan hệ vay vốn; chấp nhận sử
dụng các nguồn vốn vay với giá cao, với mọi điều kiện;
• Tài sản đảm bảo không đủ các tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với khi
định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, hay bán, trao đổi
hoặc bị mất.
1.2.2.2 Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính
và hoạt động SXKD của khách hàng
Nhóm các dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng
với tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát ra từ chính hoạt động SXKD của khách
hàng và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ, sâu sát của cán bộ ngân hàng.
Đó là:
• Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn (tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu), hệ số khả năng
thanh toán của khách hàng;
• Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm liên tục,
đặc biệt thể hiện qua các chỉ số như ROA, ROE và lãi vay (EBIT) hay thu nhập
trước thuế;
• Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số dư
tiền gửi của khách hàng;
• Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến
trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng

như thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền…;
• Thay đổi thường xuyên tổ chức của Ban điều hành; xuất hiện bất đồng và mâu
thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý;
• Các yếu tố khách quan như: Thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh xảy ra, người điều
hành chịu trách nhiệm chính bị chết, mất tích; những ảnh hưởng từ nền kinh tế thế
giới và những thay đổi từ chính sách của các cơ quan nhà nước có ảnh hưởng đến
môi trường kinh tế vĩ mô ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của khách
hàng.
1.3 Phân loại nợ
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 11
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
1.3.1 Cách phân loại nợ của ngân hàng thanh toán quốc tế BIS
Hệ thống phân loại nợ xấu của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) là hệ thống
phân loại nợ xấu được sử dụng rộng rãi nhất. Theo phương pháp của BIS thì nợ xấu được
phân loại cụ thể như sau:
1. Không vấn đề: là các khoản cho vay sẽ thu hồi được.
2. Chú ý đặc biệt: là các khoản cho vay các doanh nghiệp có thể có khó khăn khi
thu hồi nợ, ví dụ, do tiếp tục sản xuất kinh doanh thua lỗ.
3. Dưới chuẩn: là các khoản cho vay mà tiền trả lãi và gốc bị nợ quá hạn trên 3
tháng. Các ngân hàng phải trích lập dự phòng 10% trên phần vốn cho vay không được
bảo đảm và được xác định là dưới chuẩn.
4. Nghi ngờ: khả năng tất toán toàn bộ khoản cho vay tỏ ra đáng nghi ngờ, cho thấy
có khả năng sẽ mất vốn, tuy nhiên mất bao nhiêu thì chưa rõ. Các ngân hàng phải trích
lập dự phòng 50% cho các khoản vay nghi ngờ này.
5. Mất vốn thật sự và không có khả năng thu hồi: các khoản cho vay này được coi là
không có khả năng thu hồi. Thường là các khoản vay cho các doanh nghiệp đang tiến
hành các thủ tục pháp lý để được bảo vệ theo luật phá sản. Các ngân hàng trích dự phòng
100% cho các khoản vay này.
Nợ xấu được định nghĩa là các khoản cho vay rơi vào 3 nhóm cuối cùng trong hệ

thống phân loại 5 nhóm nói trên của BIS
1.3.2 Phân loại dựa vào quy định của NHNN
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
22/4/2005 về phân loại nợ; trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, và theo Quyết đinh số 18/2007 QĐ – NHNN
ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493 thì Nợ xấu là
những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5, chi tiết:
a. Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
• Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này.
• Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 12
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
• Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 (theo đánh giá
của TCTD)
Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao nhất.
Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ dự phòng rủi ro cho nợ xấu nhóm này là 20%.
b. Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
• Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
• Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 (theo đánh giá
của TCTD).
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi thấp hơn so với các
khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà ngân hàng có
sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro cho nợ xấu thuộc nhóm

này là 50%.
c. Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
• Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời gian trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
• Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần hai.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn
hoặc đã quá hạn
• Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
• Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 (theo đánh giá
của TCTD).
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập dự
phòng rủi ro tương ứng là 100%. Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ
xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD.
Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 13
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
trên, tổ chức tín dụng “có đủ khả năng và điều kiện” vẫn có quyền áp dụng phương pháp
“định tính”, tức chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ
rủi ro cao hơn (hoặc thấp hơn) tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ
của khách hàng suy giảm (hoặc tốt hơn) (Khoản 2,3 Điều 6, QĐ 18 và Điều 7, QĐ 493).
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 14
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
2.1Khái quát hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam:
Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong sự lưu thông tiền tệ của nền kinh tế, và một

trong các chỉ tiêu mà các nhà điều hành chính sách tiền tệ quan tâm là tốc độ tăng trưởng
dư nợ tín dụng. Tăng trưởng tín dụng là chỉ tiêu phản ánh lượng tiền đưa vào lưu thông,
tăng trưởng tín dụng càng cao tức là lượng tiền trong lưu thông càng nhiều sẽ giúp nền
kinh tế có nhiều vốn cho các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Tuy
nhiên, tăng trưởng tín dụng cao cũng là nguyên nhân quan trọng làm tăng lạm phát. Thực
tế trên thế giới cho thấy, các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng tín dụng/GDP cao nhất trong
từng khu vực đều là những quốc gia có kinh tế yếu kém so với các quốc gia khác trong
khu vực đó. Chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng tín dụng/GDP một số nước trong khu vực từ năm
2000 – 2011 như sau:
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng tín dụng, GDP bình quân của các nước từ năm 2000 - 2011
STT Quốc gia
% tăng GDP
BQ
% tăng tín dụng
BQ
Tỷ lệ tăng
TD/tăng GDP
1 Malaysia 5.01 7.98 1.59
2 China 10.21 17.07 1.67
3 Thailand 4.19 7.19 1.72
4 Philippines 4.67 8.29 1.78
5 Korea 4.52 8.12 1.80
6 Indonesia 5.31 12.89 2.43
7 Myanmar 11.20 31.71 2.83
8 Cambodia 8.00 28.52 3.57
9 Vietnam 7.11 34.99 4.92
10 Laos 6.47 32.75 5.06
Nguồn : />Số liệu cho thấy, trong các quốc gia khu vực, Việt Nam có mức tăng trưởng tín
dụng cao so với mức tăng GDP. Bình quân trong các năm 2000-2011, Việt Nam phải
tăng đến 4,92% tín dụng mới tăng được 1% GDP, trong khi ở các nước khu vực và Trung

Quốc chỉ khoảng 1,5-2,0%. Trong đó gần nhất là năm 2009, Việt Nam đã tăng trưởng
trên 45% tín dụng để cho kết quả tăng GDP 5%, hay nói cách khác là cần tới tăng 9% tín
dụng cho 1% tăng trưởng kinh tế, một tỷ lệ quá cao. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đang
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 15
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
thâm dụng vốn rất lớn cho đầu tư tăng trưởng. Nhu cần vốn cao cũng như mức độ tăng
trưởng lớn của tín dụng không tương xứng với tăng trưởng hàng hóa dẫn đến lãi suất
VND và CPI vào mức cao nhất khu vực. Nếu phương thức hấp thụ vốn của nền kinh tế
không có chuyển biến thì doanh nghiệp Việt Nam luôn trong tình trạng thiếu vốn và áp
lực lãi vay cao, tạo ra nhiều nguy cơ bất ổn cho việc phát triển. Cụ thể tốc độ tăng trưởng
GDP, CPI và tín dụng tại Việt Nam qua các năm 2007 – 2011
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng GDP, CPI và TD tại Việt Nam qua các năm 2007 – 2011
Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011
% GDP 8.46% 6.31% 5.32% 6.78% 5.89%
% Tăng trưởng tín dụng 49% 23.40% 50.65% 28.52% 14.84%
%Tăng trưởng TD /% GDP
5.78 3.71 9.52 4.21 2.52
% CPI 12.63% 19.89% 6.52% 11.75% 18.13%
Nguồn: - Kinh tế VN giai đoạn 2006-2011 và triển vọng 2012-2015 TS. Lê Xuân
Nghĩa Phó chủ tịch ủy ban giám sát tài chính quốc gia
- Trang web:
- Tổng cục thống kê
Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng tín dụng và GDP
- Sự tăng mạnh nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam từ năm 2005 – 2007 dẫn tới tăng
trưởng tín dụng đạt mức cao vào năm 2007 là 49% dẫn đến hậu quả là tỷ lệ lạm
phát năm 2007 – 2008 tăng vọt, năm 2007 tốc độ tăng CPI là 12.63%, năm 2008
tốc độ tăng CPI là 19.89% (nguồn tổng cục thống kê). Nhằm hạn chế đà tăng giá
thời điểm này, bên cạnh 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ thì
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 16

Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
NHNN đã có những biện pháp tiền tệ linh hoạt như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thu
tiền đồng về thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, … Trong năm 2008 NHNN
có số lần điều chỉnh lãi suất cơ bản nhiều nhất (8 lần), 7 tháng đầu năm lãi suất cơ
bản tăng từ 8.75% lên 14%/năm để thực thi chính sách tiền tệ. Nhờ những giải
pháp của NHNN mà năm 2008 tốc độ tăng trưởng tín dụng đã giảm xuống chỉ còn
23.4%. Nguyên nhân khác khiến tăng trưởng tín dụng năm 2008 giảm là do ảnh
hưởng tiêu cực của tài chính Mỹ, triển vọng xấu về nền kinh tế trong tương lai
khiến cho nhà sản xuất thu hẹp hoạt động, các Ngân hàng lo ngại nợ xấu nên đã
hạn chế cho vay.
- Từ cuối năm 2008, Chính phủ bắt đầu thực hiện gói kích cầu nền kinh tế, trong đó
các biện pháp tài chính, tiền tệ là chủ đạo như giảm lãi suất cơ bản (từ ngày 21/10
cho đến hết năm 2008 5 lần điều chỉnh giảm), giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ trợ lãi
suất vay vốn (hỗ trợ 4% lãi suất cho vay), Ngân hàng Phát triển Việt Nam đứng ra
bảo lãnh cho các doanh nghiệp có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa
500 lao động vay vốn của NHTM (trừ một số lĩnh vực kinh doanh bất động sản,
chứng khoán hay đảo nợ.), không phạt nợ quá hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa gặp khó khăn và thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ với các hộ nông dân bị
thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
Nhờ đó mà sang năm 2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng trưởng ngoạn mục,
tăng 50.65% so với năm 2008 (kế hoạch của NHNN là 25% và điều chỉnh lên
30%). Tăng trưởng tín dụng cao gấp 9 lần so với tăng trưởng GDP, lượng tiền đưa
vào lưu thông cao hơn rất nhiều so với lượng hàng hóa sản xuất.
- Trước nguy cơ tái lạm phát thì Quý 4/2009, NHNN đã lần lượt thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt như: giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ 40%
xuống còn 30%, tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% sau hơn 1 năm duy trì mức lãi
suất 7%, yêu cầu các ngân hàng chỉ tập trung cho vay phục vụ sản xuất, và đề ra
mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2010 là 25%. Đến hết năm 2010 thì tăng
trưởng tín dụng đạt 28.52% trong đó tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ (37.76%)

áp đảo VND (25.34%) và là yếu tố khác thường so với trước đây, lý là trong năm
2009 chính sách hỗ trợ lãi suất đã kết thúc nên lãi suất VND tăng mạnh trở lại và
tạo ra sự chênh lệch lớn khi so sánh tương quan lợi ích với vay vốn bằng ngoại tệ
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 17
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
- Năm 2011 với bối cảnh kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao chính phủ đã ban
hành nghị quyết 11 để kiểm soát lạm phát, trong đó thực hiện chính sách tiền tệ
chặt chẽ, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được áp dụng cho tất cả các Ngân hàng là
20%. Đến cuối năm 2011 thì tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 14.84% đây là mức tăng
trưởng tín dụng thấp nhất trong nhiều năm qua.
- Qua đến 9 tháng đầu năm 2012 tốc độ tăng trưởng tín dụng ngày cảng giảm lại
(quý I tăng 8.16%, quý II tăng 1.65% và quý III tăng 2.54%), nguyên nhân là do
tác động của lãi suất cao kết hợp với số lượng doanh nghiệp phá sản ngày càng
nhiều; hơn nữa cuối năm 2011 nhiều ngân hàng có hiện tượng tăng tín dụng ảo để
lấy khối lượng dư nợ, đón đầu chính sách giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm
2012 của NHNN.
2.2Thực trạng nợ xấu tại các NHTM:
Cùng với tốc độ tăng trưởng của dư nợ tín dụng thì trong các năm qua nợ quá hạn
tại hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng tăng lên đáng kể. Cơ cấu các nhóm nợ của hệ
thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008 – 2011 và 3 quý đầu năm 2012:
Bảng 3: Dư nợ theo nhóm của hệ thống Ngân hàng Việt Nam
ĐVT: Tỷ đồng
Dư nợ
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010

Năm
2011
Quý
I/2012
Quý
II/2012
Quý
III/2012
Nhóm 1
1,019,72
7 1,574,729 2,030,546 2,248,420
2,393,49
0 2,435,476 2,509,109
Nhóm 2 70,938 82,952 102,683 177,751 215,818 200,938 188,953
Nhóm 3 15,512 10,548 12,281 17,582 33,036 41,839 33,698
Nhóm 4 7,082 8,245 11,001 18,147 20,309 22,296 36,534
Nhóm 5 13,195 19,900 23,582 41,830 45,221 52,024 54,160
Tổng dư nợ
1,126,45
4 1,696,374
2,180,09
3
2,503,73
0
2,707,87
4
2,752,57
2 2,822,453
Nguồn: />Bảng 4: Tỷ trọng các nhóm nợ so với dư nợ
Tỷ lệ Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011

Quý
I/2012
Quý
II/2012
Quý
III/2012
Nhóm 1 90.53% 92.83% 93.14% 89.80% 88.39% 88.48% 88.90%
Nhóm 2 6.30% 4.89% 4.71% 7.10% 7.97% 7.30% 6.69%
Nhóm 3 1.38% 0.62% 0.56% 0.70% 1.22% 1.52% 1.19%
Nhóm 4 0.63% 0.49% 0.50% 0.72% 0.75% 0.81% 1.29%
Nhóm 5 1.17% 1.17% 1.08% 1.67% 1.67% 1.89% 1.92%
Tổng cộng 100.00% 100.00% 100.00% 100.00% 100.00% 100.00% 100.00%
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 18
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
Nguồn: />Tỷ trọng nợ quá hạn (nhóm 2, 3, 4, 5) có xu hướng giảm từ năm 2008 đến năm
2010, tuy nhiên qua năm 2011 nợ quá hạn đều tăng ở tất cả các nhóm nợ và tiếp tục trong
các quý đầu năm 2012. Song song đó tỷ lệ nợ xấu cũng tăng qua các năm và tăng mạnh
vào các tháng đầu năm 2012. Đến tháng 06/2012 tổng nợ xấu là 116,159 tỷ đồng chiếm
4.22% tổng dư nợ, trong đó nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) chiếm 44.79%; đến
tháng 09/2012 thì tỷ lệ nợ xấu tăng lên 4.41% và tỷ lệ nợ mất vốn đạt 43.54%, mặc dù số
tương đối nợ mất vốn đến tháng 09 có xu hướng giảm so với tháng 06 nhưng về số tuyệt
đối lại tăng hơn 2 nghìn tỷ đồng với tốc độ tăng khoảng 4%.
Bên cạnh việc nợ xấu liên tục tăng nhanh thời gian qua thì nợ xấu có nguy cơ mất
vốn (nhóm 5) luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nợ xấu khiến nợ xấu của ngành
ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro và rủi ro tín dụng đang tăng theo chiều hướng xấu đi.
Bảng 5: Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu của toàn hệ thống
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm

2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
Quý
I/2012
Quý
II/2012
Quý
III/2012
Nợ quá hạn
106,727 121,645 149,547 255,310 314,384 317,096 313,344
Tỷ lệ NQH/ dư nợ
9.47% 7.17% 6.86% 10.20% 11.61% 11.52% 11.10%
Nợ xấu
35,790 38,693 46,864 77,559 98,567 116,159 124,391
Tỷ lệ nợ xấu / dư nợ
3.18% 2.28% 2.15% 3.10% 3.64% 4.22% 4.41%
Tỷ lệ nợ xấu / NQH
33.53% 31.81% 31.34% 30.38% 31.35% 36.63% 39.70%
Tốc độ tăng nợ xấu
8.11% 21.12% 65.50% 27.09% 17.85% 7.09%
Nguồn: />Biểu 2: Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ, nợ quá hạn và tốc độ tăng nợ xấu
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 19
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
Từ năm 2008 đến quý II/2012 nợ xấu luôn tăng với tỷ lệ cao và tăng cao vọt vào

năm 2011, 6 tháng đầu năm nợ xấu vẫn tăng 2 con số, chỉ đến quý III thì tỷ lệ tăng nợ
xấu mới giảm xuống còn khoảng 7%. Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ ngày càng tăng và
đã vượt con số 3% so với chuẩn mực quốc tế và nợ xấu vẫn chiểm tỷ trọng cao trong nợ
quá hạn (từ 30% - 40%). Chất lượng hoạt động tín dụng trong thời gian qua giảm sút xuất
phát từ tình hình kinh tế diễn biến phức tạp ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, thị trường bất động sản đóng băng khi dư nợ cho vay lĩnh vực này rất lớn;
việc chạy đua lãi suất huy động của các Ngân hàng dẫn đến lãi suất cho vay tăng cao đã
đẩy doanh nghiệp đi vay vào tình thế vô cùng khó khăn, áp lực trả nợ tăng cao trong khi
nguồn thu không ổn định đã khiến nhiều doanh nghiệp mất khả năng trả nợ.
Trong cơ cấu nợ xấu của toàn hệ thống thì tỷ trọng nợ xấu của các NHTM nhà
nước và NHTM cổ phần luôn chiếm tỷ trọng cao (số liệu đến Quý III/2012)
Bảng 6: Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu của khối NHTM
ĐVT: Tỷ đồng
Nợ xấu
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
Quý
I/2012
Quý
II/2012
Quý
III/2012
Khối NHTM nhà nước
20,658 23,443 23,947 37,200 47,140 43,353 48,707

Khối NHTM cổ phần
13,513 12,925 19,453 28,686 42,637 58,757 64,240
Tổng cộng
34,171 36,368 43,400 65,886 89,777 102,110 112,947
Tỷ lệ

Khối NHTM nhà nước
57.72% 60.59% 51.10% 47.96% 47.83% 37.32% 39.16%
Khối NHTM cổ phần
37.76% 33.40% 41.51% 36.99% 43.26% 50.58% 51.64%
Tổng cộng 95.48% 93.99% 92.61% 84.95 91.08% 87.91% 90.80%
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 20
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
%
Nguồn: />Biểu 3: Cơ cấu nợ xấu của khối NHTM so với toàn ngành tháng 09/2012
Trong 9 tháng đầu năm thì khối NHTM cổ phần tăng nợ xấu 8/9 tháng, khối
NHTM nhà nước tăng 7/9 tháng. Đến hết tháng 06/2012 nợ xấu tại các NHTM khoảng
102,110 tỷ đồng chiếm 87.91% tổng nợ xấu của toàn ngành, và tiếp tục tăng đến hết
tháng 09 là 90.8% với mức 112,947 tỷ đồng, tăng 10,837 tỷ đồng so với tháng 6.
So với cuối năm 2011 thì nợ xấu của khối NHTM cổ phần tăng 35,554 tỷ đồng,
tăng 123.94%, đây là mức tăng cao nhất trong các khối TCTD, trong đó 4/37 ngân hàng
giảm nợ xấu (gồm Saigonbank, VIB, DAB, Eximbank), 33 ngân hàng còn lại đều tăng nợ
xấu với mức cao với 29 ngân hàng có tỷ lệ tăng trên 10%, đặc biệt Ngân hàng Đại Tín
tăng 52.2 lần so với cuối năm trước với mức tăng là 86.4%. 2/3 số ngân hàng trong khối
vẫn đang gia tăng nợ xấu với việc chuyển nhóm nợ theo chiều hướng ngày càng xấu như:
chuyển nợ nhóm 3 lên nhóm 4 có Ngân hàng Đại Tín, Ngân hàng Công Thương, Ngân
hàng Quân Đội, Ngân hàng Nhà Hà Nội, Sacombank, … chuyển từ nợ nhóm 4 lên nhóm
5 có Ngân hàng Ngoại Thương, Ngân hàng Bảo Việt, Ngân hàng Liên Việt … Đến tháng
09 thì nợ xấu của khối NTHM cổ phần chiếm 50% nợ xấu toàn ngành, và nợ nhóm 5

chiếm 38.19% nợ nhóm 5 toàn ngành.
Khối NHTM nhà nước (không bao gồm VDB) nợ xấu tháng 09/2012 tăng 11.507
tỷ đồng với tỷ lệ tăng 30.93%, trong đó cả 4 ngân hàng đều tăng gồm BIDV tăng 52.1%
(đạt 9,894 tỷ đồng); Agribank tăng 26,25% (đạt 38,035 tỷ đồng); MHB tăng 33,91% (đạt
711 tỷ đồng) và Ngân hàng Chính sách tăng 9,93% (đạt 67 tỷ đồng). Trong tháng 09 nợ
nhóm 3 và nhóm 4 của khối tăng cao và nợ nhóm 5 giảm ở cả 4 ngân hàng, trong đó 2
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 21
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
Ngân hàng lớn trong khối là BIDV và Nông nghiệp đang có hiện tượng chuyển dịch
nhóm nợ theo hướng xấu: BIDV tăng nợ nhóm 4 và Nông nghiệp tăng nợ nhóm 3. Trong
khi dư nợ của Khối hiện nay chỉ chiếm 29,13% tổng dư nợ toàn hệ thống thì nợ xấu vẫn
chiếm tới 39,15% tổng nợ xấu và riêng nợ nhóm 5 chiếm 51,29% tổng nợ nhóm 5 toàn
ngành.
Theo báo cáo tài chính của các NHTM thì tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng đều
tăng trong các tháng đầu năm 2012, nợ xấu tăng mạnh ở các Ngân hàng như VCB từ 2%
lên 3.21%, ACB từ 0.9% lên 2.1%, Sacombank từ 0.57% lên 1.4%, BaoVietBank từ
4.56% lên 6.13%, Navibank từ 2.92% lên 3.97%. Trong đó tỷ lệ nợ nhóm 5 có khả năng
mất vốn cao nhất là BaoVietBank 2.93%, LienVietPostbank 1.46%, VCB 1.42%, BIDV
1.22%, KienLongbank 1.36%, MB 1.07%. Xét về số tuyệt đối thì BIDV có nợ nhóm 5
cao nhất là 3,984.4 tỷ đồng, VCB hơn 3,200 tỷ đồng, Vietinbank 2.578 tỷ đổng, ACB
829 tỷ đồng.
Theo ý kiến của các chuyên gia phân tích thì nợ xấu của Ngân hàng chủ yếu đọng
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng và bất động sản do ảnh hưởng của việc
đóng băng của thị trường bất động sản kéo dài trong thời gian qua, tỷ lệ nợ xấu từ lĩnh
vực đầu tư bất động sản có thể lên đến 60% nợ xấu của toàn ngành. Xét về thành phần
kinh tế thì nợ xấu đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng luôn chiếm tỷ trọng cao. Theo
số liệu mới nhất thì khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm 70% nợ xấu của toàn hệ
thống, trong đó các tập đoàn, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu, nguyên nhân được cho
là do khu vực này được hưởng những ưu đãi về tín dụng nên các doanh nghiệp nhà nước

sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn các khu vực khác (theo BTC thì có 30/85 tổng công
ty, tập đoàn có tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu trên 3 lần, trong đó có 7 tập đoàn,
tổng công ty có tỷ lệ này trên 10 lần). Theo số liệu đến tháng 09/2011 thì dự nợ vay của
doanh nghiệp nhà nước lớn là 415.347 tỷ đồng tương đương 16,9% tổng dư nợ cả nước,
trong đó hơn một nửa số nợ tập trung vào 12 tập đoàn kinh tế nhà nước (218.738 tỷ)
chiếm 8,76% tổng dư nợ toàn ngành ngân hàng. Bốn tập đoàn nợ lớn nhất là
PetroVietnam (72.300 tỷ), EVN (62.800 tỷ), Vinacomin (20.500 tỷ) và Vinashin (19.600
tỷ). Tỷ lệ vốn vay so với tổng dư nợ của ngân hàng hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà
nước phải kể đến là Ngân hàng Công Thương 36.4%, BIDV 31%, VCB 26.6%, MB
23.5%. (Nguồn: />GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 22
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
Trong thời gian gần đây, thông tin về tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống các ngân hàng
thương mại Việt Nam được các chuyên gia, nhà quản lý cũng như một số tổ chức đánh
giá tín nhiệm đưa ra rất khác nhau và có dấu hiệu gia tăng. Cụ thể: Theo báo cáo của
Ngân hàng Nhà nước cuối năm 2011 thì nợ xấu so với dự nợ trong toàn hệ thống ngân
hàng mới chỉ là 3,39%; đến 31/5/2012, tổng hợp báo cáo của các tổ chức tín dụng cho
thấy, tỷ lệ nợ xấu khoảng 4,47%; sơ kết hoạt động ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm
2012, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tính
đến ngày 31/3/2012 là 8,6%, tương đương 202.000 tỷ đồng; còn Tổ chức xếp hạng tín
nhiệm Fitch Ratings lại nhận định con số nợ xấu hiện tại của hệ thống ngân hàng Việt
Nam là khoảng 13%; ngày 7/6 vừa qua, tại diễn đàn của Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho rằng, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng khoảng
10%. Theo ý kiến của Ông Nguyễn Hữu Nghĩa, quyền Chánh thanh tra giám sát của
Ngân hàng Nhà nước thì kết quả giám sát của cơ quan thanh tra có sự khác biệt so với
báo cáo của các Ngân hàng là do:
Thứ nhất, các tiêu chí xác định nợ xấu theo quy định hiện hành có bao gồm tiêu
chí định lượng (như: thời gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ,…) và tiêu chí
định tính (chấm điểm, xếp hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng).
Việc bao gồm các tiêu chí định tính và định lượng trong phân loại nợ là phù hợp với

thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, do khoản nợ rủi ro và năng lực quản trị rủi ro của các TCTD
là khác nhau, nên việc sử dụng các tiêu chí định tính trong phân loại nợ dễ dẫn đến sự
thiếu minh bạch trong xác định và ghi nhận nợ xấu của TCTD.
Thứ hai, một số TCTD không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận
nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập DPRR.
Thứ ba, do thiếu thông tin về phân loại nợ của khách hàng tại các TCTD, nên dẫn
đến có sự khác nhau về nhóm nợ của 1 khách hàng quan hệ tại nhiều TCTD
Còn đánh giá Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings đối với nợ xấu của Việt
Nam cao hơn cơ quan thanh tra giám sát có thể là do Fitch Ratings áp dụng tiêu chuẩn
phân loại nợ riêng khác với hệ thống phân loại nợ của Việt Nam hoặc Fitch Ratings chỉ
chọn mẫu điều tra và ước đoán cho toàn bộ hệ thống tín dụng.
Dù các kết quả công bố về nợ cấu của các tổ chức đưa ra là khác nhau, nhưng
thực tế hiện nay ở Việt Nam nợ xấu đang ngày càng tăng cao và được ví như “cục máu
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 23
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
đông” của nền kinh tế, nó làm cho nền kinh tế không hấp thu được vốn dẫn đến không
thể vận hành được nền kinh tế.
2.3Nguyên nhân phát sinh nợ xấu:
2.3.1 Nguyên nhân từ phía NHTM:
- Xuất phát từ những yếu kém trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng, cụ thể:
+ Ngân hàng không nắm được đầy đủ thông tin của khách hàng, việc thu thập
thông tin về khách hàng chủ yếu thông qua hồ sơ vay vốn, báo cáo tài chính
do khách hàng cung cấp, trong khi đó tính chính xác và kịp thời của các tài
liệu này thường không cao. Dẫn đến Ngân hàng không đánh giá được chính
xác năng lực tài chính của khách hàng, khả năng thực hiện dự án vay vốn,
cũng như hiệu quả của phương án vay vốn, Hơn nữa trong quá trình quản lý
một khoản vay việc kiểm tra sử dụng vốn vay còn sơ sài, không nắm được tình
hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, cũng như không đánh giá được
tính hiệu quả của đồng vốn Ngân hàng mang lại Chính vì vậy Ngân hàng có

thể có những nhận định sai về khách hàng vay từ đó ra quyết định cho vay sẽ
dẫn đến rủi ro tín dụng;
+ Việc cho vay chỉ căn cứ vào tài sản đảm bảo mà không đánh giá đến hiệu quả
của phương án vay vốn;
+ Năng lực của một số cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, không am hiểu về
lĩnh vực, ngành nghề đang thẩm định vốn vay để tài trợ do đó dễ dàng bị
khách hàng qua mặt, hoặc bị lừa đảo. Bên cạnh rủi ro nợ xấu cũng xuất phát từ
đạo đức của những người thẩm định cũng như phê duyệt hồ sơ vay vốn;
- Chính sách cho vay của Ngân hàng cũng có thể dẫn đến rủi ro nợ xấu: chính sách
tín dụng của Ngân hàng sẽ là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng,
trường hợp chính sách tín dụng có định hướng không đúng, quá chú trọng cho vay
1 đối tượng “cho tất cả trứng vào một rổ” (ví dụ như chú trọng cho vay vào một
thầnh phần kinh tế, một ngành nghề kinh tế, hoặc một nhóm khách hàng, hoặc một
khu vực địa lý, ), chính sách tín dụng không thống nhất, đồng bộ sẽ tạo ra định
hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dễ dẫn đến rủi ro tín dụng;
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 24
Thực trạng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam từ 2008 đến nay – một số giải pháp hạn chế
và xử lý
- Việc chuyển đổi quá nhanh các NHTM nông thân thành ngân hàng đô thị dẫn đến
năng lực quản trị rủi ro của các NHTM còn nhiều hạn chế: Hầu hết các TCTD
theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi năng lực quản trị rủi ro
của TCTD còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là các NHTMCP
chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị. Các ngân hàng nông thôn tiền thân là các quỹ
tín dụng nhân dân, sau sự kiện đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng nhân dân năm 1988-
1989, một số quỹ tín dụng còn tồn tại đã phát triển và trở thành các ngân hàng
thương mại cổ phần nông thôn. Nhưng trong xu hướng phát triển kinh tế, do sự
hạn chế về thành lập ngân hàng mới, nên nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước
đã tìm cách “thôn tính” các NHTM cổ phần nông thôn thông qua việc mua cổ
phần để trở thành cổ đông chiến lược, rồi từ đó tiếp sức, giúp các ngân hàng này
nhanh chóng chuyển đổi mô hình từ “ngân hàng nông thôn” lên “ngân hàng đô

thị”. Giai đoạn 2005 – 2007 nền kinh tế Việt Nam thăng hoa đặc biệt là trong lĩnh
vực tài chính, chứng khoán, giai đoạn này đã có 13 NHTM nông thôn đã được
chuyển đổi thành NHTM đô thị (ABBank, OceanBank, SHB, NaviBank, GPBank,
KienlongBank, TrustBank, WesternBank, DaiABank, PGBank, MekongDevBank,
). Vốn điều lệ của các ngân hàng này chỉ khoảng vài chục đến vài trăm tỷ đồng
nên trong vòng khoảng 5 năm các Ngân hàng phải tăng vốn điều lệ tối thiểu là
3,000 tỷ đồng vào năm 2011. Hậu quả là các ngân hàng này phải tăng trưởng tài
sản bằng mọi giá để tương ứng với vốn chủ sở hữu tăng thêm nhưng trình độ quản
trị của các ngân hàng này không theo kịp với đà tăng của tài sản dẫn đến chất
lượng tín dụng tại các Ngân hàng này kém. Cụ thể 9 tháng đầu năm tỷ lệ nợ xấu
của các Ngân hàng này là TrustBank 88.06%, GPbank 32.87%, ABBank 6.97%,
WesternBank 6.32%, DaiABank 4.27%, SHB 3.58%;
- Các ngân hàng phân phối một lượng vốn lớn cho các doanh nghiệp là “sân sau”:
Các ngân hàng chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị để tăng vốn chủ sở hữu lớn
trong thời gian ngắn thì buộc phải dựa vào vốn góp của các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước và các doanh nghiệp này trở thành cổ đông của Ngân hàng. Chính vì vậy
rất có thể các NHTM đã trở thành “sân sau” của các doanh nghiệp, huy động vốn
để cho các doanh nghiệp (hoặc công ty con của các doanh nghiệp) vay vốn, từ đó
có thể xuất hiện việc cho vay thiếu cẩn trọng, chủ yếu cho vay dựa vào mối quan
GVHD: PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng Nhóm 13 K22 Đ4 Trang 25

×