Hình thức nuôi cá bằng nuôi ghép
a. Cơ sở khoa học của việc nuôi ghép
* Định nghĩa: Nuôi ghép là hình thức nuôi nhiều
loài cá (mà thông thường từ 3-4 loàikhác nhau) trong
cùng một ao.
* Cơ sở: Do các loài cá khác nhau có tập tính sống
khác nhau, ăn những loại thức ăn khác nhau nên việc
nuôi ghép có khả năng sử dụng một cách có hiệu quả
nhất tiềm năng sản xuất của thủy vực và như vậy sẽ
làm tăng năng lực sản xuất trên một đơn vị diện tích
của thủy vực.
Trong nuôi ghép chúng ta cần phải quan tâm
nhiều đến tỷ lệ hợp lý vềkhoảng không gian hoạt
động cho các loài cá khác nhau ở các tầng nước khác
nhau (như cá sống tầng mặt, cá sống tầng giữa, và
các sống tầng đáy). Việc nuôi ghép như vậy sẽ tận
dụng được nguồn thức ăn tự nhiên, khoảng không
gian của các ao và hiệu ứng tác động qua lại lẫn nhau
của các loài cá các loài cá khác nhau sẽ được tận
dụng một cách triệt để nhất. Do đó tránh được những
ảnh hưởng theo chiều hướng có hại.
Ví dụ, cá trắm cỏ ăn các loài thực vật thượng
đẳng là chính. Chúng ăn rất nhiều cỏ, nhưng chúng
chỉ có khả năng tiêu hóa và hấp thu được những phần
mềm của thức ăn. Vì vậy trong phân thải của chúng
chứa rất nhiều tế bào thực vật không tiêu hóa được.
Một phần chất thải đó được sử dụng như là nguồn
cung cấp thức ăn trực tiếp cho các loài cá khác, phần
còn lại giúp cho việc tăng cường nguồn chất dinh
dưỡng cho ao, giống như việc bón phân giúp cho việc
thúc đẩy sự phát triển của thực vật phù được. Điều đó
không chỉ thích hợp cho sự phát triển của cá mè hoa,
cá mè trắng, mà còn thích hợp cho sự phát triển của
cá trắm cỏ. Bởi những loài cá này, đặc biệt là cá mè
trắng khi thả xuống ao thì lượng phân trong nước
được giảm đi một cách nhanh chóng do chúng đã sử
dụng một phần khá lớn những tế bào thực vật mà cá
trắm cỏ không tiêu hóa được làm cho môi trường
nước được trong sạch. Chính vì lí do đó mà trong dân
gian đã có câu “một trắm cõng 3 mè”.
Đối với cá mè trắng và cá mè hoa, nguồn thức ăn
chính của chúng là sinh vật phù được và không có sự
cạnh tranh giữa chúng với các loài cá khác. Nhưng
giữa hai loài cá này cũng có sự cạnh tranh thức ăn
nhất định, tuy không phải là cạnh tranh đối kháng.
Bởi động vật phù được là thức ăn thích hợp của cá
mè hoa thì lại ăn thực vật phù được. Vì thế khi chúgn
ta đưa cá mè trắng vào nuôi thả quá nhiều trong ao
cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của
cá mè hoa do cá mè trắng đã sử dụng một lượng lớn
thực vật phù được làm hạn ché sự phát triển của động
vật phù được.
Cá trôi ăn mùn bã hữu cơ, tảo bám và tảo nổi. Vì
vậy khi lượng cá mè trắng thả xuống nhiều cũng ảnh
hưởng một phần nhất định đến sự phát triển của
chúng.Thông thường tổng trọng lượng cá mè trắng
thả trong 1 ha diệnt ích ao nuôi chỉ khoảng 300 -
450kg. Cá trôi sử dụng tốt mùn bã hữu cơ và chúng
có thể phát triển đặc biệt tốt trong những ao nuôi cá
mà ở đó cá trắm cỏ được coi như đối tượng nuôi
chính. Bởi phần rong cỏ thối rữa, cái mà cá trắm cỏ
không thể sử dụng được, lại là nguồn thức ăn thích
hợp đối với cá trôi. Chình vì vậy mà cá trôi không thể
thiếu trong thành phần đàn cá nuôi tại các ao hiện
nay.
Cá chép là loài cá ăn mùn bã hữu cơ và động vật
đáy. Giữa chúng với cá mè trắng, mè hoa không có
sự cạnh tranh về thức ăn. Cá chép có đặc tính thích
chui rúc trong bùn đáy để tìm kiếm thức ăn. Điều đó
giúp cho quá trình phân hủy mùn bã hữu cơ ở đáy ao
được nhanh hơn, thông qua đó kích thích một cách
gián tiếp sự phát triển của cá mè trắng, mè hoa, và
các loài cá khác. Những giữa cá chép và cá trôi có
cùng chung một loại thức ăn là mùn bã hữu cơ vì thế
để tránh cạnh tranh mâu thuẫn giữa chúng thì mật độ
nuôi thả cá chép chỉ nên trong phạm vi 150 - 450
con/ha. Nếu vượt quá giới hạn chúng sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của cá trôi.
Thức ăn chủ yếu của cá trắm đen là các loài động
vật thân mềm. Đây cũng là một đối tượng có thể
được đưa vào nuôi ghép trong ao để làm tăng hiệu
quả kinh tế và mặt khác chúng có vai trò hạn chế sự
phát triển của động vật thân mềm. Vì nếu động vật
thân mềm phát triển chúng sẽ cạnh tranh thức ăn với
csa mè trăng và mè hoa. Chính vì vậy việc thả nuôi từ
75 - 100cá trắm đen trên 1 ha sẽ kiểm soát được sự
phát triển, sinh sản của động vật thân mềm.
Cá mè vinh có phổ thức ăn gần giống với phổ
thức ăn của cá trắm cỏ, thức ăn chính của chúng là
thực vật bậc cao, tảo sợi và các động vật nhỏ nhưng
cường độ ăn của chúng thì thấp hơn nhiều so với cá
trắm cỏ. Do đó chúng cũng là một đối tượng nuôi tốt
trong các ao nuôi có cá trắm cỏ, mè trắng, mè hoa, và
cá trôi.
Cá lóc và các loài cá dữ ăn các loài thức ăn như
tôm, cá nhỏ, cá tạp, trong các ao nuôi vỗ cá bố mẹ có
thể tát cạn hàng năm thì việc nuôi 450 - 600 cá trắm
cỏ trên 1 ha là việc nên làm nhằm hạn chế sự phát
triển của cá tạp, tôm, tép và cũng làm tăng sản lượng
cá nuôi. Tuy nhiên đối với loài cá này cần phải đượn
thu hoạch vào cuối kỳ nuôi để trách tác hại của chúng
đối với các vụ nuôi sau.
Hiểu rõ tập tính sinh sống và phương thức kiếm
mồi của một số loại cá nuôi, nghiên cứu nắm vững
mối quan hệ giữa các sinh vật ttrong một vùng nước
ta thấy trong bất kỳ vùng nước(nông, sâu, rộng, hẹp)
với thức ăn tự nhiên hay nhân tạo đều có đủ các loại
cá trên(theo tỉ lệ thích hợp), chúng sẽ tận dụng đày đủ
nguồn thức ăn trong ao mà không xảy ra hiện tượng
cạnh tranh thức ăn.
b. Các điều kiện cho việc nuôi ghép
Trong kỹ thuật nuôi ghép cá ao thì phải xác định
được 1-2, hoặc 3 loài cá nuôi như những đối tượng
nuôi chính. Bên cạnh đó những đối tượng khác được
coi là đối tượng nuôi phụ. Hiện nay ở một số nơi
người ta có thể nuôi từ 7-8 loài cá khác nhau trong
cùng một ao, vì thế trong những loài đó đó chi có một
số loài là đối tượng nuôi chính, những loài còn lại là
đối tượng thứ hai. Số lượng cá giống của mỗi loài
như thế nào tùy thuộc vào các điều kiện sau:
* Giống loài cá
Ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung nước ta
những loài cá được đưa vào nuôi chính trong ao là cá
mè hoa, cá mè trắng, cá trôi, cá trắm cỏ, cá chép, cá
rô phi. Ngoài những loài đó ra thì những loài khác
được coi như là loài phụ.
Ở các tỉnh phía Nam các loài như cá tra, cá ba sa,
cá diêu hồng, cá mè vinh, cá bống tượng, cá sặc rằn
là những đối tượng nuôi chính trong ao.
* Nguồn cung cấp thức ăn
Khả năng cung cấp thức ăn tại chổ là điều cần
quan tâm trước tiên cho việc chọn đối tượng nuôi. Cá
trắm cỏ, cá mè vinh nên được nuôi ở những nơi có
đồng cỏ, hoặc nơi cỏ mọc nhiều. Cá mè trắng, mè
hoa, rô phi, cá trôi được nuôi ở những nơi có chăn
nuôi gia súc, gia cầm để đảm bảo lượng phân bón
cung cấp đầy đủ.
* Điều kiện của ao nuôi
Độ phì của ao có ảnh hưởng rất lớn đến hợp
phần sinh vật phù được. Cá mè trắng, mè hoa có thể
nuôi như những đối tượng chính ở các ao mà nơi đó
có đầy đủ chất dinh dưỡng và nguồn thức ăn tự nhiên
phong phú. Trong khi đó cá trắm cỏ lại nên nuôi ở
những nơi có nguồn nước trong sạch. Đối với những
ao có nguồn nước thải sinh hoạt đổ vào (nguồn nước
thải này không được chứa các chất độc) thì đối tượng
nuôi thích hợp nhất lại là cá rô phi và cá trôi.