Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

Đánh giá ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh đến năng xuất gỗ rừng trồng Keo lai tại Yên Lập – tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 143 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.2.3.Ý nghĩa của đề tài 2
Chương 1
TỔNG QUÁT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới 3
1.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng, phát triển của rừng
trồng 3
1.1.2. Ảnh hưởng của giống đến năng suất rừng trồng thâm canh 4
1.1.3. Ảnh hưởng của phân bón đến năng xuất chất lượng rừng trồng 6
1.1.4. Ảnh hưởng của mật độ đến năng xuất chất lượng rừng trồng 7
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam 8
1.2.1. Các nghiên cứu về trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng 10
1.2.2. Nghiên cứu về cải thiện giống 12
1.2.3. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng 16
1.2.4. Ảnh hưởng của phân bón đến năng xuất và chất lượng rừng trồng 17
1.2.5. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất và chất lượng rừng trồng 18
1.3. Những nghiên cứu về cây Keo lai (Acacia hybrids) 20
1.3.1. Đặc điểm cây Keo lai ( A. Hybrids) 20
1.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu 25
1.4.1 Vị trí địa lý 25
1.4.2. Địa hình 26
1.4.3. Khí hậu thủy văn 27
1.4.4. Đất đai và tài nguyên 28
1.5. Thực trạng kinh tế - xã hội 30
1.5.1. Dân số và nguồn lao động 30
1.5.2. Thực trạng về thị trường 30


Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 33
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 33
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 33
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 33
2.3. Nội dung nghiên cứu 33
2.4. Phương pháp nghiên cứu 33
2.4.1. Phương pháp kế thừa 33
i
2.4.2. Phương pháp điều tra 34
2.4.3 Phương pháp thu thập số liệu 36
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 39
3.1. Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng Keo
lai 39
3.1.1. Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của D1.3 của cây Keo lai 40
3.1.2. Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao vút ngọn của cây Keo lai 41
3.1.3: Ảnh hưởng của mật độ đến đường kính tán (Dt) của cây Keo lai 43
3.1.4: Ảnh hưởng của mật độ đến trữ lượng của cây Keo lai của rừng trồng Keo lai 5
năm tuổi ở Yên Lập - Phú Thọ 44
3.2. Ảnh hưởng của bón phân đến khả năng sinh trưởng và năng suất của
rừng trồng Keo lai 47
3.2.1: Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng đường kính (D1.3) của cây Keo lai 47
3.2.2. Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng chiều cao (Hvn) của cây Keo lai 49
3.2.3. Ảnh hưởng của bón phân đến đường kính tán (Dt) của cây Keo lai 51
3.3. Ảnh hưởng của thời điểm trồng rừng và kỹ thuật thâm canh đến sinh
trưởng, năng xuất trồng Keo lai 54
3.3.1. Ảnh hưởng của thời điểm trồng rừng đến sinh trưởng chiều cao Hvn của cây
Keo lai 56

3.4. Đề xuất các biện pháp kỹ thuật nâng cao năng xuất và chất lượng trong
trồng rừng keo thâm canh 60
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 62
Kết luận 62
Tồn tại và kiến nghị 62
TÀI LI ỆU THAM KHẢO 64
ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Bộ NN&PTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
G : Tổng tiết diện ngang
D1.3m : Đường kính ở vị trí 1.3m
Hvn : Chiều cao vút ngọn
DT : Đường kính tán
RCFTI : Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng
Fa : Đất granit
Fk : Đất nâu đỏ bazan
Fv : Đất nâu vàng bazan
Fs : Đất đỏ vàng trên phiến sét
Fp : Đất phù sa cổ
ÔTC: : Ô tiêu chuẩn
VS : Phân vi sinh
R : Hệ số tương quan
Sig : Xác suất (mức ý nghĩa) của tiêu chuẩn kiểm tra
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Biểu 1.1: Tình hình đất đai của huyện Yên Lập năm 2010 - 2011 29
Bảng 3.1: Ảnh hưởng của mật độ đến đường kính D1.3 của cây Keo lai 40
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao (Hvn) của cây Keo lai 42
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của mật độ đến đường kính tán của cây Keo lai 43
Bảng 3.4: Bảng ảnh hưởng của mật độ đến trữ lượng của cây Keo lai của

rừng trồng Keo lai 5 năm tuổi ở Yên Lập – Phú Thọ 45
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng đường kính (D1.3) của
cây Keo lai 48
Bảng 3.6 : Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng chiều cao (Hvn)
của cây Keo lai 50
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của bón phân đến đường kính tán (Dt) của cây Keo
lai 51
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng của rừng trồng
Keo lai sau 5 năm tuổi ở Yên Lập – Phú Thọ ( 2008 – 2013) 52
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của thời điểm trồng rừng đến đường kính D1.3 của
cây Keo lai 55
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của thời điểm trồng rừng đến chiều cao Hvn
của cây Keo lai 56
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của thời điểm trồng rừng đến năng suất (M)
của cây Keo lai 58
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Biểu đồ sinh trưởng D1.3 của các công thức mật độ keo lai tuổi 5 40
Hình 3.2: Biểu đồ sinh trưởng Hvn của các công thức mật độ Keo lai tuổi 5 42
Hình 3.3: Ảnh hưởng của mật độ đến đường kính tán của cây Keo lai 44
Hình 3.4: Biểu đồ ảnh hưởng của mật độ đến trữ lượng của cây Keo lai
của rừng trồng Keo lai 5 năm tuổi ở Yên Lập – Phú Thọ 45
Hình 3.5: Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng đường kính (D1.3)
của cây Keo lai 48
Hình 3.6 : Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng chiều cao (Hvn)
của cây Keo lai 50
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của bón phân đến đường kính tán (Dt) của cây Keo lai 52
Hình 3.8: Biểu đồ tăng trưởng về trữ lượng cây đứng của các công thức phân bón keo lai
tuổi 5 53
Hình 3.9: Ảnh hưởng của thời điểm trồng rừng đến đường kính D1.3

của cây Keo lai 55
Hình 3.10: Ảnh hưởng của thời điểm trồng rừng đến chiều cao Hvn
của cây Keo lai 57
Hình 3.11: Trữ lượng cây đứng của các công thức thí nghiệm thời điểm
và kỹ thuật trồng rừng tại Yên Lập - Phú Thọ 58
v
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những loại cây nguyên liệu có khả năng sinh trưởng nhanh được đề
cập đến và quan tâm nhiều đến đó là cây Keo lai (Acacia hybrids). Cây Keo lai
là 1 trong 48 loài cây trồng chính để trồng rừng sản xuất đã được BNN&PTNT
công nhận tại quyết định số 16/2005/QĐ-BNN ngày 15/03/2005[1]. Keo lai
không chỉ là giống có ưu thế sinh trưởng nhanh, biên độ sinh thái rộng, có khả
năng thích ứng với nhiều loại đất mà còn có khả năng cải tạo đất, cải thiện môi
trường sinh thái. Gỗ keo được sử dụng làm ván sàn, ván dăm, đặc biệt là còn sử
dụng rất nhiều trong công nghiệp giấy. Keo lai có khối lượng gỗ lấy ra lớn hơn
gấp 1 – 2 lần Keo tai tượng và Keo lá tràm. Hàm lượng Xenlulo trong gỗ cao,
lượng liginin thấp, do đó có hiệu suất bột giấy lớn, chất lượng bột giấy tốt. Diện
tích rừng trồng Keo lai trong những năm qua tiếp tục tăng.
Tỉnh Phú Thọ công tác trồng rừng đã được đẩy mạnh thông qua trương
trình 327, dự án 5 triệu ha rừng của quyết định 661/BNN&PTNT về trồng cây
Keo lai và Tỉnh Phú Thọ có nhà máy Giấy Bãi Bằng thuộc tổng công ty Giấy
Việt Nam, vì vậy tổng diện tích rừng trồng Keo lai được tăng lên đáng kể mỗi
năm. Tổng diện tích trồng rừng mới chỉ riêng trong một Huyện Yên Lâp trung
bình tăng lên khoảng 300ha đến 500ha. Nguồn gỗ Keo ở tỉnh Phú Thọ không
chỉ đáp ứng cho nhà máy giấy Bãi Bằng mà còn phục vụ cho thị trường trong
và ngoài nước chinh vì vậy nhu cầu đặt ra cho thị trường gỗ Keo là rất lớn.
Do đó, Cần phải nâng cao năng suất, chất lượng gỗ rừng trồng để đáp ứng
được yêu cầu trên chúng ta cần phải lựa chọn giống tốt, chủng loại cây trồng
hợp lý bên cạnh đó điều kiện lập địa và áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm

canh phù hợp thì mới có được sản lượng gỗ tốt đáp ứng nhu cầu của thị
trường. Chính vì vậy việc thực hiện đề tài “Đánh giá ảnh hưởng của một số
biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh đến năng xuất gỗ rừng trồng Keo
lai tại Yên Lập – tỉnh Phú Thọ” là hết sức cần thiết và cấp bách.
1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Xác định được một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh cây Keo
lai nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng gỗ rừng trồng, làm cơ sở để phát
triển mở rộng mô hình góp phần đáp ứng nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu làm
bột giấy ngày càng tăng của xã hội nói chung và nhu cầu sản xuất của Công ty
giấy Bãi Bằng nói riêng.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Xác định được ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng
thâm canh cây Keo lai đến năng xuất gỗ rừng trồng ở huyện Yên Lập, tỉnh
Phú Thọ.
- Bước đầu xác định được một số đặc điểm của gỗ Keo lai 5 tuổi trồng thâm
canh ở Yên Lập – Phú Thọ nhằm phục vụ công nghiệp chế biến bột giấy.
- Đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng xuất và chất lượng
gỗ trong trồng rừng thâm canh.
1.2.3.Ý nghĩa của đề tài
Bước đầu xác định được một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm
canh cây Keo lai nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng gỗ rừng trồng, làm cơ
sở để phát triển mở rộng mô hình góp phần đáp ứng nhu cầu sử dụng gỗ
nguyên liệu ngày càng tăng của xã hội nói chung và nhu cầu sản xuất của
Công ty giấy Bãi Bằng nói riêng.
2
Chương 1
TỔNG QUÁT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới

Trên thế giới vấn đề thâm canh rừng trồng đã được nghiên cứu bởi rất
nhiều nhà khoa học. Trồng rừng thâm canh là một hệ thống các biện pháp kỹ
thuật bao gồm từ khâu chọn giống đến trồng rừng, chăm sóc rừng trồng, quản
lý bảo vệ rừng trồng cho đến khi khai thác sử dụng.
1.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng, phát
triển của rừng trồng
Kết quả nghiên cứu của tổ chức FAO 1994 [41] ở các nước vùng nhịêt
đới đã chỉ ra rằng khả năng sinh trưởng của rừng trồng đặc biệt là rừng trồng
cây nguyên liệu công nghiệp phụ thuộc rất rõ vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan
đến điều kiện lập địa là khí hậu, địa hình, loại đất và hiện trạng thực bì.
Nghiên cứu của Laulie (1974) đã cho thấy đất đai ở vùng nhiệt đới rất
khác nhau về nguồn gốc và lịch sử phát triển điều này được thể hiện ở sự khác
nhau về đặc điểm của các phẫu diện đất đó là độ dày tầng đất, cấu trúc vật lý
hàm lượng các chất dinh dưỡng khoáng, phản ứng của đất (độ PH) và nồng độ
muối. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng
trên các loài đất khác nhau là khác nhau. Khi đánh giá khả năng sinh trưởng
của loài Thông Pinus patula ở Swzinland, Julian Evans (1992) [44] đã chứng
minh khả năng sinh trưởng về chiều cao của loại cây này có quan hệ khá chặt (R =
0,81) với các yếu tố địa hình và đất thông qua phương trình tương quan sau:
Y = -18,75 + 0,0544x
3
- 0,000022m
3
2
+ 0,0185x
4
+ 0,049x
5
+ 0,5346x
11

Trong đó:
Y: Chiều cao vút ngọn tại thời điểm 12 tuổi (m)
x
3
: Độ cao so với mặt nước biển (m)
3
x
4:
Độ dốc chênh lệch giữa đỉnh đồi và chân đồi (%)
x
5
: Độ dốc tuyệt đối của khu trồng rừng (%)
x
11
: Độ phì của đất đã được xác định.
Cùng với đó Julian Evans cũng đã kết luận khí hậu có ảnh hưởng khá rõ
đến năng xuất rừng trồng, đặc biệt là sự ảnh hưởng của tổng lượng mưa bình
quân hàng năm, sự phân bố lượng mưa trong năm, lượng bốc hơi và nhiệt độ
không khí.
Kết quả nghiên cứu của Pandey. D (1983) [48] về loài Bạch đàn
Eucalyptus camaldulensis được trồng trên các điều kiện lập địa khác nhau đã
cho thấy: nếu trồng ở vùng nhiệt đới khô với chu kỳ kinh doanh từ 10 - 20
năm thì năng suất chỉ đạt từ 5-10m3/ha/năm, nhưng trồng ở vùng nhiệt đới ẩm
thì năng suất có thể đạt tới 30m 3/ha/năm. Kết quả này lại một lần nữa khẳng
định điều kiện lập địa khác nhau thì năng suất rừng trồng cũng khác nhau.
Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy việc xác định vùng trồng và
điều kiện lập địa phù hợp với từng loại cây trồng là rất cần thiết và đây cũng
chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất và chất
lượng của rừng trồng.
1.1.2. Ảnh hưởng của giống đến năng suất rừng trồng thâm canh

Giống là một trong những khâu quan trọng nhất của trồng rừng thâm
canh. Mục đích của cải thiện giống cây rừng là nhằm không ngừng nâng cao
năng xuất, chất lượng gỗ và các sản phẩm mong muốn khác từ rừng.
trong sản xuất lâm nghiệp. Việc chọn đúng các giống tốt, thích hợp với điều
kiện tự nhiên và canh tác giúp cho người sản xuất thu được năng suất cao và
ổn định với phẩm chất tốt và mức chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm thấp
Từ ngàn xưa người nông dân Việt Nam đã đánh giá cao vai trò của giiống.
Ngày nay giống vẫn được xem là một trong nhưng yếu tố hàng đầu trong việc
không ngừng nâng cao nâng năng suất cây trồng giống cũng không thể vượt qua
ngưỡng tiềm năng năng suất của nó. chỉ có sự đột phá về giống mới có thể mang
4
lại năng suất cao hơn. Năm 1993, Bộ lâm nghiệp (nay lag Bộ nông nghiệp và
PTNT) đã có Quyết định ban hành "Qui phạm xây dựng rừng giống và vườn
giống", "Qui phạm xây dựng rừng giống chuyển hóa", trong đó qui định rõ các tiêu
chuẩn về chọn lọc xuất xứ giống và cây giống cũng như các phương thức khảo
nghiệm giống và xây dựng rừng giống, vườn giống (Lê Đình Khả, 2003) [16].
Trong thực tiễn sản xuất đó cho thấy nhờ ứng dụng giống mới, năng suất
đó từng bước được nâng cao. những đột phá về giống nhằm nâng cao năng
suất cây trồng và có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh các mặt hàng về gỗ và phục vụ cho ngành công nghiệp giấy
từ đó góp phần ổn định kinh tế.
Mỗi giống cây trồng có tính thích nghi nhất định với từng điều kiện vùng
sinh thái. Do đó việc lựa chọn giống cây trồng thích hợp với từng vùng sản
xuất điều kiện sinh thái, điều kiện canh tác vừa có vai trò rất quan trọng trong
sản xuất Lâm nghiệp nhất là những nước công nghiệp hoá Lâm nghiệp. Trên
thế giới, người ta đã đặt trọng tâm và phát triển Lâm nghiệp trên quy mô công
nghiệp hiện đại, bằng các phương pháp sinh học tối tân, họ đã sản xuất hàng
loạt giống cây trồng mới, được chọn lọc và nhân giống, lai tạo ra những thế
hệ cây trồng nhiều ưu điểm, cải tạo gen thành những giống cây kháng sâu,
bệnh giảm bớt chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian chăm sóc, tạo nên ưu thế

vững chắc trong sản xuất cây Lâm nghiệp.
Việt Nam chúng ta đã có nhiều thành tựu quan trọng trong công tác chọn
và lai tạo giống, cũng như có những chương trình chuyển giao công nghệ sản
xuất mới, tuyển lựa giống cây trồng, thúc đẩy tăng sản lượng .Vấn đề quan
trọng và trọng tâm là chọn giống, lai tạo, chọn đất trồng phù hợp trên quy mô
công nghiệp hiện đại, chuyên nghiệp, bền vững. Đồng thời cũng phải có cơ
quan nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp
cách chuyên môn, hiện đại.
5
Trên thế giới đã có rất nhiều nước đi sâu nghiên cứu về vấn đề này điển
hình là các nước: Công Gô, BRazin, Swazinland, Malaysi , Zim babew .
Ở Công gô bằng phương pháp lai nhân tạo đã tạo ra giống Bạch đàn lai
(Eucalyptus hybrids) có năng xuất đạt tới 35m
3
/ha/năm ở giai đoạn 7 năm tuổi.
Tại Brazin bằng con đường chọn lọc nhân tạo đã chọn được giống Bạch
đàn Eucalyptus grandis có năng xuất đạt tới 55m
3
/ha/năm sau 7 năm trồng
(Welker 1986) [50]
Tại Swazinland cũng đã chọn được giống Thông Pinus patula sau 15
năm tuổi đạt năng xuất 19m
3
/ha/năm (Pandey 1983) [48]
Ở Zimbabwe cũng đã chọn được giống Bạch đàn Eucalyptus grandis đạt
từ 35m
3
- 40m
3
/ha/năm, giống bạch đàn Europhylla đạt trung bình tới

55m3/ha/năm, có nơi lên tới 70m
3
/ha/năm (Campinhos và Ikemori 1988) [40]
1.1.3. Ảnh hưởng của phân bón đến năng xuất chất lượng rừng trồng
Bón phân cho cây trồng lâm nghiệp là một trong những biện pháp kỹ
thuật thâm canh nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng rừng trồng, đặc biệt là
ở những nơi đất xấu. Trên thế giới, việc áp dụng phân bón cho rừng trồng bắt
đầu từ những năm 1950. Trong vòng 1 thập kỷ, diện tích rừng được bón phân
đã tăng lên 100.000ha/năm ở Nhật Bản, Thụy Điển và Phần Lan. Đến năm
1980 diện tích rừng được bón phân trên thế giới đã đạt gần 10 triệu ha (Ngô
Đình Quế 2004) [28]. Về vấn đề này đã có nhiều nhà khoa học trên thế giới
quan tâm và đi sâu nghiên cứu, điển hình là công trình nghiên cứu của Mello
(1976) [46] ở Brazin tác giả cho thấy Bạch đàn (Eucalyptus) sinh trưởng khá
tốt ở công thức không bón phân, nhưng nếu bón NPK thì năng xuất rừng
trồng có thể tăng lên trên 50%. Một nghiên cứu khác của Schonau (1985) [51]
ở South Ajrica về vấn đề bón phân cho Bạch đàn Eucalyptus grandis đã kết
luận công thức bón 150g NPK/gốc với tỷ lệ N:P:K = 3:2:1 có thể nâng chiều
cao trung bình của rừng trồng lên gấp 2 lần sau năm thứ nhất. Tại Colombia,
Bolstand và cộng sự (1988) [39] cũng đã tìm thấy một vài loại phân có phản
6
ứng tích cực đối với rừng trồng Thông Pcaribeae đó là Potassium, Phosphate,
Boron và Magnesium. Tại CuBa cũng với đối tượng là rừng Thông P.
caribeae khi nghiên cứu các công thức bón phân cho đối tượng này Herrero và
cộng sự (1988) [43] đã kết luận bón phân Phosphate sau 13 năm trồng nâng
cao sản lượng rừng từ 56m
3
/ha lên 69m
3
/ha.
Qua những nghiên cứu ta thấy rõ rằng phân bón đã mang lại những hiệu

quả rõ rệt như nâng cao tỷ lệ sống, nâng cao chất lượng, sản lượng, tăng khả
năng chống chọi với điều kiện không thuận lợi của môi trường để cây phát
triển tốt hơn.
1.1.4. Ảnh hưởng của mật độ đến năng xuất chất lượng rừng trồng
Mật độ trồng rừng là một trong những biện pháp kỹ thuật lâm sinh rất
quan trọng nó ảnh hưởng tới năng xuất và chất lượng của rừng trồng rất lớn.
Mỗi loại cây trồng và mỗi mục đích kinh doanh khác nhau thì phải sắp xếp
mật độ làm sao cho hơp lý nhất để đạt được hiệu quả cao nhất. Với các nghiên
cứu trên nhiều lập địa khác nhau điển hình là nghiên cứu của Julian
Evans( 1992) [44] khi nghiên cứu mật độ trồng rừng cho Bạch đàn E.
Deglupta ở Papua New Guinia đã bố trí 4 công thức mật độ trồng khác nhau
( 2.985c/ha : 1.680cây/ha : 1.075cây/ha : 750cây/ha) số liệu thu được sau 5
năm trồng cho thấy đường kính bình quân của các công thức thí nghiệm tăng
theo chiều giảm của mật độ nhưng tổng tiết diện ngang (G) lại tăng theo chiều
tăng của mật độ điều này có ý nghĩa là mật độ thấp tuy lượng tăng trưởng về
đường kính cao hơn nhưng trữ lượng gỗ cây đứng vẫn nhỏ hơn những công
thức trồng ở mật độ cao.
Theo Nguyễn Huy Sơn và Hoàng Minh Tâm nghiên cứu về mật độ trồng
rừng Keo lai 9,5 tuổi ở Quảng Trị cho ta thấy rằng
Trồng rừng thâm canh nhằm nâng cao năng suất và chất lượng rừng hiện
nay là vấn đề được rất nhiều người quan tâm. Các dòng Keo lai BV10, BV16
và BV32 là những giống tiến bộ kỹ thuật đã được công nhận và được sử dụng
7
để nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến khả năng sinh
trưởng cũng như năng suất rừng trồng sau 9,5 năm tuổi ở Đông Hà – Quảng
Trị. Với mật độ trồng ban đầu, phân bón lót và bón thúc năm thứ 2 có ảnh
hưởng chưa rõ đến tỷ lệ sống của rừng trồng Keo lai 9,5 năm tuổi. Vì ở giai
đoạn 9,5 năm rừng trồng đã quá thành thục công nghệ so với mục tiêu kinh
doanh gỗ nhỏ chu kỳ 7 năm, nên các cá thể trong quần thể có sự cạnh tranh
nhau gay gắt về không gian dinh dưỡng dẫn đến hiện tượng tỉa thưa tự nhiên

rất mạnh, tỷ lệ sống chỉ còn từ 44-60% so với mật độ trồng ban đầu. Ở giai
đoạn 9,5 năm tuổi, mật độ hiện tại có ảnh hưởng khá rõ đến khả năng sinh
trưởng cũng như năng suất và chất lượng rừng, ở những công thức mật độ
hiện tại thấp nhất từ 722-738 cây/ha thì có khả năng sinh trưởng D
1,3
cao nhất
và đạt trung bình từ 17,22-17,49cm, số cây có D
1,3
≥18cm chiếm 42,55-
43,75%, nhưng năng suất gỗ cây đứng lại không cao. Ngược lại, ở những
công thức có mật độ cao nhất từ 968-999 cây/ha thì cho năng suất gỗ cây
đứng cao nhất, nhưng khả năng sinh trưởng D
1,3
lại thấp nhất và tỷ lệ số cây có
D
1,3
≥18cm khá thấp.
Từ các nghiên cứu trên cho ta thấy rằng mật độ ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng và khối lượng sản phẩm theo đó còn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh, vì vậy cần phải xác định rõ mục tiêu để bố trí mật độ cho có hiệu quả
cao nhất.
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Trong những năm gần đây hầu như trên các diện tích trồng rừng từ nhà
nước tới các đơn vị kinh doanh tới những người dân trồng rừng đã chú ý tới
việc bón phân cho cây trồng. Tất cả đã thấy được hiệu quả của việc bón phân
cho cây. Bón phân là một trong những biện pháp kỹ thuật thâm canh quan
trọng nhằm làm ổn định và nâng cao năng suất chất lượng rừng trồng. Trên
thực tế cho thấy, bón phân cho rừng trồng đã mang lại những hiệu quả rõ rệt,
đó là nâng cao tỷ lệ cây sống, tăng thêm sức đề kháng của cây đối với các
8

điều kiện bất lợi của môi trường khi mới trồng, tăng khả năng sinh trưởng và
nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm rừng trồng.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cây rừng,
về kỹ thuật bón phân cho trồng rừng, kinh nghiệm sản xuất và tập quán sử
dụng phân bón tại các địa phương. Đã có nhiều hướng dẫn kỹ thuật liên quan
tới bón phân cho rừng trồng được xây dựng đề xuất ở nhiều qui mô, phạm
vi áp dụng khác nhau, bước đầu đã tạo cơ sở khoa học cho việc bón phân
cho trồng rừng đó là về chủng loại, liều lượng phân bón và phương pháp
bón phân. Tuy nhiên, các hướng dẫn kỹ thuật đó còn có nhiều điểm bất cập.
Tóm lại là chưa thể hiện chi tiết về cơ sở bón phân cho từng loài cây và
từng loại đất.
Nhiều nghiên cứu về phân bón cho trồng rừng đã nhận định: Đối với
nhiều loài cây trồng rừng sản xuất, việc bón phân là vô cùng quan trọng vì
đây cũng chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh
trưởng của rừng trồng.
Ta bón phân cho cây thường là 3 loại: Phân vô cơ, phân hữu cơ và phân
vi sinh.
Phân hữu cơ dễ sản xuất và chi phí thấp, nhưng loại phân này sự phân
hủy chậm có thể không cung ứng kịp thời chất dinh dưỡng cho cây, và khó có
thể áp dụng trên quy mô trồng rừng lớn. Phân hữu cơ vi sinh có thành phần
gồm than bùn N, P, K và các vi sinh vật có ích. Loại phân này có tác dụng
làm tăng hiệu quả của phân vô cơ do bản thân nó hấp thụ phân vô cơ, có khả
năng ngăn cản quá trình rửa trôi hay keo hóa với hạt đất, ngăn cản sự tiếp xúc
trực tiếp của phân khoáng với môi trường pH thấp giữ cho phân khoáng luôn
ở dạng dễ tiêu, ngoài ra vi sinh vật cộng sinh thúc đẩy hệ rễ hấp thụ chất dinh
dưỡng dễ dàng hơn.
Đối với phân vô cơ, đặc biệt là phân phức hợp (NPK) có hiệu quả cung
cấp dinh dưỡng toàn diện, có hiệu lực nhanh hơn phân hữu cơ vi sinh do đó
9
giảm được công bón phân, tiện lợi cho bón phân trên diện rộng nhưng loại

phân này lại có một nhược điểm là dễ bị rửa trôi. Loại phân bón vô cơ được
áp dụng chủ yếu ở phía Bắc là phân NPK (5:10:3). Phân NPK (5:10:3) của
nhà máy Suppe phốt phát và hóa chất Lâm Thao loại phân này dạng hạt, phân
giải chậm, thích hợp cho nhiều loại cây trồng đặc biệt phù hợp với đất nghèo
lân. Loại phân này có tác dụng kích hoạt các vi sinh vật có ích trong đất như
hình thành cộng sinh nấm rễ Mycorhiza và vi khuẩn cố định đạm Rhizobium,
Phân NPK (5:10:3) thường được bón phối hợp với phân hữu cơ vi sinh để
tăng hiệu lực của lân ở những nơi đất xấu và bạc mầu.
Dựa vào những đăc điểm của các loại phân đã nêu trên đề tài đã bố
trí thí nghiệm bón lót phân và bón thúc vào năm thứ 2 với liều lượng có
kết hợp các loại phân bón với nhau để nghiên cứu tìm ra công thức bón
phân tốt nhất cho trồng rừng thâm canh cây Keo lai trên đất Feralit phát
triển trên phiến thạch sét ở địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng và khu vực
Đông Bắc Bộ nói chung.
1.2.1. Các nghiên cứu về trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng
Trồng rừng thâm canh là vấn đề trước đây có rất ít người quan tâm, song
do nguồn gỗ rừng tự nhiên không còn đáp ứng được nhu cầu về gỗ ngày càng
tăng của xã hội. Bên cạnh đó, diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp nói
chung ngày càng giảm do phải cắt chuyển sang sử dụng vào mục đích khác
như mở rộng đất nông nghiệp, đất thổ cư, đường Hơn nữa, đất quy hoạch
cho trồng rừng hầu hết là đất nghèo và xấu, vì thế trồng rừng thâm canh đã trở
thành xu thế tất yếu trong sản xuất lâm nghiệp hiện nay, nhất là trồng rừng
nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến bột giấy và ván nhân tạo.
Vào những năm 1980 bên cạnh các nước có lịch sử phát triển rừng theo
hướng thâm canh như: Đức, Ý, Thuỵ Điển thì ở Việt Nam vấn đề này cũng
bắt đầu được quan tâm và đưa ra thảo luận, điển hình là các tác giả Nguyễn
Xuân Xuyên (1985), Phạm Chiến (1986), Vũ Đình Huề (1986), Phùng Ngọc
10
Lan (1986) “Cơ cấu cây trồng rừng thâm canh trên quan điểm sản lượng ”
Tạp chí Lâm nghiệp, Bộ Lâm nghiệp.

Theo Phùng Ngọc Lan (1986) [21] thâm canh rừng trồng là nhằm bảo vệ
và sử dụng triệt để các điều kiện về tài nguyên, khi hậu, đất đai, sinh vật và áp
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại có liên quan để nâng cao
năng xuất rừng và hiệu quả kinh tế. Thâm canh rừng đòi hỏi một hệ thống các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh tổng hợp liên hoàn từ khâu chọn loài cây trồng,
chọn giống, kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, tỉa thưa dựa trên mô hình mật độ
tối ưu cho đến đảm bảo tái sinh trong khai thác.
Theo Nguyễn Xuân Quát (1995) [27] trồng rừng thâm canh là một
phương thức canh tác dựa trên cơ sở được đầu tư cao bằng việc áp dụng các
biện pháp kỹ thuật tổng hợp và liên hoàn. Các biện pháp được tăng cường đầu
tư đó phải tận dụng, cải tạo và phát huy được mọi tiềm năng của tự nhiên
cũng như của con người nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sinh trưởng và phát triển
của rừng trồng để thu được năng xuất cao, chất lượng sản phẩm tốt với giá
thành hạ để cho hiệu quả lớn. Đồng thời cũng phải duy trì và bồi dưỡng được
tiềm năng đất đai và môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển trồng rừng ổn
định, lâu dài và bền vững.
Kết quả bước đầu nghiên cứu của Nguyễn Huy Sơn với công trình
nghiên cứu cấp Nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 cho thấy có thể nâng cao
năng xuất rừng trồng từ 20m
3
/ha/năm đến 36m
3
/ha/năm ở khu vực đông nam
bộ và dự đoán lên đến 30m
3
/ha/năm ở khu vực Đông Bắc Bộ tuy nhiên rừng
trồng mới được 3 – 4 năm tuổi nên cần phải tiếp tục theo dõi thêm cho các
năm cuối để có những kết luận chuẩn xác hơn nữa.
Trong các nghiên cứu của Đoàn Hoài Nam (2006) [24] khi đánh giá về
rừng trồng thâm canh tại một số tỉnh Thái Nguyên, Quảng Trị, Gia Lai, Bình

Dương đã chỉ ra rằng chi phí chung cho 01 ha trồng rừng thâm canh Keo lai
cao gấp đôi so với đầu tư trong chương trình trồng rừng sản xuất theo Quyết
11
định số 661/QĐ-TTg ngày 29/07/1998 về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và
tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và gấp 1,5 lần so với
phương thức trồng rừng bán thâm canh hoặc quảng canh. Tuy nhiên, trên thực
tế trồng rừng thâm canh đã mang lại hiệu quả cao hơn so nhiều so với các
phương thức trồng rừng khác. Nếu trồng rừng bằng các loại cây mọc nhanh
theo phương thức quảng canh thì chu kỳ kinh doanh thường dài trên 10 năm
mà năng xuất chỉ đạt 7-10m
3
/ha/năm, nhưng nếu trồng rừng thâm canh thì sau
từ 7-8 năm đã có thể khai thác gỗ với năng xuất đạt từ 25-30m
3
/ha/năm. Điều
này cho thấy vốn bỏ ra ban đầu được thu hồi sớm hơn, vòng quay nhanh hơn
nên hiệu quả đầu tư vốn cũng cao hơn, thời gian thu hoạch sản phẩm được
rút ngắn nên đất đai được giải phóng sớm để tiếp tục trồng rừng cho chu kỳ
sau sớm hơn.
1.2.2. Nghiên cứu về cải thiện giống
Việc xây dựng các khu khảo nghiệm loài – xuất xứ cho một số cây chủ
yếu đã được thực hiện ở một số lập địa chính trong cả nước. Đó là các loài
Thông như Pinus caribaea (với cả ba thứ là Pinus caribaeae var.Hondurensis,
Pinus caribaea var.bahamensis và Pinus caribaea var.caribaea), Pinus
oocarpa, Pinus kesiya, Pinus mercusii và các loài Thông khác. Các loài Bạch
Đàn chủ yếu được khảo nghiệm là Bạch đàn trắng camal (Eucalyptus
camaldulensis), Bạch đàn trắng têrê (Eucalyptu tereticornis) Bạch đàn uro
(Eucalyptu urophylla), và các loài Eucalyptu grandis, Eucalyptu pelita,
Eucalyptu cloeziana, v.v…Đến nay chúng ta đã biết được một số xuất xứ có
triển vọng nhất của một số loài như Pinus caribaea var.hondurensis, Pinus

kesiya, Eucalyptus camaldulensis, Eucalyptu tereticornis, Eucalyptu urophylla,
v.v Đây là cơ sở cho việc xây dựng các chương trình trồng rừng Việt Nam (Lê
Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 2003) [5].
Trong những năm 1980 bên cạnh việc tiếp tục xây dựng các khảo
nghiệm loài – xuất xứ cho các loài Bạch đàn, một loạt khảo nghiệm cho các
12
loài Keo vùng đồi thấp đã được xây dựng ở nhiều nơi trong nước. Đó là các
loài Keo lá tràm (A.auriculiformis), Keo tai tượng (A. mangium), Keo lá liềm
(A.crassicarpa), Keo nâu (A.aulococarpa) và Keo quả xoắn (A.cincinnata).
Qua một thời gian khảo nghiệm đến nay chúng ta đã biết những loài có triển
vọng cho các chương trình trồng rừng là A.mangium, A.crassicarpa và
A.auriculiformi (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 2003) [5].
Từ năm 1993 khảo nghiệm cho hơn 10 loài Keo chịu hạn như A.tumida,
A.difficilis, A.torulosa, v.v… đã được xây dựng tại Tuy Phong (lượng mưa 700-
800 mm/năm) thuộc tỉnh Bình Thuận và Ba Vì (lượng mưa 1650mm/năm) thuộc
tỉnh Hà Tây. Các xuất xứ thuộc 25 loài Keo vùng cao như A.maernsii,
A.melanoxylon, v.v… cũng được xây dựng tại Đà Lạt (1600m trên mặt biển ) và
núi Ba Vì (600m trên mặt biển) và một số nơi khác (Lê Đình Khả và Dương
Mộng Hùng, 2003) [5].
Cũng trong thời gian này một bộ giống gồm 38 xuất xứ Phi lao
(Casuarina equisetifolia) đã được xây dựng ở vùng cát ven biển thuộc các
tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nam và Bình Thuận, gần đây là khảo
nghiệm xuất xứ cho Phi lao đồi (Casuarina junghuniana) tại Đà Nẵng và Ba
Vì (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 2003) [5].
Trong các năm 1994 - 1995 một loạt các khảo nghiệm xuất xứ cho các
loài Tràm như Melaleuca leucadendra, Melaleuca cajuputi, v.v… cũng được
xây dựng trên vùng đất ngập phèn ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu
Long (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 2003) [5].
Gần đây nhất là một số khảo nghiệm xuất xứ cho Xoan chịu hạn
(Azadirachtaindica) được xây dựng ở Ba Vì và Truy Phong (Lê Đình Khả và

Dương Mộng Hùng, 2003) [5].
Có thể nói, khảo nghiệm loài và xuất xứ ở nước ta được tiến hành tương
đối chậm, song đã thực hiện cho nhiều loài cây trồng rừng chủ yếu trên các
vùng sinh thái chính với một nhịp độ khá khẩn trương. Từ đó đã xác định
13
được một số xuất xứ có triển vọng nhất của một số loài, làm cơ sở cho các
chương trình trồng rừng ở Việt Nam.
Đối với cây Keo, các khảo nghiệm giống để tìm ra một số loài Keo thích
hợp cho trồng rừng ở vùng thấp và trung du ở Việt Nam (như Keo tai tượng
Acacia mangium , Keo lá tràm Acacia mangium và Keo lai) đã được nghiên cứu
và nhiều công trình đã được xuất bản. Thông tin cho các loài Keo thích hợp cho
vùng trung du và vùng cao đặc biệt là vùng núi phía Bắc là rất hạn chế.
Các khảo nghiệm giống về các loài Keo đã có từ trước đến nay, gồm:
Khảo nghiệm loài/xuất xứ Keo vùng thấp được tiến hành tại Đại Lải (Vĩnh
Phúc), Ba vì Hà Nội (Hà Tây cũ), Đông Hà (Quảng Trị), Sông Mây (Đồng
Nai), Bầu Bàng (Bình Dương). Khảo nghiệm này tập trung vào khảo nghiệm
5 loài Keo (Keo lá tràm A. auriculiformis, Keo tai tương A.mangium, Keo
lưới liềm A. crassicarpa; Keo nâu A.aulacocarpa; Keo quả xoắn A.
cincinnata) có nguồn gốc giống từ Úc, Papua New Guinea và Indonexia với
nhiều xuất xứ khác nhau.
Khảo nghiệm Keo lai được tiến hành tại Ba Vì Hà Nội (Hà Tây cũ), Đại
Lải (Vĩnh Phúc), Bình Thanh (Hòa Bình), Hàm Yên (Tuyên Quang), Đông
Hà (Quảng Trị), Quy Nhơn (Bình Định), Long Thành (Đồng Nai), Sông Mây
(Đồng Nai).
Khảo nghiệm Keo vùng cao được tiến hành tại Đà Lạt (Lâm Đồng) có
xuất xứ từ Úc.
Khảo nghiệm xuất xứ Keo chịu hạn được tiến hành tại Tuy Phong (Bình
Thuận) và Ba Vì (Hà Tây).
Kết quả của các khảo nghiệm giống nêu trên trong suốt nhiều năm qua
đã chỉ ra được một số xuất xứ của các loài Keo có triển vọng ở vùng thấp của

Việt Nam. Trong đó các loài như Keo tai tượng, Keo lá tràm được đánh giá
khả quan nhất. Tuy nhiên, việc khảo nghiệm giống đã được triển khai ở phạm
vi rộng của cả 3 miền Bắc, Trung, Nam tuy nhiên chỉ tập trung ở một địa
14
phương trọng điểm mà ở đó có đại diện của mạng lưới các trung tâm nghiên
cứu giống cây rừng quốc gia thuộc Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp Việt Nam.
Điểm hạn chế của các khảo nghiệm này chỉ dựa vào một số thí nghiệm tại một
số tỉnh đại diện cho các vùng miền (Bắc, Trung, Nam) của Việt Nam. Trong
khi đó, sự đa dạng và phức tạp của địa hình đặc biệt khu vực miền núi phía bắc
và tiểu khí hậu của từng tỉnh, thậm chí trong phạm vị từng huyện nên các kết
quả của khảo nghiệm còn thiếu cơ sở khoa học và tính thuyết phục trong việc
lựa chọn giống tốt còn hạn chế.
Hơn nữa, với Keo lai thì các khảo nghiệm các dòng lai được tiến hành
Ba Vì Hà Nội (Hà Tây cũ), Đông Nam Bộ, với khoảng 20 dòng. Kết quả đã
chỉ ra được một số dòng có triển vọng.
Chất lượng giống là những yếu tố rất quan trọng trong trồng rừng thâm
canh. Giống tốt được cải thiện thì năng suất rừng được nâng cao. Trong thực
tế cho thấy cây rừng nói chung chọn được giống tốt thì sản lượng gỗ có thể
tăng từ 15 – 20% đối với giống lai đã được chọn lọc có thể tăng từ 40 –
90% so với giống bố mẹ. Vì vậy cải thiện giống cây rừng nhằm không
ngừng nâng cao năng suất, chất lượng gỗ và các sản phẩm mong muốn
khác. Trong năm 1993 Bộ NN&PTNT đã có quyết định ban hành

Quy
phạm xây dựng rừng giống và vườn giống

“Quy phạm xây dựng rừng
giống chuyển hóa” trong đó quy hoạch rõ các tiêu chuẩn về chọn lọc xuất xứ
giống và cây giống cũng như các phương pháp khảo nghiệm giống và xây
dựng rừng giống.( Lê Đình Khả, 2006).

Bắt đầu từ những năm 1980 trở lại đây hoạt động cải thiện giống cây
rừng mới được đẩy mạnh trong cả nước. Các hoạt động trong thời gian đầu
chủ yếu là khảo nghiệm loài và xuất xứ các loài cây trồng rừng chủ yếu là
khảo nghiệm loài tại một số vùng sinh thái chính trong nước như Keo, Phi
lao, Bạch đàn vào đầu những năm 1990 phát hiện ra giống Keo lai tự nhiên
giữa Keo lá tràm và Keo tai tượng đã thúc đẩy các khảo nghiệm chọn lọc
15
nhân tạo và nhân giống vô tính phát triển. Trong những năm gần đây, trung
tâm nghiên cứu giống cây rừng thuộc Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam,
trung tâm phất triển lâm nghiệp Phù Ninh - Phú thọ thuộc Tổng công ty giấy
Việt Nam cùng một số cơ sở nghiên cứu khác đã nghiên cứu thành công
giống nhân tạo cho các loại Keo, Bạch đàn và Thông (Lê Đình Khả, 2003)[16]
trong hơn 10 năm gần đây công tác nghiên cứu giống đã đạt được những
thành công đáng kể. Đã có 4 dòng có năng xuất cao và thích hợp với nhiều
vùng sinh thái và được Bộ NN&PTNT cộng nhận là giống tiến bộ kỹ thuật và
giống quốc gia là: BV10, BV16, BV32, BV33 (Lê Đình Khả 1999)[17]. Gần
đây cũng có một số dòng được BNN &PTNT công nhận giống tiến bộ kỹ
thuật. TB3, TB5, TB6, TB12, BT1, BT7, BT11, BV71, BV73… ( Lê Đình
Khả , 2006) )[12].
Lai giống nhân tạo giữa các cây trội đã được chọn lọc từ các xuất xứ có
triển vọng cao nhất của Keo tai tượng và Keo lá tràm cùng một số Keo lai tự
nhiên như BV10, BV16, BV32… đã được thực hiện trong các năm 1997 –
1999 Ba Vì. Những tổ hợp lai này có sinh trưởng tương đối nhanh ,có thân
cây thẳng, cành nhánh nhỏ, ngọn cây phát triển tốt đây chính là tiền đề phát
triển gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước cũng như xuất khẩu
trong những năm tới.
1.2.3. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng
Nghiên cứu điều kiện lập địa là nghiên cứu mối quan hệ giữa khả năng
sinh trường của thực vật rừng với các yếu tố của môi trường thông qua khí
hậu, đất đai, địa hình nhằm tìm hiểu các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng và

quyết định tới sự hình thành các kiểu quần thể thực vật khác nhau và năng
suất sinh trưởng của chúng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, điển hình là
nghiên cứu của Đỗ Đình Sâm và cộng sự (1994) [32], khi đánh giá tiềm năng
sản xuất đất lâm nghiệp vùng Đông Nam Bộ, tác giả đã căn cứ 3 nội dung cơ
16
bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau đó là đơn vị sử dụng đất, tiềm năng sản
xuất của đất và độ thích hợp của cây trồng.
Nghiên cứu về sản lượng rừng trồng Keo lai ở vùng Đông Nam Bộ,
Phan Thế Dũng và Hồ Văn Phúc (2004) đã chỉ ra rằng Keo lai cho năng
xuất khác nhau trên các điều kiện lập địa khác nhau. Sau 7 năm trồng năng
suất cao nhất đạt 33m
3
/năm/ha trên đất feralit đỏ vàng và trên đất khác đạt
năng xuất khác nhau.
Như vậy trên các loại đất khác nhau thì khả năng sinh trưởng cũng khác
nhau mặc dù được áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh như nhau nhưng
trên đất đỏ feralit Keo lai sinh trưởng tốt hơn.
1.2.4. Ảnh hưởng của phân bón đến năng xuất và chất lượng rừng trồng
Phân bón là một trong những biện pháp kỹ thuật thâm canh quan trọng
nhằm làm ổn định, tăng năng suất và chất lượng rừng trồng. Phân bón bổ
xung dinh dưỡng cho đất và hỗ trợ cho cây trồng sinh trưởng nhanh trong
giai đoạn đầu, làm tăng sức đề kháng của cây đối với các điều kiện bất lợi
của môi trường.
Đối với việt nam đã có rất nhiều công trình đi sâu vào nghiên cứu điển
hình có công trình nghiên cứu bón phân cho Keo lai ở Cẩm Qùy (Ba Vì)
của Lê Đình Khả, Hồ Quang Vinh (1998) [18]. Thí nghiệm được thực hiện
trên đất feralit phát triển trên đá mẹ sa thạch có tầng đất mỏng (30 – 50cm) thí
nghiệm được tiến hành với biện pháp thâm canh cày đất toàn diện và bón
phân với 8 công thức khác nhau. Kết quả là công thức bón phân phối hợp 2kg
phân chuồng với 100gam phân themophotphat cho 1 gốc cây thì cho sinh

trưởng tốt nhất tiếp theo đến công thức bón 1kg phân chuồng với 100g
themophotphat cho 1 gốc cây. Tác giả còn cho thấy rừng trồng Keo lai được
bón lót 100g NPK/cây và bón thúc 100gNPK/cây vào năm thứ 2 cho lượng
tăng trưởng cao hơn rừng chỉ bón lót khi trồng. Như công trình nghiên cứu
của Nguyễn Huy Sơn nghiên cứu bón phân cho Bạch đàn Urophylla ở Đại Lải
- Vĩnh Phúc năm 2006 [30] với 8 công thức thí nghiệm bón lót khác nhau và
bón thúc năm thứ 2 vào đầu mùa mưa lặp lại như khi bón lót. Sử lý thực bì và
17
làm đất toàn diện bằng cơ giới, cày toàn diện sâu 25cm, cày rạch hàng sâu
40cm, sau 6 tháng trồng thu được kết quả cho thấy tỷ lệ sống các công thức
thí nghiệm đều cao. Sau 30 tháng tuổi tỷ lệ sống vẫn đạt từ 97,22 – 98,15%
khả năng sinh trưởng của Bạch đàn Urophylla khá nhanh và rõ rệt rệt giữa các
công thức thí nghiệm cả về đường kính lẫn chiều cao, sau 6 tháng tuổi đường
kính gốc đạt từ 2,54 - 3,14cm và chiều cao đạt từ 1,87 - 2,06m; sau 30 tháng
tuổi, đường kính ngang ngực đạt từ 6,32 - 7,23cm và chiều cao đạt từ 8,21 -
9,66m. Kết quả nghiên cứu cho thấy, công thức bón phân tốt nhất thuộc về
các công thức có mặt đồng thời cả phân NPK, vi sinh và vôi bột. Cụ thể đối
với nghiên cứu trên thì khi bón lót và bón thúc tốt nhất là ở công thức 100g
NPK (5:10:3) + 200g vi sinh + 100g vôi bột. Như vậy việc bón phân là rất cần
thiết đối với trồng rừng và điều quan trọng nữa là phải xác định đúng loại
phân, đúng thời vụ, đúng liều lượng. Bón phân cho rừng trồng là một trong
những biện pháp kỹ thuật thâm canh đã được nghiên cứu nhiều nhất. Các tác
giả đều kết luận rằng phân bón có ảnh hưởng khá rõ đến sinh trưởng của các
loài cây trồng, đặc biệt là đối với các loài cây trồng rừng nguyên liệu.
1.2.5. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất và chất lượng rừng trồng
Nếu mật độ quá cao sẽ ảnh hưởng xấu tới khả năng sinh trưởng của cây
trồng, nếu mật độ quá thấp sẽ lãng phí đất và tốn công chăm sóc. Để tận dụng
tối đa không gian dinh dưỡng thì việc xác định mật độ trồng rừng ban đầu có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm làm giảm chi phí trồng rừng và nâng cao
năng suất rừng trồng như mong muốn

Mật độ trồng rừng là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất
và chất lượng của rừng trồng.Với những mục đích trồng rừng khác nhau và
điều kiện lập địa khác nhau ta phải bố trí làm sao cho hợp lý mật độ để cho
cây có điều kiện sinh trưởng và phát triển tốt nhất .
Để làm rõ vấn đề này, Phạm Thế Dũng và các cộng sự (2004) [7] khi
đánh giá năng suất rừng trồng Keo lai ở vùng Đông Nam Bộ, đã khảo sát trên
4 mô hình có mật độ trồng ban đầu khác nhau (952 cây/ha, 1.111 cây/ha,
1.142 cây/ha và 1.666 cây/ha). Kết quả phân tích cho thấy, sau 3 năm trồng
18
cho năng suất cao nhất ở rừng có mật độ 1.666 cây/ha (21m
3
/ha/năm); năng
suất thấp nhất ở rừng có mật độ 952 cây/ha (9,7m
3
/ha/năm). Tác giả đã
khuyến cáo rằng đối với Keo lai ở khu vực Đông Nam Bộ nên bố trí mật độ
ban đầu trong khoảng 1.111cây/ha - 1.666cây/ha là thích hợp nhất. Đối với
rừng trồng làm nguyên liệu giấy nên thiết kế mật độ trồng ban đầu là 1.428
cây/ha; rừng trồng phục vụ cho mục đích lấy gỗ nhỡ và nhỏ nên trồng với mật
độ 1.111 cây/ha.
Nguyễn Huy Sơn (2006) [30] về xác định mật độ trồng Keo lai thích hợp
trên đất feralit phát triển trên phiến thạch sét ở Quảng Trị, Các thí nghiệm
được bố trí với 3 công thức mật độ khác nhau (1.330 cây/ha, 1.660 cây/ha,
2.500 cây/ha). Kết quả phân tích cho thấy sau 1 năm trồng tỷ lệ sống khá cao,
đạt từ 98,15 - 100%, sau 2 năm tỷ lệ sống ở các công thức thí nghiệm có giảm
nhưng vẫn đạt từ 91,67 - 93,52%. Khả năng sinh trưởng tốt nhất ở công thức
mật độ 1.660cây/ha và kém nhất ở công thức mật độ 2.500 cây/ha.
Với các quy trình kỹ thuật trồng rừng thâm canh cung cấp nguyên liệu
giấy ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã qui định mật độ trồng cho một số loài
Thông, Keo lá to và Bồ đề là từ 1.200 - 1.500 cây/ha; Bạch đàn là 1.000

cây/ha; Qui trình trồng rừng thâm canh Bạch đàn E.urophylla cũng qui định
mật độ trồng từ 1.110 - 1.660 cây/ha; Qui phạm kỹ thuật trồng rừng Tếch qui
định trồng thuần loài từ 2.000 - 2.500 cây /ha, trồng xen có thể trồng từ 1.000
- 1.250 cây/ha (Vụ KHCN&CLSP, 2001).Mật độ trồng các loại Keo từ 1.110
- 1.660 cây/ha (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2005) [3].
Với những quy trình quy phạm đã quy định cho các loại mật độ cụ thể
cho mốt số loại trồng rừng thâm canh và đã áp dụng có hiệu quả tương đối
cao nhưng cũng chưa ổn định.
Ngoài ra đặc điểm gỗ cũng chịu ảnh hưởng của các biện pháp kỹ thuật
gây trồng cũng như điều kiện lập địa, đồng thời liên quan chặt chẽ tới các sản
phẩm hàng hoá. Cấu tạo gỗ là yếu tố chủ yếu nhất ảnh hưởng đến tính chất
gỗ. Cấu tạo và tính chất liên quan mật thiết với nhau, cấu tạo có thể xem là
biểu hiện bên ngoài của tính chất. Những hiểu biết về cấu tạo gỗ là cơ sở để
19
giải thích bản chất các hiện tượng sản sinh trong quá trình gia công chế biến
và sử dụng gỗ (Lê Xuân Tình 1998) [33]. Gần đây đã có nhiều nghiên cứu về
vấn đề này, điển hình là nghiên cứu của Lê Đình Khải (1999) [19] về tiềm
năng bột giấy của một số dòng Keo lai ở nước ta, nghiên cứu đã chỉ ra rằng
gỗ Keo lai có tỷ trọng trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm, có khối
lượng gấp 3 - 4 lần so với giống bố mẹ. Ở giai đoạn 4-5 tuổi, tỷ trọng gỗ của
Keo lai trung bình khoảng 0,455g/cm3, trong khi đó Keo tai tượng là
0,414g/cm3, keo lá tràm là 0,469 g/cm3. Các dòng Keo lai được lựa chọn có
tỷ trọng gỗ và tính chất co rút của gỗ khác nhau, trong đó các dòng BV32,
BV33 có tỷ trọng cao nhất, dòng BV16 gỗ không bị nứt khi phơi khô. Cũng
với kết quả nghiên cứu về tiềm năng sử dụng gỗ Keo lai và những điều cần
lưu ý trong trồng rừng.
1.3. Những nghiên cứu về cây Keo lai (Acacia hybrids)
1.3.1. Đặc điểm cây Keo lai ( A. Hybrids)
* Đặc điểm khoa học
Giới (regnum): Thực vật (Plantate)

Bộ (ordo): Đậu (Fabales)
Họ (familia): Đậu (Fabaceae)
Phân họ (subfamilia): Trinh nữ (Mimosoideae)
Chi (genus): Keo (Acacia)
Loài (species): Keo lai (Acacia mangium x Acacia auriculiformis)
Cây Keo lá tràm và cây Keo tai tượng được nhập vào nước ta từ những
năm 1960 nhưng mãi đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Cây Keo lai
được chấm phá đầu tiên vào năm 1972 bởi 2 nhà khoa học Hepbum và Ghim
tháng một quần thụ ven biển vùng Sabah, Malaysia. Nam 1976, M.Tham đã
kết luận thông qua việc thụ phấn chéo giữa Keo tai tượng (Acacia mangium)
và Keo lá tràm (A. auriculifonnis) sẽ tạo ra được cây Keo lai có sức sinh
trưởng nhanh hơn cầy bố mẹ. Kết luận trên cũng đã được xác nhận bởi kết
quả nghiên cứa của Pedley năm 1987. Sau đó hàng loạt các công trình. nghiên
20

×