Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG của một số BIỆN PHÁP kỹ THUẬT TRỒNG RỪNG THÂM CANH đến NĂNG SUẤT gỗ RỪNG TRỒNG KEO LAI tại HUYỆN bắc QUANG TỈNH hà GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 91 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 3
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 3
1.1.1. Ảnh hưởng của giống đến năng suất rừng trồng thâm canh 3
1.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng, phát triển
của rừng trồng 3
1.1.3. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất rừng trồng Keo lai 5
1.1.4. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến khả năng sinh trưởng và chất lượng
rừng trồng 5
1.1. 5. Tổng quan về cây Keo lai trên Thế giới 6
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam 8
1.2.1. Các nghiên cứu về trồng rừng thâm canh 8
1.2.2. Tổng quan về cây Keo lai tại Việt Nam 14
1.3. Điều kiện tự nhiên - xã hội khu vực nghiên cứu 17
1.3.1. Điều kiện tự nhiên 17
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội: 23
1.3.3. Thực trạng ngành Lâm nghiệp 29
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 31
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 31
2.3. Nội dung nghiên cứu 31
2.4. Phương pháp nghiên cứu 31
2.4.1. Phương pháp luận tổng quát 31
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 32
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
3.1. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến khả năng sinh trưởng và năng suất của


rừng trồng Keo lai 36
3.1.1. Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của D1.3 của cây Keo lai 36
3.1.2. Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây Keo lai 39
3.1.3. Ảnh hưởng của mật độ đến đường kính tán (Dt) của cây Keo lai 41
3.1.4. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất của cây Keo lai 42
3.2. Ảnh hưởng của bón phân đến khả năng sinh trưởng và năng suất của rừng
trồng Keo lai 44
3.2.1. Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng của D1.3 của cây Keo lai 46
i
3.2.2. Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng chiều cao (Hvn) của cây Keo
lai 47
3.2.3. Ảnh hưởng của bón phân đến đường kính tán (Dt) của cây Keo lai 48
3.2.4. Ảnh hưởng của bón phân đến năng suất của rừng trồng cây Keo lai 49
3.3. Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến khả năng sinh trưởng và năng suất của
rừng trông keo lai 51
3.3.1. Ảnh hưởng của thời vụ trồng rừng đến sinh trưởng đường kính D1.3 của
cây Keo lai 52
3.3.2. Ảnh hưởng của thời vụ trồng rừng đến sinh trưởng chiều cao Hvn của
cây Keo lai 55
3.3.3. Ảnh hưởng của thời vụ trồng rừng đến sinh trưởng đường kính tán (Dt)
của cây Keo lai 57
3.3.4. Ảnh hưởng của thời vụ trồng rừng đến sinh trưởng năng suất của cây
Keo lai 58
3.4. Đề xuất các biện pháp kỹ thuật nâng cao năng suất trong trồng rừng keo lai
thâm canh 62
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64
Kết luận 64
Kiến nghị 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung
Bộ NN&PTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
G
:
Tổng tiết diện ngang
D
1.3
:
Đường kính ở vị trí 1.3m
H
vn
:
Chiều cao vút ngọn
D
t
:
Đường kính tán
RCFTI
:
Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng
X
:
Nhóm đất xám
F
:
Nhóm đất đỏ
P
:
Nhóm đất phù sa

GL
:
Nhóm đất glay
R
:
Nhóm đất đen
V
:
Nhóm đất tích vôi
A
:
Nhóm đất mùn Alit
ÔTC
:
Ô tiêu chuẩn
VS
:
Phân vi sinh
R
:
Hệ số tương quan
Sig.
:
Xác suất (mức ý nghĩa) của tiêu chuẩn kiểm tra
1
:
Độ dày tầng đất cấp I > 100cm, kết von đá lẫn ở tầng
A và B < 50%
2
:

Độ dày tầng đất cấp II : 50 - 100cm, kết von đá lẫn < 50%
3
:
Độ dày tầng đất cấp III < 50cm, kết von đá lẫn > 40%
TLS : Tỷ lệ sống
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Ảnh hưởng của mật độ đến đường kính D1.3 của cây Keo
lai 37
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao (Hvn) của cây Keo
lai 39
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của mật độ đến đường kính tán (Dt) của cây
Keo lai 41
iii
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất (M) của cây Keo lai
42
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng đường kính
(D1.3) của cây Keo lai 46
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng chiều cao (Hvn)
của cây Keo lai 47
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng đường kính (Dt)
của cây Keo lai 48
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của bón phân đến năng suất (M) rừng trồng
cây Keo lai 49
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của thời vụ đến đường kính D1.3 của cây Keo
lai 53
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của thời vụ trồng rừng đến chiều cao Hvn của
cây Keo lai 55
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của thời vụ trồng rừng đến sinh trưởng đường
kính (Dt) của cây Keo lai 58
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của thời vụ trồng rừng đến năng suất (M) của

cây Keo lai 58
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Sơ đồ vị trí huyện Bắc Quang
Hình 3.1: Biểu đồ sinh trưởng đường kính D1.3 của các công thức mật
độ Keo lai tuổi 5
39
Ảnh 3.3: Keo lai 5 tuổi trồng ở công thức mật độ 2.000
Hình 3.2: Biểu đồ sinh trưởng chiều cao Hvn của các công thức mật độ
của cây Keo lai 5 tuổi
Hình 3.3: Biểu đồ trữ lượng của các công thức mật độ Keo lai tuổi 5
Hình 3.4. Biểu đồ khối lượng của các công thức phân bón
Ảnh 3.4: Keo lai 5 năm tuổi trồng ở công thức bón phân tốt nhất
Ảnh 3.5: Keo lai 5 năm tuổi trồng ở công thức đối chứng
Hình 3.5: Biểu đồ sinh trưởng D1.3 công thức thí nghiệm thời vụ tại
Lâm trường Ngòi Sảo - huyện Bắc Quang
Hình 3.6: Biểu đồ sinh trưởng Hvn công thức thí nghiệm vụ tại Lâm
trường Ngòi Sảo - huyện Bắc Quang
Hình 3.7: Biểu đồ trữ lượng gỗ cây đứng của các công thức thí nghiệm
thời vụ tại Lâm trường Ngòi Sảo - huyện Bắc Quang
Ảnh 3.6: Keo lai 5 tuổi Trồng thâm canh giữa mùa mưa
Ảnh 3.7: Keo lai 5 tuổi trồng bán thâm canh giữa mùa mưa (Đối chứng
thời vụ trồng)
v
DANH MỤC CÁC ẢNH
Ảnh 3.1: Keo lai 5 tuổi trồng ở công thức mật độ1.330
Reference source not found
Ảnh 3.2: Keo lai 5 tuổi trồng ở công thức mật độ 1.660
Reference source not found
Ảnh 3.3: Keo lai 5 tuổi trồng ở công thức mật độ 2.000.

Reference source not found
Ảnh 3.4: Keo lai 5 năm tuổi trồng ở công thức bón phân tốt nhất
Reference source not found
Ảnh 3.5: Keo lai 5 năm tuổi trồng ở công thức đối chứng
Reference source not found
Ảnh 3.6: Keo lai 5 tuổi Trồng thâm canh giữa mùa mưa
Reference source not found
Ảnh 3.7: Keo lai 5 tuổi trồng bán thâm canh giữa mùa mưa (Đối
chứng thời vụ trồng) Error: Reference source not found
vi
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, nhu cầu gỗ cho xây dựng và
các nhu cầu khác trên thị trường nội địa cũng được dự báo sẽ liên tục tăng. Để
đáp ứng nhu cầu sử dụng gỗ ngày càng tăng của xã hội, ngành Lâm nghiệp đã
đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp lựa chọn các loài cây mọc nhanh
và các biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh để nâng cao năng suất và chất
lượng rừng trồng. Một trong những loài cây nguyên liệu có khả năng sinh trưởng
nhanh được đề cập đến đó là cây Keo lai (Acacia hybrids) là kết quả lai của Keo
tai tượng (Acacia mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Cây Keo lai
là 1 trong 48 loài cây trồng chính để trồng rừng sản xuất đã được Bộ Nông
nghiệp và PTNT công nhận tại Quyết định số 16/2005/QĐ-BNN ngày
15/03/2005. Keo lai không chỉ là giống có ưu thế sinh trưởng nhanh, biên độ
sinh thái rộng, có khả năng thích ứng với nhiều loại đất mà còn có khả năng
cải tạo đất, cải thiện môi trường sinh thái. Gỗ Keo lai được sử dụng làm ván
sàn, ván dăm, trụ mỏ và đặc biệt hơn cả là được sử dụng nhiều trong công
nghiệp giấy. Keo lai có khối lượng gỗ lấy ra lớn gấp 2-3 lần Keo tai tượng và
Keo lá tràm, hàm lượng xenlulô trong gỗ cao, lượng lignin thấp, do đó có hiệu
suất bột giấy lớn, chất lượng bột giấy tốt. Tại huyện Bắc Quang - tỉnh Hà
Giang, trong những năm qua công tác trồng rừng đã được các cấp chính

quyền và người dân quan tâm nhiều hơn, diện tích rừng trồng tăng lên đáng
kể, đặc biệt là rừng sản xuất.
Trong những năm gần đây, tỉnh Hà Giang đã có chủ trương đẩy mạnh
công tác trồng rừng sản xuất và trong những loài cây trồng chính được lựa
chọn là cây Keo lai. Mặc dù diện tích đất trồng rừng sản xuất lớn, nhưng theo
đánh giá sơ bộ của Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Hà Giang thì lượng tăng
trưởng bình quân hàng năm chỉ đạt khoảng 14 - 16m
3
/ha/năm. Với lượng tăng
1
trưởng như vậy thì khả năng đáp ứng nhu cầu về gỗ nguyên liệu cho địa
phương và cho xuất khẩu là không đủ. Do đó, cần phải nâng cao được năng
suất. Để đáp ứng được các yêu cầu trên cần phải lựa chọn giống tốt, điều kiện
lập địa và áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh phù hợp. Vì vậy việc
“Đánh giá ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm
canh đến năng suất gỗ rừng trồng Keo lai ở huyện Bắc Quang tỉnh Hà
Giang” là hết sức cần thiết và cấp bách. Mục tiêu của đề tài là xác định được
ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh nhằm nâng
cao năng suất gỗ rừng trồng Keo lai đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu cho sản
xuất và xuất khẩu là hết sức cấp thiết và cấp bách.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Xác định được một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh cây
Keo lai nhằm nâng cao năng suất làm cơ sở để phát triển mở rộng mô hình
góp phần đáp ứng nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng
thâm canh cây Keo lai.
- Đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng xuất gỗ trong
trồng rừng Keo lai thâm canh.

2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng là một hệ thống các
biện pháp kỹ thuật bao gồm từ khâu chọn tạo giống đến trồng rừng, chăm sóc
rừng trồng, quản lý bảo vệ rừng trồng cho đến khi khai thác sử dụng. Hệ
thống các biện pháp kỹ thuật này đã được các nhà khoa học nhiều nước trên
thế giới quan tâm nghiên cứu, điển hình là một số công trình được phân chia
thành các chuyên đề sau:
1.1.1. Ảnh hưởng của giống đến năng suất rừng trồng thâm canh
Giống là một trong những khâu quan trọng nhất của trồng rừng thâm
canh. Mục đích của cải thiện giống cây rừng là nhằm không ngừng nâng cao
năng suất, chất lượng gỗ và các sản phẩm mong muốn khác từ rừng. Trên thế
giới đã có rất nhiều nước đi sâu nghiên cứu về vấn đề này điển hình là các
nước: Công Gô, Brazin, Swaziland, Malayxia, Zimbabwe…
Ở Công Gô, bằng phương pháp lai nhân tạo đã tạo ra giống Bạch đàn lai
(Eucalyptus hybrids) có năng suất đạt tới 35m
3
/ha/năm ở giai đoạn 7 năm tuổi [32].
Tại Brazin, bằng con đường chọn lọc nhân tạo đã chọn được giống
Bạch đàn Eucalyptus grandis có năng suất đạt tới 55m
3
/ha/năm sau 7 năm
trồng (Welker, 1986) [43]. Tại Swaziland cũng đã chọn được giống Thông
Pinus patula sau 15 năm tuổi đạt năng suất 19m
3
/ha/năm (Pandey, 1983) [39].
Ở Zimbabwe cũng đã chọn được giống Bạch đàn Eucalyptus grandis đạt từ
35m

3
- 40m
3
/ha/năm, giống Bạch đàn E.urophylla đạt trung bình tới 55
m
3
/ha/năm, có nơi lên tới 70 m
3
/ha/năm (Campinhos và Ikemori, 1988) [33].
1.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng, phát
triển của rừng trồng
Kết quả nghiên cứu của FAO (1994) [34] ở các nước vùng nhiệt đới đã
chỉ ra rằng: khả năng sinh trưởng của rừng trồng, đặc biệt là rừng trồng cây
3
nguyên liệu công nghiệp phụ thuộc rất rõ vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan đến
điều kiện lập địa là khí hậu, địa hình, loại đất và hiện trạng thực bì.
Một số công trình nghiên cứu về điều kiện lập địa cũng đã cho thấy
rằng đất đai ở vùng nhiệt đới rất khác nhau về nguồn gốc và lịch sử phát triển.
Julian Evans (1992) [37] đánh giá khả năng sinh trưởng của loài Thông Pinus
patula ở Swziland, đã chứng minh khả năng sinh trưởng về chiều cao của loài
Thông này có quan hệ khá chặt (R=0,81) với các yếu tố địa hình và đất thông
qua phương trình tương quan sau:
Y = -18,75 + 0,0544 x 3 - 0,000022 x32 + 0,0185 x4 + 0,0449 x5 + 0,5346 x11
Trong đó:
Y: Chiều cao vút ngọn tại thời điểm 12 tuổi (m)
x3: Độ cao so với mặt nước biển (m)
x4: Độ dốc chênh lệch giữa đỉnh đồi và chân đồi (%)
x5: Độ dốc tuyệt đối của khu trồng rừng (%)
x11: Độ phì của đất đã được xác định.
Cùng với đó, tác giả cũng đã kết luận khí hậu có ảnh hưởng khá rõ đến

năng suất rừng trồng, đặc biệt là sự ảnh hưởng của tổng lượng mưa bình quân
hàng năm, sự phân bố lượng mưa trong năm, lượng bốc hơi và nhiệt độ không
khí.
Kết quả nghiên cứu của Pandey. D (1983) [39] về loài Bạch đàn
Eucalyptus camaldulensis được trồng trên các điều kiện lập địa khác
nhau đã cho thấy nếu trồng ở vùng nhiệt đới khô với chu kỳ kinh doanh
từ 10 - 20 năm thì năng suất chỉ đạt từ 5-10 m
3
/ha/năm, nhưng trồng ở
vùng nhiệt đới ẩm thì năng suất có thể đạt tới 30 m
3
/ha/năm. Kết quả này
lại một lần nữa khẳng định điều kiện lập địa khác nhau thì năng suất
rừng trồng cũng khác nhau.
Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy việc xác định vùng trồng và
điều kiện lập địa phù hợp với từng loài cây trồng là rất cần thiết và đây cũng
chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất và chất
lượng của rừng trồng.
4
1.1.3. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất rừng trồng Keo lai.
Bón phân cho cây trồng lâm nghiệp là một trong những biện pháp kỹ
thuật thâm canh nhằm nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng, đặc biệt là
ở những nơi đất xấu. Trên thế giới, việc áp dụng bón phân cho rừng trồng bắt
đầu từ những năm 1950. Trong vòng 1 thập kỷ, diện tích rừng được bón phân
đã tăng lên 100.000 ha/năm ở Nhật Bản, Thụy Điển và Phần Lan. Về vấn đề
này đã có nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm và đi sâu nghiên cứu,
điển hình là công trình nghiên cứu của Mello (1976) [38] ở Brazin, tác giả
cho thấy Bạch đàn (Eucalyptus) sinh trưởng khá tốt ở công thức không bón
phân, nhưng nếu bón phân NPK thì năng suất rừng trồng có thể tăng lên trên
50%. Một nghiên cứu khác của Schonau (1985) [44] ở South Africa về vấn đề

bón phân cho Bạch đàn Eucalyptus grandis đã kết luận công thức bón 150g
NPK/gốc với tỷ lệ N:P:K = 3:2:1 có thể nâng chiều cao trung bình của rừng
trồng lên gấp 2 lần sau năm thứ nhất. Tại Colombia, Bolstand và cộng sự
(1988) [31] cũng đã tìm thấy một vài loại phân có phản ứng tích cực đối với
rừng trồng Thông P. caribeae. Tại Cu Ba, cũng với đối tượng là rừng Thông
P. caribeae, khi nghiên cứu các công thức bón phân cho đối tượng mà
Herrero và cộng sự (1988) [36] đã kết luận bón phân Phosphate sau 13 năm
trồng nâng cao sản lượng rừng từ 56 m
3
/ha lên 69 m
3
/ha.
Tóm lại, bón phân cho rừng trồng mang lại những hiệu quả rõ rệt: nâng cao
tỷ lệ sống, tăng sức đề kháng của cây đối với các điều kiện bất lợi của môi trường,
tăng sinh trưởng, nâng cao sản lượng rừng trồng.
1.1.4. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến khả năng sinh trưởng và chất
lượng rừng trồng
Mật độ trồng rừng ban đầu cũng là một trong những biện pháp kỹ thuật
lâm sinh quan trọng có ảnh hưởng đến năng suất rừng trồng. Đối với mỗi
dạng lập địa, mỗi loài cây trồng, mỗi mục đích kinh doanh rừng đều có cách
sắp xếp, bố trí mật độ khác nhau. Về vấn đề này đã có rất nhiều các công trình
nghiên cứu với nhiều loài cây khác nhau trên các dạng lập địa khác nhau, điển
5
hình là các công trình nghiên cứu của Julian Evans (1992) [37] tác giả khi
nghiên cứu mật độ trồng rừng cho Bạch đàn E. deglupta ở Papua New Guinea
đã bố trí 4 công thức có mật độ trồng khác nhau (2.985 cây/ha; 1.680 cây/ha;
1.075 cây/ha; 750 cây/ha), số liệu thu được sau 5 năm trồng cho thấy đường
kính bình quân của các công thức thí nghiệm tăng theo chiều giảm của mật
độ, nhưng tổng tiết diện ngang (G) lại tăng theo chiều tăng của mật độ, điều
này có nghĩa là rừng trồng ở mật độ thấp tuy lượng tăng trưởng về đường

kính cao hơn nhưng trữ lượng gỗ cây đứng vẫn nhỏ hơn những công thức
trồng ở mật độ cao. Trong một nghiên cứu khác với thông P. caribeae ở
Quensland - Australia, tác giả cũng đã thí nghiệm với 5 công thức mật độ
khác nhau (2.200 cây/ha; 1.680 cây/ha; 1.330 cây/ha; 1.075 cây/ha và 750
cây/ha), sau hơn 9 năm trồng cũng thu được kết quả tương tự, nhưng ở các
công thức trồng mật độ thấp (750 cây/ha - 1.075 cây/ha) có đường kính trung
bình đạt từ 20,1 - 20,9cm, số cây đạt đường kính (D1.3) > 10cm chiếm từ
84% - 86%; Ở công thức mật độ cao đường kính chỉ đạt từ 16,6 - 17,8cm, số
cây có đường kính (D
1.3
) > 10cm chỉ chiếm từ 71% - 76%.
Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy mật độ trồng ảnh hưởng khá rõ
đến chất lượng sản phẩm và chu kỳ kinh doanh, vì vậy cần phải căn cứ vào
mục tiêu kinh doanh cụ thể để xác định mật độ trồng cho thích hợp.
1.1. 5. Tổng quan về cây Keo lai trên Thế giới
Keo lai là tên gọi tắt của giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng (Acacia
mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Giống Keo lai tự nhiên này
được phát hiện đầu tiên bởi Messir Herbern và Shim vào năm 1972 trong số
các cây Keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah,
Malaysia. Năm 1976, M.Tham đã kết luận thông qua việc thụ phấn chéo giữa
Keo Tai tượng và Keo lá tràm tạo ra cây Keo lai có sức sinh trưởng nhanh hơn
giống bố mẹ. Ngoài ra, Keo lai tự nhiên còn được phát hiện ở vùng Balamuk và
Old Tonda của Papua New Guinea (Turnbull, 1986, Gun và cộng sự, 1987,
6
Griffin, 1988), ở một số nơi khác tại Sabah (Rufelds, 1987) và Ulu Kukut (Darus
và Rasip, 1989) của Malaysia, ở Muak-Lek thuộc tỉnh Saraburi của Thái Lan
(Kijkar, 1992). Giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng với Keo lá tràm đã được
phát hiện ở cả rừng tự nhiên lẫn rừng trồng và đều có một số đặc tính vượt trội
với bố mẹ, sinh trưởng nhanh, cành nhánh nhỏ, thân đơn trục với đoạn thân dưới
cành lớn.

Nghiên cứu về hình thái cây Keo lai có thể kể đến các công trình
nghiên cứu của Rufelds (1988) [41]; Gan.E và Sim Boom Liang (1991) [35]
các tác giả đã chỉ ra rằng: Keo lai xuất hiện lá giả (Phyllode) sớm hơn Keo tai
tượng nhưng muộn hơn Keo lá tràm. Ở cây con lá giả đầu tiên của Keo lá
tràm thường xuất hiện ở lá thứ 4-5, Keo tai tượng thường xuất hiện ở lá thứ 8-
9 còn ở Keo lai thì thường xuất hiện ở lá thứ 5-6. Bên cạnh đó là sự phát hiện
về tính chất trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm ở các bộ phận sinh
sản (Bowen, 1981) [32].
Theo nghiên cứu của Rufeld (1987) [42] thì không tìm thấy một sự sai
khác nào đáng kể của Keo lai so với các loài bố mẹ. Các tính trạng của chúng
đều thể hiện tính trung gian giữa hai loài bố mẹ mà không có ưu thế lai thật
sự. Tác giả đã chỉ ra rằng Keo lai hơn Keo tai tượng về độ tròn đều của thân,
có đường kính cành nhỏ hơn và khả năng tỉa cành tự nhiên khá hơn Keo tai
tượng, song độ thẳng thân, hình dạng tán lá và chiều cao dưới cành lại kém
hơn Keo tai tượng. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Pinso Cyril và
Robert Nasi, (1991) [40] thì trong nhiều trường hợp cây Keo lai có xuất xứ ở
Sabah vẫn giữ được hình dáng đẹp của Keo tai tượng. Về ưu thế lai thì có thể
có nhưng không bắt buộc vì có thể bị ảnh hưởng của cả 02 yếu tố di truyền
lẫn điều kiện lập địa. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng sinh trưởng của Keo lai
tự nhiên đời F1 là tốt hơn, còn từ đời F2 trở đi cây sinh trưởng không đồng đều
và trị số trung bình còn kém hơn cả Keo tai tượng. Khi đánh giá về các chỉ tiêu
chất lượng của cây Keo lai, Pinso và Nasi (1991) [40] thấy rằng độ thẳng của
thân, đoạn thân dưới cành, độ tròn đều của thân,…đều tốt hơn giống bố mẹ và
7
cho rằng Keo lai rất phù hợp với các chương trình trồng rừng thương mại.
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Cây Keo lá tràm và Keo tai tượng được nhập vào nước ta từ những năm
1960 nhưng mãi đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước, giống Keo lai mới
được phát hiện và tập trung nghiên cứu từ các khâu chọn tạo giống cho đến
trồng rừng, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu điển hình sau:

1.2.1. Các nghiên cứu về trồng rừng thâm canh
Vào những năm 1980, bên cạnh các nước có lịch sử phát triển rừng
theo hướng thâm canh như: Đức,Ý, Thụy Điển,…thì ở Việt Nam vấn đề này
cũng bắt đầu được quan tâm và đưa ra thảo luận, điển hình là các tác giả
Nguyễn Xuân Xuyên (1985), Phạm Chiến (1986), Vũ Đình Huề (1986),
Phùng Ngọc Lan (1986).
Theo Phùng Ngọc Lan (1986) [21], thâm canh rừng trồng là nhằm bảo
vệ và sử dụng triệt để các điều kiện về tài nguyên, khí hậu, đất đai, sinh vật và
áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại có liên quan để nâng cao
năng suất rừng và hiệu quả kinh tế. Thâm canh rừng đòi hỏi một hệ thống các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh tổng hợp liên hoàn từ khâu chọn loài cây trồng,
chọn giống, kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, tỉa thưa dựa trên mô hình mật độ
tối ưu cho đến đảm bảo tái sinh trong khai thác.
Theo Nguyễn Xuân Quát (1995) [24], trồng rừng thâm canh là một
phương thức canh tác dựa trên cơ sở được đầu tư cao bằng việc áp dụng các
biện pháp kỹ thuật tổng hợp và liên hoàn. Các biện pháp được tăng cường đầu
tư đó phải tận dụng, cải tạo và phát huy được mọi tiềm năng của tự nhiên
cũng như của con người nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sinh trưởng và phát triển
của rừng trồng để thu được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt với giá
thành hạ để cho hiệu quả lớn. Đồng thời cũng phải duy trì và bồi dưỡng được
tiềm năng đất đai và môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển trồng rừng ổn
định, lâu dài và bền vững.
Đến giai đoạn 2001-2005, đáng chú ý là công trình nghiên cứu cấp Nhà
8
nước của Nguyễn Huy Sơn (2006) [27], kết quả bước đầu đã cho thấy có thể nâng
cao năng suất của rừng trồng từ 20 m
3
/ha/năm lên đến 36m3/ha/năm ở khu vực
Đông Nam Bộ và dự đoán lên đến 30 m
3

/ha/năm ở khu vực Đông Bắc Bộ. Tuy
nhiên, rừng trồng mới được 3 - 4 năm tuổi nên cần phải tiếp tục theo dõi thêm cho
các năm cuối của chu kỳ kinh doanh để có những kết luận chính xác hơn.
Trong các nghiên cứu của Đoàn Hoài Nam (2006) [23] khi đánh giá về
rừng trồng thâm canh tại một số tỉnh Thái Nguyên, Quảng Trị, Gia Lai, Bình
Dương đã chỉ ra rằng chi phí chung cho 01 ha trồng rừng thâm canh Keo lai
cao gấp đôi so với đầu tư trong chương trình trồng rừng sản xuất theo Quyết
định số 661/QĐ-TTg ngày 29 tháng 7 năm 1998 về mục tiêu, nhiệm vụ, chính
sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và gấp 1,5 lần so
với phương thức trồng rừng bán thâm canh hoặc quảng canh. Tuy nhiên, trên
thực tế trồng rừng thâm canh đã mang lại hiệu quả cao hơn nhiều so với các
phương thức trồng rừng khác. Nếu trồng rừng bằng các loài cây mọc nhanh
theo phương thức quảng canh thì chu kỳ kinh doanh thường dài trên 10 năm
mà năng suất chỉ đạt 7 - 10 m
3
/ha/năm, nhưng nếu trồng rừng thâm canh thì
sau từ 7 - 8 năm đã có thể khai thác gỗ với năng suất đạt từ 25 - 30
m
3
/ha/năm. Điều này cho thấy vốn bỏ ra ban đầu được thu hồi sớm hơn, vòng
quay nhanh hơn nên hiệu quả đầu tư vốn cũng cao hơn, thời gian thu hoạch
sản phẩm được rút ngắn nên đất đai được giải phóng sớm để tiếp tục trồng
rừng cho chu kỳ sau sớm hơn (Nguyễn Huy Sơn và cộng sự, 2006) [28].
1.2.1.1. Nghiên cứu cải thiện giống
Giống là một trong những khâu quan trọng nhất của trồng rừng thâm
canh. Không có giống được cải thiện theo mục đích kinh tế thì không thể đưa
năng suất rừng lên cao. Trong thực tế đã cho thấy, cây rừng nói chung nếu
chọn được giống tốt thì sản lượng gỗ có thể tăng từ 10-20%, có khi tăng tới
30% so với giống bình thường. Đối với giống lai đã được chọn lọc của các
loài cây mọc nhanh có thể tăng từ 50-100% sản lượng gỗ so với giống bố mẹ.

Vì vậy, cải thiện giống cây rừng là nhằm không ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng gỗ và các sản phẩm mong muốn khác. Năm 1993, Bộ Lâm nghiệp
9
(nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT) đã có Quyết định ban hành "Qui phạm xây
dựng rừng giống và vườn giống", "Qui phạm xây dựng rừng giống chuyển
hóa", trong đó qui định rõ các tiêu chuẩn về chọn lọc xuất xứ giống và cây
giống cũng như các phương thức khảo nghiệm giống và xây dựng rừng giống,
vườn giống (Lê Đình Khả, 2003) [18].
Từ năm 1980 trở lại đây hoạt động cải thiện giống cây rừng mới được
đẩy mạnh trong cả nước. Các hoạt động trong thời gian đầu chủ yếu là khảo
nghiệm loài và xuất xứ các loài cây trồng rừng chủ yếu ở một số vùng sinh
thái chính trong nước như Bạch đàn, Keo, Phi lao…Vào đầu những năm
1990, việc phát hiện ra giống Keo lai tự nhiên giữa Keo lá tràm và Keo tai
tượng đã thúc đẩy các hoạt động khảo nghiệm chọn lọc nhân tạo và nhân
giống vô tính phát triển. Trong những năm gần đây, Trung tâm nghiên cứu
giống cây rừng thuộc Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Trung tâm phát
triển lâm nghiệp Phù Ninh thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam cùng một số
cơ sở nghiên cứu lâm nghiệp các tỉnh đã nghiên cứu thành công lai giống
nhân tạo cho các loài Keo, Bạch đàn và Thông (Lê Đình Khả, 2003) [18].
Trong khoảng hơn 10 năm gần đây, công tác nghiên cứu cải thiện giống đã
đạt được những thành tựu đáng kể. Từ khảo nghiệm hàng chục giống Keo lai
đã có 4 dòng có năng suất cao và thích hợp với nhiều vùng sinh thái đã được
Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật và giống quốc
gia là BV10; BV16; BV32; BV33 (Lê Đình Khả, 1999) [17]. Gần đây một số
dòng khác cũng đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống tiến bộ
kỹ thuật là BV71; BV73; BV75; TB3; TB5; TB6; TB12; BT1; BT7; BT11;
KL2; KL20; KLTA3 (Lê Đình Khả, 2006) [11].
Lai giống nhân tạo giữa các cây trội đã được chọn lọc từ các xuất xứ có
triển vọng nhất của Keo tai tượng và Keo lá tràm cùng một số dòng Keo lai tự
nhiên như BV10, BV16, BV32, BV33 đã được thực hiện trong các năm 1997-

1999 tại Ba Vì (Hà Tây cũ), từ thụ phấn có kiểm soát đã thu được 10 tổ hợp
lai đầu tiên. Những tổ hợp lai này có sinh trưởng tương đối nhanh, có thân cây
thẳng, cành nhánh nhỏ, ngọn phát triển tốt, đây chính là cơ sở khoa học làm
10
tiền đề để phát triển gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước
cũng như xuất khẩu trong những năm tới (Lê Đình Khả, 2006) [11].
1.2.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng.
Nghiên cứu điều kiện lập địa tức là nghiên cứu mối quan hệ giữa khả
năng sinh trưởng của thực vật rừng với các yếu tố của môi trường thông qua
khí hậu, địa hình, đất đai. Xác định lập địa nghĩa là tìm hiểu các yếu tố
ngoại cảnh ảnh hưởng và quyết định tới sự hình thành các kiểu quần thể
thực vật khác nhau và năng suất sinh trưởng của chúng (Ngô Quang Đê và
cộng sự, 2001) [7]. Đề cập đến vấn đề này, tại Việt Nam đã có khá nhiều
các công trình nghiên cứu, điển hình là các công trình nghiên cứu của Đỗ
Đình Sâm và cộng sự (1994) [26], khi đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm
nghiệp vùng Đông Nam Bộ, các tác giả đã căn cứ vào 3 nội dung cơ bản có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau đó là đơn vị sử dụng đất, tiềm năng sản xuất
của đất và độ thích hợp của cây trồng. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng
vùng Đông Nam Bộ có tiềm năng sản xuất kinh doanh lâm nghiệp khá lớn,
diện tích đất thích hợp để phát triển các loài cây lâm nghiệp chiếm từ 70-
80%, đặc biệt là các loài cây cung cấp gỗ nguyên liệu công nghiệp như một
số loài Bạch đàn và Keo [26].
Khi nghiên cứu phương pháp đánh giá về sản lượng rừng trồng Keo lai
ở vùng Đông Nam Bộ, Phạm Thế Dũng và Hồ Văn Phúc (2004) [4] đã chỉ ra
rằng Keo lai cho năng suất khác nhau trên các điều kiện lập địa khác nhau.
Sau 7 năm trồng, năng suất cao nhất đạt 33 m
3
/ha/năm trên đất feralit đỏ vàng
nền Sa thạch ở trạm Phú Bình, sau 6 năm trồng chỉ đạt 25 m
3

/ha/năm trên đất
xám nền Phù sa cổ ở trạm Bầu Bàng. Như vậy, trên các loại đất khác nhau thì
khả năng sinh trưởng cũng khác nhau, mặc dù được áp dụng các thuật thâm
canh như nhau nhưng trên đất feralit đỏ vàng Keo lai sinh trưởng tốt hơn trên
đất xám phù sa cổ.
Tóm lại, xác định điều kiện lập địa thích hợp cho mỗi loài cây trồng là
một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao năng suất rừng trồng.
1.2.1.3. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất rừng trồng
11
Bón phân cho cây rừng là một trong những biện pháp kỹ thuật thâm
canh quan trọng nhằm làm ổn định, tăng năng suất rừng trồng. Trên thực tế
cho thấy, bón phân nhằm bổ sung dinh dưỡng cho đất và hỗ trợ cho cây trồng
sinh trưởng nhanh chóng trong giai đoạn đầu, làm tăng sức đề kháng của cây
đối với các điều kiện bất lợi của môi trường. Ở các nước có nền Lâm nghiệp
phát triển cao đều áp dụng bón phân cho rừng trồng và đạt được chỉ số sử
dụng phân bón cao, từ 40 - 50% đối với phân đạm và khoảng 30% đối với
phân lân (Ngô Đình Quế, 2004) [25].
Tại Việt Nam, về vấn đề này đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên
cứu, điển hình có công trình nghiên cứu bón phân cho Keo lai ở Cẩm Quỳ (Ba
Vì - Hà Tây cũ) của Lê Đình Khả, Hồ Quang Vinh (1998) [19]. Các thí
nghiệm được thực hiện trên đất feralit phát triển trên đá mẹ Sa thạch có tầng
đất mỏng (30 - 50cm), tầng đá ong nông có nơi chỉ cách mặt đất 30cm, pH
Kcl = 3,5 - 4,7, nghèo đạm (0,12 - 0,18%), thiếu lân và can xi. Thí nghiệm
được tiến hành với biện pháp thâm canh cày đất toàn diện và bón phân với 8
công thức bón phân khác nhau. Kết quả là công thức bón phân phối hợp 2kg
phân chuồng với 100gam phân Themophotphat cho 1 gốc cây thì cho sinh
trưởng tốt nhất, tiếp theo là công thức bón 1 kg phân chuồng với 100 gam
Themophotphat cho 1 gốc cây. Sinh trưởng của Keo lai ở 2 công thức này sau
3 năm trồng có thể tích vượt trội so với công thức đối chứng là 78,7 - 45,3%.
Trong một nghiên cứu khác với 14 ô tiêu chuẩn của rừng trồng Keo lai

từ 1,5 - 5,5 năm tuổi ở 5 tỉnh khác nhau, Nguyễn Đức Minh và cộng sự (2004)
[22] đã chỉ ra rằng rừng trồng được bón phân tốt hơn rừng trồng không được
bón phân mặc dù Keo lai là cây cố định đạm. Tuy nhiên, ở giai đoạn rừng non
cũng cần bón một lượng phân nhất định để thúc đẩy quá trình sinh trưởng.
Ngoài ra, tác giả còn cho thấy rừng trồng Keo lai được bón lót 100g NPK/cây
và bón thúc 100g NPK/cây vào năm thứ 2 cho lượng tăng trưởng cao hơn
rừng chỉ bón lót khi trồng.
Như vậy, bón phân cho rừng trồng là một trong những biện pháp kỹ
thuật thâm canh đã được nghiên cứu nhiều nhất. Hầu hết các tác giả đều kết
12
luận rằng phân bón có ảnh hưởng khá rõ đến sinh trưởng của các loài cây
trồng, đặc biệt là đối với các loài cây trồng rừng nguyên liệu. Tuy nhiên, để
tăng cường hiệu lực của phân bón thì điều quan trọng là phải bón đúng loại
phân, đúng thời vụ và đúng liều lượng cùng với kỹ thuật hợp lý.
1.2.1.4. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất và chất lượng rừng trồng
Mật độ trồng rừng là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất
và chất lượng của rừng trồng. Nếu mật độ quá cao sẽ ảnh hưởng xấu tới khả
năng sinh trưởng của cây trồng, nếu mật độ quá thấp sẽ lãng phí đất và tốn
công chăm sóc. Để tận dụng tối đa không gian dinh dưỡng thì việc xác định
mật độ trồng rừng ban đầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm làm giảm chi
phí trồng rừng và nâng cao năng suất rừng trồng như mong muốn.
Mật độ trồng rừng của mỗi loài cây trên mỗi loại lập địa khác nhau với
mục đích kinh doanh khác nhau là không giống nhau. Để làm rõ vấn đề này,
Phạm Thế Dũng và các cộng sự (2004) [5] khi đánh giá năng suất rừng trồng
Keo lai ở vùng Đông Nam Bộ, đã khảo sát trên 4 mô hình có mật độ trồng
ban đầu khác nhau (952 cây/ha, 1.111 cây/ha, 1.142 cây/ha và 1.666 cây/ha).
Kết quả phân tích cho thấy, sau 3 năm trồng cho năng suất cao nhất ở rừng có
mật độ 1.666 cây/ha (21 m
3
/ha/năm); năng suất thấp nhất ở rừng có mật độ

952 cây/ha (9,7 m
3
/ha/năm). Tác giả đã khuyến cáo rằng đối với Keo lai ở khu
vực Đông Nam Bộ nên bố trí mật độ ban đầu trong khoảng 1.111 cây/ha -
1.666 cây/ha là thích hợp nhất. Đối với rừng trồng làm nguyên liệu giấy nên
thiết kế mật độ trồng ban đầu là 1.428 cây/ha; rừng trồng phục vụ cho mục
đích lấy gỗ nhỡ và nhỏ nên trồng với mật độ 1.111 cây/ha. Tại một nghiên
cứu khác của Nguyễn Huy Sơn (2006) [28] về xác định mật độ trồng Keo lai
thích hợp trên đất feralit phát triển trên phiến thạch sét ở Quảng Trị. Các thí
nghiệm được bố trí với 3 công thức mật độ khác nhau (1.330 cây/ha, 1.660
cây/ha, 2.500 cây/ha). Kết quả phân tích cho thấy sau 1 năm trồng tỷ lệ sống
khá cao, đạt từ 98,15 - 100%, sau 2 năm tỷ lệ sống ở các công thức thí nghiệm
có giảm nhưng vẫn đạt từ 91,67 - 93,52%. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả
năng sinh trưởng tốt nhất ở công thức mật độ 1.660 cây/ha và kém nhất ở
13
công thức mật độ 2.500 cây/ha.
Quy trình kỹ thuật trồng rừng thâm canh cung cấp nguyên liệu giấy ở
các tỉnh miền núi phía Bắc đã qui định mật độ trồng cho một số loài Thông,
Keo lá to và Bồ đề là từ 1.200 - 1.500 cây/ha; Bạch đàn là 1.000 cây/ha; Qui
trình trồng rừng thâm canh Bạch đàn E.urophylla cũng qui định mật độ trồng
từ 1.110 - 1.660 cây/ha; Qui phạm kỹ thuật trồng rừng Tếch qui định trồng
thuần loài từ 2.000 - 2.500 cây /ha, trồng xen có thể trồng từ 1.000 - 1.250
cây/ha (Vụ KHCN&CLSP, 2001); Mật độ trồng các loại Keo từ 1.110 - 1.660
cây/ha (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2005) [9]. Mặc dù các qui trình, qui phạm trên
đã qui định các loại mật độ cụ thể cho một số loại rừng trồng thâm canh song đó
cũng chỉ mang tính chất tạm thời, chưa ổn định và chi tiết cho từng vùng.
1.2.2. Tổng quan về cây Keo lai tại Việt Nam
Tính đến 31 tháng 12 năm 2010, tổng diện tích rừng toàn quốc gần
13.388.075 ha, trong đó có gần 10.304.816 ha rừng tự nhiên và hơn 3.083.259
ha rừng trồng, độ che phủ của rừng đã tăng lên 39,5% theo Quyết định số

1828/QĐ-BNN ngày 11 tháng 8 năm 2011 của Bộ Nông nghiệp và PTNT
(2011) [2]. Tuy nhiên, diện tích rừng tự nhiên vẫn còn là rừng trung bình và
rừng nghèo, không còn khả năng đáp ứng được nhu cầu sản xuất hiện nay.
Trong những năm qua diện tích về cả diện tích và năng suất đã nâng lên gần
20m
3
/ha/năm nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nguyên liệu cho nhu cầu sản xuất
của xã hội. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và PTNT, hiện nay cả nước có
hơn 1,4 triệu ha rừng trồng có khả năng cung cấp một lượng gỗ khoảng 30,6
triệu m
3
. Tuy nhiên, lượng gỗ này chủ yếu chỉ phục vụ cho ngành chế biến
giấy và gỗ ván sàn. Phần lớn gỗ dùng để chế biến các sản phẩm đồ mộc, đặc
biệt là đồ mộc gia dụng và đồ mỹ nghệ vẫn phải nhập khẩu.
Theo Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam (Viforest), 5 tháng đầu năm
2010, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 1,4 tỉ USD, tăng 35% so với
cùng kỳ năm 2009, do nhu cầu tăng tại các thị trường nhập khẩu trọng điểm,
14
đặc biệt là thị trường Mỹ. Nhiều khả năng, xuất khẩu đồ gỗ tiếp tục tăng. So
với đầu năm 2010 giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu cũng tăng mạnh, nguồn cung
khan hiếm, giá gỗ nhập từ các thị trường chính như Mỹ, New Zealand tăng
15-30% (tùy loại). Trong đó tăng mạnh nhất là các loại gỗ Thông, Sồi. Đây là
trở ngại lớn của ngành gỗ bởi hiện khoảng 70% nguyên liệu sản xuất gỗ của
Việt Nam phải nhập khẩu.
Theo nhận định của HAWA (Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ TP
HCM), năm 2012, thị trường xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam chủ yếu là các
nước châu Á. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường chủ yếu
như Nhật sau thời gian sụt giảm đã tăng lên 27% từ nửa cuối năm 2011 và
sẽ tiếp tục tăng trong năm 2012 vì nhu cầu tái thiết sau thiên tai. Các thị
trường nhiều tiềm năng là Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Nam Mỹ vì

đây là những nơi có nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh. Năm 2011 kim
ngạch ngành chế biến gỗ xuất khẩu đạt 3,9 tỉ USD, tăng 14,4% so với
2010, và năm 2012 có thể vượt 4 tỉ USD [9]. Vì vậy cần phải có một cây
trồng lâm nghiệp chiến lược vừa sinh trưởng, phát triển nhanh cải tạo điều
kiện rừng vừa có năng suất gỗ cao đạt giá trị kinh tế cao và một trong
những cây trồng đáp ứng được điều kiện đó chính là cây Keo lai.
Ở Việt Nam, cây Keo lai tự nhiên được Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn
và các cộng sự thuộc Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (RCFTI) phát
hiện đầu tiên tại Ba Vì (Hà Tây cũ) và vùng Đông Nam Bộ vào năm 1992.
Tiếp theo đó, từ năm 1993 cho đến nay Lê Đình Khả và các cộng sự đã tiến
hành nghiên cứu về cải thiện giống cây Keo lai, đồng thời đưa vào khảo
nghiệm một số giống Keo lai có năng suất cao tại Ba Vì (Hà Tây cũ) được ký
hiệu là BV; Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh cũng chọn lọc một số
dòng được ký hiệu là KL.
Lê Đình Khả và các cộng sự (1993, 1995, 1997, 2006) [11, 12, 13, 14]
khi nghiên cứu về các đặc trưng hình thái và ưu thế lai của Keo lai đã kết luận
15
Keo lai có tỷ trọng gỗ và nhiều đặc điểm hình thái trung gian giữa hai loài bố
mẹ. Keo lai có ưu thế lai về sinh trưởng so với Keo tai tượng và Keo lá tràm,
điều tra sinh trưởng tại rừng trồng khảo nghiệm 4,5 năm tuổi ở Ba Vì (Hà Tây
cũ) cho thấy Keo lai sinh trưởng nhanh hơn Keo tai tượng từ 1,2 - 1,6 lần về
chiều cao và từ 1,3 - 1,8 lần về đường kính, gấp 2 lần về thể tích. Tại Sông
Mây (Đồng Nai) ở rừng trồng sau 3 năm tuổi Keo lai sinh trưởng nhanh hơn
Keo lá tràm 1,3 lần về chiều cao; 1,5 lần về đường kính. Một số dòng vừa có
sinh trưởng nhanh vừa có các chỉ tiêu chất lượng tốt đã được công nhận là
giống Quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật là các dòng BV5, BV10, BV16,
BV32, BV33. Khi nghiên cứu sự thoái hóa và phân ly của cây Keo lai, Lê
Đình Khả (1997) [15] đã khẳng định: Không nên dùng hạt của cây Keo lai để
gây trồng rừng mới. Keo lai đời F1 có hình thái trung gian giữa hai loài bố mẹ
và tương đối đồng nhất, đến đời F2 Keo lai có biểu hiện thoái hóa và phân ly khá

rõ rệt, cây lai F2 sinh trưởng kém hơn cây lai F1 và có biến động lớn về sinh
trưởng. Do đó, để phát triển giống Keo lai vào sản xuất thì phải dùng phương
pháp nhân giống bằng hom hoặc nuôi cấy mô từ những dòng Keo lai tốt nhất đã
được công nhận là giống Quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật.
Tóm lại: Điểm qua các công trình nghiên cứu có liên quan ở trong
nước và nước ngoài cho thấy về trồng rừng Keo lai đã có nhiều nghiên cứu
khá toàn diện. Đặc biệt trong những năm gần đây do nhu cầu sử dụng gỗ ngày
càng tăng mà khả năng cung cấp gỗ từ rừng tự nhiên ngày càng hạn chế, các
công trình nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng
cho một số loài cây trồng rừng nguyên liệu ngày càng tăng. Tuy nhiên, mỗi
loài cây trên mỗi dạng lập địa khác nhau thì kỹ thuật thâm canh cũng khác
nhau. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu về kỹ thuật thâm canh rừng trồng
mới tập trung trong một số năm gần đây, thời gian theo dõi thí nghiệm chưa
dài, các kết quả mới chỉ là bước đầu, nên cần phải có các công trình nghiên
cứu kế tiếp để có những kết quả chính xác và hoàn thiện hơn. Chính vì vậy,
đề tài tiếp tục nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật
trồng rừng thâm canh Keo lai đến năng suất gỗ để góp phần xây dựng hướng
dẫn kỹ thuật trồng rừng thâm canh Keo lai ở huyện Bắc Quang - tỉnh Hà
Giang cũng như trong khu vực Đông Bắc Bộ.
16
1.3. Điều kiện tự nhiên - xã hội khu vực nghiên cứu
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Bắc Quang là huyện thuộc vùng núi thấp, nằm ở phía Đông nam của
tỉnh Hà Giang, có toạ độ địa lý từ 22
0
10’ đến 22
0
36’ vĩ độ bắc và từ 104
0

43’
đến 105
0
07’ kinh độ Đông, với các vị trí giáp ranh như sau:
Hình 1.1: Sơ đồ vị trí huyện Bắc Quang
• Phía Đông giáp với huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang.
• Phía Tây giáp với huyện Quang Bình và huyện Hoàng Su Phì
17
• Phía Bắc giáp với huyện Vị Xuyên.
• Phía Nam giáp với tỉnh Yên Bái và tỉnh Tuyên Quang.
Là huyện cửa ngõ phía Nam của tỉnh Hà Giang, tiếp giáp với tỉnh Yên
Bái và tỉnh Tuyên Quang, trung tâm huyện là thị trấn Việt Quang. Toàn
huyện có 23 đơn vị hành chính cấp xã gồm 21 xã và 02 thị trấn với tổng diện
tích tự nhiên là 109.873,69ha. Trên địa bàn huyện có Quốc lộ 2 là tuyến giao
thông huyết mạch trong trục trung chuyển giữa vùng kinh tế Tây nam của
Trung Quốc và các tỉnh miền Bắc Việt Nam.
1.3.1.1.1. Địa hình
Bắc Quang là một huyện vùng núi đất có địa hình phức tạp huyện có độ
dốc từ bắc xuống nam có thể chia thành 3 dạng địa hình chính như sau:
- Địa hình núi cao trung bình: Tập trung nhiều ở các xã Tân Lập, Đức
Xuân với độ cao từ 700 - 1.500m. Địa hình chia cắt mạnh tạo ra các điều
kiện khí hậu khác nhau.
- Địa hình đồi núi thấp: Có độ cao thay đổi từ 100 - 700 m, phân bố ở
tất cả các xã, kể cả các xã vùng cao như Tân Lập, địa hình đồi bát úp hoặc lợn
sóng thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả.
- Địa hình thung lũng: Gồm các dải đất bằng thoải hoặc lợng sóng ven
sông Lô, sông Con và sông Sảo. Các loại đất trên địa hình này đợc hình thành từ
các sản phẩm bồi tụ (phù sa và dốc tụ). Do địa hình khá bằng phẳng có điều kiện
giữ nước và tới nớc nên hầu hết đất đã đợc khai thác trồng lúa và hoa màu.
1.3.1.1.2. Khí hậu

Bắc Quang chịu nhiều ảnh hởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng
ẩm, mưa nhiều, có một mùa đông lạnh. Hàng năm chịu ảnh hưởng trực tiếp
của gió mùa nên thường bị mưa bão trong mùa hè và thờng có 2 mùa rõ rệt là
mùa mưa và mùa khô.
18
Nhiệt độ bình quân cả năm 22,5
0
C, nền nhiệt độ đợc phân hoá theo mùa
khá rõ rệt, trong năm có 5 tháng nhiệt độ trung bình nhỏ hơn 20
0
C (tháng 12
đến tháng 4 năm sau); tổng tích ôn đạt trên 8.200
0
C.
- Lượng ma bình quân hằng năm 4.665 mm nhưng phân bố không đồng
đều. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, lượng mưa chiếm khoảng
90% tổng lượng mưa cả năm, đặc biệt tập trung vào các tháng 7, 8, 9 nên th-
ường gây úng ngập cục bộ ở các vùng thấp trũng.
- Lượng bốc hơi bình quân của huyện bằng 63,8% lượng mưa trung
bình hàng năm. Đặc biệt trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau
lượng bốc hơi hàng tháng cao hơn lợng ma từ 2 - 4 lần, gây khô hạn cho cây
trồng vụ đông xuân.
- Độ ẩm không khí bình quân cả năm khoảng 87%, tuy nhiên trong mùa
khô, độ ẩm trung bình giảm khá mạnh chỉ còn khoảng 77%.
- Sương muối và mưa đá chỉ xuất hiện đột xuất, ít ảnh hưởng đến sản
xuất và sinh hoạt.
1.3.1.1.3. Chế độ thuỷ văn
Huyện Bắc Quang chịu ảnh hưởng chủ yếu của chế độ thuỷ văn của hệ
thống các sông và suối nhỏ, trong đó sông Lô là lớn nhất, đoạn chảy qua huyện
dài khoảng 50 km, các sông nhỏ hơn là sông Sảo, sông Con.

Với một hệ thống sông suối khá dày đặc, có độ dốc lớn nên việc sử
dụng nguồn nước này gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, huyện còn có nhiều khe
suối chủ yếu chỉ có nước vào mùa mưa và có khả năng cung cấp nước tưới bổ
sung cho sản xuất vụ hè thu. Do địa hình của huyện phức tạp và lượng mưa
phân bố không đều, đồng thời do tình trạng phá rừng làm rẫy nên có hiện
tượng lũ lụt, hạn hán ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và sản xuất.
19

×