Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Bước đầu nghiên cứu xây dựng bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã quảng công, huyện quảng điền, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.18 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Tài nguyên Đất & Môi trường Nông nghiệp
-----------o0o----------
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
ĐỀ TÀI:
“Bước đầu nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ thị đánh
giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Phương Anh
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thị Thanh Hải (Nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Hải Hà
3. Lê Thị Hiệp
4. Ngô Đức Phong
5. Nguyễn Thị Ngọc Tú
1
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế truyền thống mũi nhọn, có thế mạnh của các
tỉnh có vùng ven biển và đầm phá ở nước ta. Sự phát triển mạnh ngành NTTS đã góp phần
tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân. Song song với những lợi ích của các hoạt
động NTTS mang đến, nó còn để lại những ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên và môi
trường vùng ven biển, vùng biển.
Việt Nam là nước có tiềm năng về thủy sản. Với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, nước ta
có chiều dài đường bờ biển khá lớn 3200 km, cùng với các yếu tố nhiệt độ, môi trường,
nguồn thức ăn... là điều kiện lý tưởng để đầu tư phát triển kinh tế thủy sản. Đặc biệt, tỉnh
Thừa Thiên Huế là tỉnh có đường bờ biển dài 126 km và hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai
lớn nhất Đông Nam Á với diện tích là 21.594 ha, là nơi có điều kiện khá lý tưởng cho sự
sinh trưởng các loài thủy sản có giá trị cao, đặc biệt là tôm.


Huyện Quảng Điền là huyện trọng điểm của vùng ven biển đầm phá TTH, có tiềm năng
lớn về NTTS, chủ yếu là nuôi tôm. Trong đó, xã Quảng Công là một trong những xã có nghề
nuôi tôm phát triển sớm nhất ở huyện Quảng Điền với nhiều hình thức nuôi tôm nhất ở
huyện: QCCT, BTC, TC. Sự phát triển ngành nuôi tôm ở xã Quảng Công góp phần xóa đói
giảm nghèo, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người dân địa phương.
Các mô hình nuôi trồng thuỷ sản nói chung, nuôi tôm nói riêng đã phát triển rất nhanh
cùng với quá trình phát triển của ngành. Phương thức nuôi trồng đã chuyển từ nuôi tự nhiên,
quảng canh, nuôi phân tán với mật độ thấp... sang nuôi bán thâm canh, thâm canh, nuôi công
nghiệp với mật độ cao, nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn phục vụ cho tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, việc nuôi trồng thủy sản với mật độ cao, năng suất lớn, đã
gây nên những tác động môi trường ngày càng nghiêm trọng, nếu không được xử lý triệt để
có thể gây ra sự mất cân bằng hệ sinh thái tự nhiên và ảnh hưởng đến việc nuôi trồng thủy
sản.
Để thực hiện Quyết định 1690/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản
Việt Nam đến năm 2020 và Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính Phủ
về Bảo tồn và Phát triển bền vững của các vùng đất ngập nước, chúng ta cần nghiên cứu
đánh giá tính bền vững các hình thức NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng phù hợp với
đặc tính sinh thái của từng địa phương.
Đối với ngành Thủy sản, việc xây dựng Bộ chỉ thị đã được FAO thực hiện từ lâu với
mục đích là hướng đến các vùng nuôi bền vững. Nhưng việc xây dựng Bộ chỉ thị để đánh
giá các hình thức nuôi ở từng địa phương vẫn chưa nhận được sự quan tâm cần thiết.
Dựa vào tính cấp thiết đó, chúng tôi thực hiện đề tài: “Bước đầu nghiên cứu xây dựng
Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế”
2
1.2 Mục tiêu.
1.2.1 Mục tiêu chung
Nhằm nâng cao nhận thức cho ngư dân và cộng đồng trong việc sử dụng các hình thức
nuôi tôm hợp lý nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ tốt hơn về vấn đề môi trường
trong hiện tại cũng như trong tương lai.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Bước đầu xây dựng bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm.
- Đánh giá các ảnh hưởng của các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công đến môi trường.
- Lựa chọn mô hình và hình thức nuôi tôm phù hợp.
- Đề xuất các biện pháp bảo vệ môi trường và quản lý để phát triển nghề nuôi tôm ở xã
Quảng Công.
3
PHẦN II
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU, CÁCH TIẾP CẬN,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế với các hình thức nuôi: Thâm canh, bán thâm canh, quảng canh
cải tiến.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi thời gian: từ ngày 1/12/2009 đến ngày 1/12/2010.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành ngành nghiên cứu việc xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức
nuôi tôm của một số hộ dân ở thôn 1, 2, 4 ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được đề tài này và đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
2.3.1. Phương pháp điều tra
2.3.1.1. Thu thập số liệu:
Các số liệu thu thập được từ những tác giả đi trước, cũng như việc thu thập các tài liệu,
số liệu ở các Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, Phòng thống kê
của Cục thống kê thành phố Huế, Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Điền,… của các đề tài,

dự án, các trang web, các báo cáo, các quy định, chỉ thị, tạp chí, báo chí,…
2.3.1.2. Điều tra phỏng vấn và trả lời câu hỏi bằng phiếu điều tra
Người trả lời câu hỏi sẽ trả lời vào phiếu điều tra về 4 lĩnh vực: về QMHN, LP-TC, MT-
ST, KT-XH. Chúng tôi chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm 2 người đã trực tiếp điều tra ở 21 hộ
nuôi tôm tại các thôn: 1, 2, 4.
2.3.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Phương pháp này nhằm mục đích kiểm nghiệm lại việc xây dựng các nhóm chỉ thị đã
phù hợp chưa, nếu chưa thì chỉnh sửa hoàn thiện hơn để Bộ chỉ thị được xây dựng đảm bảo
tính đại diện cho địa phương.
2.3.3. Phương pháp thống kê
Các số liệu thu thập đều ở dạng rời rạc, do vậy, cần được chọn lọc, thống kê, xâu chuỗi
thành một thể thống nhất ngắn gọn nhưng mà phản ánh đầy đủ các thông tin liên quan đến
đề tài nghiên cứu.
Chúng tôi đã sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2003 và phương pháp thống kê toán
học để xử lý số liệu sau khi thu thập được.
4
2.3.4. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã trao đổi thông tin, hỏi ý kiến các cán bộ có
trình độ chuyên môn về nuôi tôm, môi trường, cán bộ và người dân nuôi tôm ở xã Quảng
Công, Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Điền. Nhằm để xác định các nhóm chỉ thị, các
tham số nào cần được xây dựng và xem xét tầm quan trọng của từng chỉ thị để cho điểm
chính xác hơn.
2.3.5. Phương pháp so sánh
Các chỉ thị sau khi được xây dựng xong, điều tra, cho điểm, tính điểm cần phải so sánh
giữa kết quả lý thuyết với thực tế nhằm điều chỉnh lại các tham số, quy trình xây dựng. Sau
đó, đánh giá hình thức nào là bền vững và ở địa phương nào nên áp dụng hình thức phù hợp
để cho kết quả tốt.
5
PHẦN III
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

3.1. Cơ sở lý luận
3.1.1. Theo tổ chức FAO
Theo tổ chức FAO (Tổ chức Nông Lương Thế Giới), sự PTBV trong NTTS: “là sự quản
lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và sự định hướng về những thay đổi công nghệ và thể
chế theo hướng đảm bảo sự đáp ứng các nhu cầu cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Sự phát
triển như vậy đòi hỏi phải bảo vệ đất, nước, các nguồn gen động vật và thực vật, không làm
suy thoái môi trường, phải phù hợp về mặt kỹ thuật, vững chắc về mặt kinh tế và được chấp
nhận về mặt xã hội ”.
Để thực hiện những vấn đề trên, FAO đã đưa ra mục tiêu PTBV trong NTTS:
Mục tiêu 1: Sử dụng đất và nước thích hợp trong NTTS bền vững.
Mục tiêu 2: Bảo tồn các chức năng của các hệ sinh thái quan trọng và những môi trường
nước nhạy cảm.
Mục tiêu 3: Quản lý tốt các nguồn tài nguyên đất và cải tạo đất nhằm giảm thiểu các tác
động có hại lên môi trường xung quanh.
Mục tiêu 4: Giảm thiểu các tác động có hại lên các nguồn tài nguyên nước địa phương.
Mục tiêu 5: Tránh việc để các loài nuôi ngoại lai và chuyển ghép gen xâm nhập vào môi
trường xung quanh.
Mục tiêu 6: Quản lý tốt việc sử dụng các loại hóa chất có hại cho sức khỏe con người và
các hệ sinh thái.
Mục tiêu 7: Gia tăng cao nhất hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên và giảm thiểu thấp
nhất lượng chất thải được tạo ra.
Mục tiêu 8: Giảm thiểu sự lệ thuộc vào các nguồn giống tự nhiên ở các trang trại.
Mục tiêu 9: Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho vật nuôi nhằm giảm thiểu nguy cơ
dịch bệnh trong các trang trại (TT) và ngoài tự nhiên.
Mục tiêu 10: Tối ưu hóa các lợi ích KT-XH cho cộng đồng và đất nước.
Mục tiêu 11: Cải tiến các hoạt động ở TT nuôi nhằm giảm thiểu các tác động lên những
đối tượng sản xuất xung quanh.
Mục tiêu 12: Đảm bảo quyền và phúc lợi của nhân công làm việc ở các trung tâm.
Trong Chương trình Nghị sự 21, tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ) đã chỉ ra rằng, muốn
xây dựng các chỉ thị PTBV cần tập trung vào các vấn đề: Kinh tế, xã hội, môi trường và

năng lực thể chế. Đồng thời Uỷ ban LHQ còn kêu gọi mỗi ngành hãy xây cho mình Bộ chỉ
thị riêng của ngành đó. Đối với ngành NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng là cần thiết bởi
vì đây là ngành gây ra nhiều tác động không chỉ cho môi trường mà còn trong lĩnh vực KT-
XH.
Trong Hội nghị bàn về các chỉ thị và chỉ tiêu đánh giá sự bền vững trong NTTS được tổ
chức tại Roma-Ý từ ngày 28 đến 30 tháng 4, năm 1998, nhóm chuyên gia kỹ thuật của FAO
6
cũng đã thống nhất đưa ra 4 nhóm chỉ thị cơ bản dựa trên 4 nhóm chỉ thị về PTBV được đề
xuất bởi Ủy Ban
* Nhóm chỉ thị về luật pháp thể chế
Hội nghị đã thống nhất các chỉ thị về LP-TC là những chỉ thị về áp lực trực tiếp hoặc
gián tiếp, hoặc động lực có tác động đến hệ thống tài nguyên. Ví dụ như số lượng giấy phép
được phát hành để trang trại hoặc hộ nuôi hoạt động, hoặc là các chỉ thị về đáp ứng phản
ánh những hành động của chính quyền (luật pháp và quy định) hay của ngành (các cam kết
và tiêu chí) để giảm thiểu, loại bỏ hay đền bù về những thiệt hại do sự phát triển và quản lý
việc NTTS gây ra. Nhóm chuyên gia kỹ thuật cũng đã xét đến các khía cạnh khác nhau của
các chỉ thị thuộc nhóm này như: về quy hoạch, về quản lý trang trại,…
* Nhóm chỉ thị về quy mô trang trại (QMTT) hoặc hộ nuôi
Để xem xét đầy đủ các vấn đề liên quan đến QMTT hoặc QMHN là rất khó khăn bởi
việc thu thập số liệu, các thông tin liên quan đến tài chính là khó thực hiện. Do vậy, Hội nghị
đã thống nhất đưa ra những thông tin để mang lại hiệu quả nuôi cho trang trại hoặc hộ nuôi
như: thời gian hoạt động, cơ sở hạ tầng,…
* Nhóm chỉ thị về môi trường
Đây là vấn đề nan giải bởi vì những tác động lên môi trường thường mang tính tiềm
tàng. Khi xây dựng chỉ thị, ta nên hạn chế số lượng các chỉ thị và tập trung vào những chỉ thị
cho thấy sự bền vững của quốc gia hoặc khu vực sinh thái. Tại Hội nghị đã xem xét và đưa
ra các chỉ thị về PTBV trong NTTS liên quan đến MT-ST là: diện tích ao nuôi, sử dụng
nguồn nước và chất lượng nước, sử dụng hóa chất, giống và thức ăn, dịch bệnh và xử lý dịch
bệnh,…
* Nhóm chỉ thị về kinh tế xã hội

Nhóm chuyên gia kỹ thuật của FAO đưa ra chú ý khi xác định các tham số đặc trưng về
nhóm chỉ thị KT-XH là phải đánh giá khả năng tồn tại về mặt kinh tế cũng như sự chấp nhận
của xã hội đối với việc NTTS ở hiện tại và tương lai.
Tóm lại, các nhóm chỉ thị trên chỉ nghiên cứu ở cấp độ quốc gia. Mỗi nhóm có thể phù
hợp ở một phạm vi nhất định. Các chuyên gia kỹ thuật của FAO khuyến khích nên phát triển
các chỉ thị ở cấp độ càng nhỏ thì sẽ dễ đánh giá hơn.
3.1.2. Các hình thức nuôi tôm hiện nay [8]
3.1.2.1. Nuôi quảng canh (Extensive culture)
Là hình thức nuôi phụ thuộc vào tự nhiên là chính, thông qua việc lấy nước qua cửa
cống và nhốt giữ trong một thời gian nhất định, ít đầu tư chăm sóc. Mật độ thả giống rất
thấp, từ 1-3 con/m
2
. Năng suất bình quân đạt 180 kg/ha/vụ. Ở vùng đầm phá TTH, nuôi tôm
cá CS được xem là nuôi QC. Hình thức này vốn đầu tư phù hợp với dân nghèo nhưng mức
độ rủi ro lớn do bị ảnh hưởng trực tiếp của mưa lụt, nhất là lụt tiểu mãn.
3.1.2.2. Nuôi quảng canh cải tiến (Improve extensive)
Là hình thức nuôi cao hơn của QC. Ở hình thức QCCT, tuy phụ thuộc nhiều vào tự
nhiên, lấy nước theo thủy triều nhưng được đầu tư chủ động giống, thức ăn ở mật độ nhất
định đồng thời có đầu tư biện pháp cải tạo đầm, diệt trừ các đối tượng dịch hại để tăng tỷ lệ
sống và năng suất. Quy mô DT dưới 2 ha. Mật độ giống thả từ 4-9 con/m
2
. NS đạt từ
300-900 kg/ha/vụ. Mực nước sâu 1-1,2 m. Ở vùng đầm phá, nuôi ao hạ triều được xem là
nuôi QCCT. Hình thức này phù hợp với vùng có bãi triều rộng hoang hóa, nuôi có hiệu quả
7
nhưng dễ ô nhiễm môi trường vì không xử lý triệt để đáy, nhất là nếu nâng cao mật độ thả
giống
3.1.2.3. Nuôi bán thâm canh (Semi-intensive)
Là hình thức nuôi bằng giống nhân tạo và thức ăn công nghiệp là chủ yếu, đồng thời kết
hợp một phần sử dụng thức ăn tự nhiên có trong đầm phá. Hệ thống ao đầm đã được đầu tư

một số cơ sở hạ tầng nhất định (điện, cơ khí, thủy lợi,…) để chủ động nguồn nước, xử lý và
khống chế môi trường như hệ thống máy bơm, máy sục khí. Diện tích ao từ 0,5-1,5 ha, mật
độ thả giống từ 10-15 con/m
2
, mực nước từ 1,2-1,4 m. Năng suất đạt từ 1-2 tấn/ha/vụ
3.1.2.4. Nuôi thâm canh hay nuôi công nghiệp (Intensive)
Là hình thức nuôi hoàn toàn bằng giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ tầng
đầy đủ để có thể khống chế các yếu tố môi trường, chủ động được nguồn nước mặn và ngọt.
Diện tích ao từ 0,5-1 ha, độ sâu mực nước từ 1,5-2,0 m. Mật độ giống thả từ 16-30 con/m
2
và đạt năng suất từ 2-5 tấn/ha/vụ.
Bảng 3.1: Chỉ tiêu các hình thức nuôi tôm
Chỉ tiêu QC QCCT BTC TC
Cở ao (ha) Không xác
định
1 - 2 0,5 - 1,5 0,5 - 1,0
Mực nước tối thiểu
(m)
Phụ thuộc
thủy triều
1,0 - 1,2 0,12 - 1,4 1,5 - 2,0
Mật độ thả giống
(con/m
2
)
1 - 3 4 - 9 10 - 15 6 - 30
Quạt nước sụt khí Không Không Có Có
Thức ăn
Tự nhiên Có bổ sung
Thức ăn công

nghiệp, một phần
thức ăn tự nhiên
Thức ăn
công nghiệp
Cung cấp nước Lấy nước triều
qua cống
Lấy nước triều
qua cống
Theo yêu cầu kỹ
thuật
Theo yêu
cầu kỹ thuật
NS (tấn/ha/vụ) 0,05 - 0,3 0,31 - 0,9 1,00 - 2,00 2,00 - 5,00
( Nguồn: Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, 12/2008)
3.1.3. Khái niệm về chỉ thị và việc sử dụng chỉ thị hiện nay [3]
3.1.3.1. Khái niệm chỉ thị
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCED) cho rằng chỉ thị là một sự đo lường phản
ánh tình trạng các hệ thống xã hội, kinh tế và môi trường theo thời gian.
Theo Uỷ Ban Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (UNCSD), chỉ thị là những đơn vị
thông tin mô tả tình trạng của các hệ thống, là thước đo tổng hợp các thông tin liên quan đến
một hiện tượng nhất định. Chỉ thị là dụng cụ, đơn vị đo lường được sử dụng để đánh giá,
quan trắc những kết quả đạt được trong suốt quá trình. Mục đích của nó cho thấy được hoạt
8
động của một hệ thống tự nhiên, kinh tế, xã hội đang diễn ra theo chiều hướng như thế nào,
tốt hay xấu. Vì vậy, chỉ thị là rất có ích trong việc đánh giá một vấn đề, nó chỉ phù hợp khi
xét trong mối tương quan với các mục đích cụ thể, ví dụ mục đích là chỉ thị môi trường. Nó
nhằm:
* Cung cấp thông tin cho sự đánh giá
Nó cung cấp thông tin đến các nhà hoach định chính sách và công chúng, đối với mỗi
nhóm đối tượng thì chỉ thị sẽ cung cấp sẽ khác nhau.

Đối với các nhà hoạch định chính sách và nhà quản lý môi trường, chỉ thị cung cấp
thông tin về hiện trạng môi trường đang diễn ra và nhận định hiện trạng đó dựa trên xây
dựng chỉ thị về môi trường đất, không khí, nước,… rồi đánh giá xem nó đang ở mức độ ô
nhiễm nào, hay suy thoái. Tiếp đến, dự báo những diễn biến có thể xảy ra ở mức nào nếu ta
tiếp tục gây ra tác động, hoặc hạn chế gây tác động. Sau đó, họ sẽ đưa ra những biện pháp,
chính sách trước mắt và lâu dài để làm giảm những vấn đề môi trường và dự đoán những kết
quả đạt được khi thực hiện việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Rồi so sánh các chiến lược,
chính sách với các địa phương tốt hơn để rút ra bài học kinh nghiệm. Để đạt mục tiêu, ta
phải đưa ra những chỉ thị đơn giản, phù hợp với thực tế từng địa phương.
* Phục vụ hoạch định chính sách
Đó là việc đặt ra mục tiêu và chỉ tiêu nhằm phục vụ việc xây dựng chiến lược thực hiện
và đánh giá chính sách. Trong giai đoạn này, các chỉ thị được xây dựng cần được lựa chọn
sao cho thực thi và đánh giá tốt các chính sách đã đề ra.
* Đối với cộng đồng
Các chỉ thị đưa ra nhằm mục đích là thông tin môi trường dựa vào các chiến dịch, nhờ
đó mà thay đổi nhận thức của con người và sự tham gia nhiệt tình trong việc BVMT tốt hơn.
Đó là các chỉ thị liên quan đến sức khỏe người dân, việc gây suy thoái môi trường làm cho
họ mất đi kế sinh nhai,…
3.1.3.2. Các tiêu chí dùng để chọn lựa các chỉ thị [3]
Để nhằm mang lại hiệu quả cho việc chọn lựa các chỉ thị, Anderson (1991) và Lê Thạc
Cán (2005) đã đưa ra các tiêu chí như sau:
1.Tính phù hợp với chính sách: được kiểm nghiệm qua việc xem xét tham khảo các văn
bản chính sách, các kế hoạch, luật định ...
2. Khả năng giám sát tiến độ so với mục tiêu đề ra: được kiểm nghiệm thông qua các
thông tin trong các văn bản chính sách.
3. Mức độ bao phủ về mặt không gian và thời gian: nhất quán về không gian và xem xét
đến địa phương phù hợp đối với một vấn đề môi trường nhất định. Chỉ thị bao phủ một
khoảng thời gian đủ để có thể cho thấy xu hướng theo thời gian.
4. Mức độ phù hợp với cấp sử dụng chỉ thị (quốc gia/tỉnh) và mang tính đại diện cho các
địa phương nhằm hỗ trợ việc so sánh.

5. Phù hợp với việc so sánh: ví dụ như so sánh giữa các huyện trong một tỉnh. Khi so
sánh nếu một huyện vượt trội huyện khác về điểm số thì chứng tỏ có thể học được một số
điều từ huyện này.
6. Đơn giản và dễ hiểu nhờ: định nghĩa về các chỉ thị phải rõ ràng và thống nhất và trình
bày chỉ thị một cách hợp lý. Không nên có những nội dung mâu thuẫn giữa các chỉ thị với
nhau.
9
7. Phải có cơ sở về mặt khái niệm cũng như phương pháp luận: điều này phải được thể
hiện trong các mô tả về phương pháp luận và công thức sử dụng, các tham khảo khoa học
cho phương pháp luận và công thức đó. Tất cả những mô tả này cần được đưa vào phần tài
liệu hoá của chỉ thị.
8. Được tài liệu hoá đầy đủ và quản lý được chất lượng: điều này được đánh giá bằng
cách thực hiện kiểm tra công tác tài liệu hoá đối với chỉ thị và mức độ đều đặn các tài liệu
này được cập nhật. Hệ thống quản lý chỉ thị sẽ hỗ trợ các công việc này, hệ thống này sẽ
đem lại tính minh bạch và là cơ sở để có thể quản lý tốt hơn quy trình xây dựng và công bố
chỉ thị.
9. Tính sẵn có của dữ liệu: các dữ liệu thu thập phục vụ cho chỉ thị phải đảm bảo tính
khả thi cả về mặt chuyên môn cũng như tài chính. Các chỉ thị đó phải được xem xét ở các
mức độ quan trọng của chỉ thị đem lại phù hợp với chi phí thu thập dữ liệu để phục vụ cho
việc lựa chọn chỉ thị trong thời gian dài hoặc ngắn.
3.1.3.3. Một số chỉ thị thông dụng hiện đang được sử dụng [1,3]
Chỉ số phát triển con người: được đánh giá trên thang điểm từ 0 đến 1 là một tập hợp
của 3 chỉ thị: tuổi thọ bình quân, tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ người biết chữ và thời gian
trung bình đến trường.
Chỉ số Daly-Cobb: là một chỉ thị toàn diện hơn về sự phát triển kinh tế bền vững. Chỉ số
này không chỉ phản ảnh mức tiêu thụ trung bình mà còn cho thấy sự công bằng trong phân
phối sản phẩm và sự suy thoái môi trường.
Chỉ số tiêu thụ lương thực đầu người: (Per Capital Grain Index) là một thước đo hữu
hiệu về kinh tế ở các nước có thu nhập thấp. Chỉ thị này phản ảnh sự thoả mãn của nhu cầu
cơ bản con người bởi con người không thể tồn tại nếu mức tiêu thụ lương thực hàng năm

dưới 180 kg.
Chỉ số thịnh vượng quốc gia (Wealth of Nations Index, WNI)
Chỉ số thịnh vượng quốc gia do nhóm chuyên gia kinh tế của World Paper và Viện
Nghiên cứu các vấn đề tiền tệ Mỹ công bố hằng năm.
WNI được tính dựa trên 3 nhóm chỉ tiêu là kinh tế, xã hội và trao đổi thông tin. Mỗi
nhóm chỉ tiêu gồm 21 thông số, các tham số này có trọng số như nhau. Đối với mỗi nhóm
chỉ số, các số liệu thô được chuyển đổi thành các chỉ số thay đổi từ thấp nhất 0 điểm đến cao
nhất là 100 điểm. Tổng số điểm của mỗi nhóm tham số là 800 điểm, điểm tổng cộng tối đa
của WNI là 2.400 điểm.
Về chỉ tiêu kinh tế, Việt Nam đạt 494 điểm, bằng 62% mức cao nhất các nước đang phát
triển; về chỉ tiêu xã hội, chúng ta đạt 507 điểm bằng 63,4% mức cao nhất các nước đang
phát triển và nhóm chỉ tiêu về trao đổi thông tin chúng ta chỉ đạt 226 điểm bằng 28,3% mức
cao nhất của các nước đang phát triển. Tính chung 3 nhóm chỉ tiêu trên, Việt Nam đạt được
1.227 điểm bằng 51,1% mức cao nhất của các nước đang phát triển, đứng thứ 56/70 nước
đang phát triển có số liệu so sánh.
Chỉ số thương tổn môi trường (Environmental Vulnerability Index, EVI)
Chỉ số EVI đã được Uỷ ban Khoa học Địa lý ứng dụng Nam Thái Bình Dương (SOPAC)
và Tổ chức Phát triển Liên Hợp Quốc(UNDP) triển khai. Chỉ số này được xây dựng dựa
trên các chỉ số thương tổn về xã hội, kinh tế để hiểu được các quá trình có thể tác động tiêu
cực tới sự PTBV của các quốc gia như thế nào.
10
Chỉ số EVI gồm 57 chỉ thị thuộc 3 nhóm chỉ số thứ cấp: chỉ số về tai biến, chỉ số về
phục hồi sau các tai biến từ tự nhiên hay nhân tạo, chỉ số về sự suy thoái hay tính nguyên
vẹn của môi trường.
Chỉ có 6 trong số 57 chỉ thị này có trọng số là 5, các chỉ thị còn lại có trọng số như nhau
là 1. Thang điểm của chỉ số EVI dao động từ 1 đến 7. Điểm càng cao thì tính dễ bị thương
tổn càng lớn.
Chỉ số phát triển bền vững (Sustainable Development Index, SDI): Trong Chương trình
nghị sự 21 của Hội nghị thượng đỉnh Rio năm 1992 về Môi trường và Phát triển khuyến
khích việc sử dụng các chỉ thị PTBV để mô tả hiện trạng kinh tế, môi trường và xã hội nhằm

đo lường mức độ phát triển toàn diện của một quốc gia.
Chỉ số SDI được xây dựng bao gồm 134 chỉ thị đã được chọn lọc và 22 quốc gia tình
nguyện áp dụng thử nghiệm Bộ chỉ thị này. Vào năm 2001, Bộ chỉ thị này đã được chuẩn
hoá như là một công cụ đo lường các sự tiến bộ trong PTBV nhằm hỗ trợ cho những người
ra quyết định, những nhà hoạch định chính sách phát triển KT-XH của một quốc gia được
bền vững lâu dài.
Chỉ số bền vững môi trường (Environmental Sustainability Index, ESI): chỉ ra những
việc làm, những khả năng của một quốc gia trong việc BVMT cho tương lai. Chỉ số này
được xây dựng bởi 21 chỉ thị bền vững môi trường với 76 tham số, tập trung vào 5 khía cạnh
sau:
- Hệ thống môi trường
- Giảm thiểu tác động môi trường
- Giảm thiểu tính thương tổn của con người đối với các áp lực môi trường
- Năng lực xã hội, thể chế trong việc đáp ứng các thách thức môi trường
- Quản lý trái đất
3.2. Cơ sở thực tiễn
3.2.1. Các văn bản pháp luật
Nơi nào có vùng ven đầm phá và biển lớn thì nơi đó có ngành NTTS được phát triển
mạnh. NTTS là ngành gắn liền với thiên nhiên, do vậy không tránh khỏi những nguy cơ
những tác động tiêu cực do nó gây ra về mặt môi trường: ô nhiễm môi trường, giảm sự đa
dạng sinh học, …
Quảng Điền là vùng nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm nói chung và nuôi tôm nói riêng của
tỉnh Thừa Thiên Huế, vì lẽ đó hoạt động nuôi tôm tại huyện cũng nằm trong những diễn
biến, tình hình của toàn tỉnh. Trước những khó khăn đó, với sự nỗ lực của các cấp, các
ngành, huyện Quảng Điền trong những năm qua vẫn đạt được những thành tích đáng kể, góp
phần thúc đẩy ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, cùng với ngành
thuỷ sản của tỉnh phát triển nhanh trong xu thế hội nhập.
Hiện nay, xã Quảng Công có 3 loại hình nuôi tôm: nuôi cao sản, nuôi ao đất hạ triều,
nuôi ao nổi cao triều. Dựa vào những ưu nhược điểm của mỗi loại hình mà có các phương
thức phù hợp với chúng. Nuôi ao hạ triều phù hợp với hình thức nuôi QCCT, nuôi ao cao

triều phù hợp với hình thức BTC và TC.
Theo Báo cáo Đánh giá thực trạng môi trường của UBND huyện Quảng Điền năm 2008
cho biết việc phát triển NTTS đang làm cho pH của đầm phá thay đổi, biến đổi và ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái vùng đầm phá.
11
Vì vậy, việc xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm là rất cần thiết, nhằm
cho phép các nhà quản lý có thể mô tả, đánh giá hình thức nào mang lại tính bền vững cho
môi trường, đồng thời cũng thỏa mãn những nhu cầu về KT-XH.
Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà Nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về
PTBV đối với mọi hoạt động sản xuất KT-XH, trong đó có hoạt động NTTS. Trên cơ sở chủ
trương, định hướng về PTBV và BVMT, trong thời gian qua, Đảng và Nhà Nước đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật liên quan như:
- Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
- Quyết định 12/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành
Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất
- Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành
Danh mục chất thải nguy hại
- Quyết định 19/2007/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành
Quy định về điều kiện và hoạt động dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi
trường
- Nghị định 174/2007/NĐ-CP của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải
rắn
- Nghị định 120/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý lưu vực sông
3.2.2. Tình hình phát triển nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế
3.2.2.1. Đối với tỉnh Thừa Thiên Huế [9]
Thừa Thiên Huế là tỉnh có bờ biển dài 128 km và hệ đầm phá Tam Giang, Cầu Hai có
diện tích 21.594 ha, có rất nhiều bãi ngang hội đủ các điều kiện về thời tiết khí hậu, đất đai,
thổ nhưỡng… phù hợp với NTTS, là nơi có tiềm năng để phát triển nghề nuôi tôm. Nhờ
những thuận lợi sẵn có của hệ sinh thái đầm phá, nghề NTTS nước lợ chủ yếu là nuôi tôm sú

đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế.
Bảng 3.2: Tình hình nuôi tôm sú tỉnh Thừa Thiên Huế qua 3 năm 2007-2009
Chỉ tiêu ĐVT Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
+/- % +/- %
Diện tích Ha 3464 3024 3632,1 -440 87,3 608,1 120,1
Sản lượng Tấn 3363 3861 2950,5 498 114,8 -910,5 76,4
Năng suất Tấn/ha 0,97 1,28 0,81 0,31 1,32 -0,47 63,3
( Nguồn:Theo số liệu thống kê sở thủy sản Thừa Thiên Huế, 2009)
12
Về diện tích nuôi: Diện tích nuôi tôm trong năm 2009 đã có giảm sút đáng kể, từ 3.464
ha năm 2007 giảm xuống 3.024 ha năm 2008. Nguyên nhân của vấn đề này là: năm 2007 do
thời tiết thay đổi phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con tôm; bên cạnh
đó dịch bệnh tại các địa phương trên địa bàn tỉnh diễn ra phổ biến, tạo tâm lý hoang mang
trong người nuôi tôm. Từ đó, khiến cho diện tích nuôi năm 2008 giảm đáng kể so với năm
2007. Tuy nhiên, năm 2009 diện tích nuôi lại tăng lên khá nhanh, lên tới 3.632,1 ha, tăng
120,1% so với năm 2008.[9]
Về năng suất và sản lượng tôm nuôi: Mặc dù, năm 2008 diện tích nuôi tôm giảm sút
đáng kể, nhưng tình hình nuôi trồng diễn ra thuận lợi; thời tiết ổn định, thích hợp với con
tôm; dịch bệnh không xuất hiện tạo điều kiện thuận lợi trong việc nuôi trồng, chăm sóc và
thu hoạch tôm. Sản lượng tôm nuôi năm 2008 đạt 3.861 tấn, tăng 114,8% so với năm 2007.
Tuy nhiên, sự thay đổi thất thường của thời tiết khí hậu, sự dao động mạnh của độ mặn; bên

cạnh đó là sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh đã làm cho năng suất tôm năm 2009 giảm
xuống còn 2.950,5 tấn, tức bằng 76,4% so với năm 2008.[9]
Mặc dù vậy, so với cả nước thì năng suất tôm của Thừa Thiên Huế vẫn còn thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng sẵn có. Mục tiêu đặt ra là không ngừng nâng cao năng suất, sản
lượng để ngành nuôi trồng nuôi tôm của Thừa Thiên Huế phát triển, phát huy lợi thế so sánh
của vùng.
Tình hình nuôi trồng chịu nhiều rủi ro, bị ảnh hưởng rất nhiều bởi điều kiện tự nhiên đã
và đang đặt ra cho người nông dân, các cấp chính quyền địa phương, cơ quan liên quan một
bài toán hóc búa, cần phải kịp thời đưa ra các giải pháp áp dụng vào nuôi trồng, giúp cho
người nông dân tránh và hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả, cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân
3.2.2.2. Đối với huyện Quảng Điền [5], [6]
Quảng Điền là vùng nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm nói chung và nuôi tôm nói riêng của
tỉnh Thừa Thiên Huế, vì lẽ đó hoạt động nuôi tôm tại huyện cũng nằm trong những diễn
biến, tình hình của toàn tỉnh. Trước những khó khăn đó, với sự nỗ lực của các cấp, các
ngành, huyện Quảng Điền trong những năm qua vẫn đạt được những thành tích đáng kể, góp
phần thúc đẩy ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, cùng với ngành
thuỷ sản của tỉnh phát triển nhanh trong xu thế hội nhập.
Vùng đầm phá Quảng Điền là một trong những vùng phát triển nghề thuỷ sản của Thừa
Thiên Huế. Tuy nhiên, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản mà chủ yếu là nuôi tôm sú chỉ thật sự
phát triển hơn 12 năm trở lại đây ( 1998 - 2010) cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đến nay hầu
hết các xã vùng đầm phá của huyện đã phát triển nghề nuôi tôm sú với nhiều hình thức nuôi
như chắn sáo mồng, nuôi ao trung triều, hạ triều, cao triều. Nuôi trồng thuỷ sản thật sự trở
thành nghề mới của vùng đầm phá Quảng Điền, có sức thu hút nhiều người tham gia. Tình
hình nuôi tôm trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng.
Bảng 3.3: Tình hình nuôi tôm sú của huyện Quảng Điền qua 3 năm 2007 – 2009
13
Chỉ tiêu ĐVT Năm
2007
Năm

2008
Năm
2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
+/- % +/- %
Diện tích Ha 589,2 606,6 600,0 17,4 102,9 -6,6 99,99
Sản lượng Tấn 450,0 413,0 398,8 -37 99,91 -14,2 99,97
Năng suất Tấn/ha 0,76 0,68 0,66 -0,08 99,89 -0,02 99,98
( Nguồn: Theo thồng kê của phòng nông nghiệp huyện Quảng Điên, 2007, 2008, 2009)
3.2.2.3. Đối với xã Quảng Công [10], [11], [12]
Với lợi thế là xã có diện tích tương đối rộng, lại có diện tích mặt nước đầm phá nên
Quảng Công rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản xã đã xác định đây là
ngành kinh tế mũi nhọn, góp phàn vào sự tăng trưởng kinh tế của xã cũng như tăng thu nhập
và giải quyết việc làm cho nhiều hộ ngư dân.
Xã tồn tại hai loại hình nuôi chính là nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Tuy nhiên tôm sú
thường được nuôi ở nước lợ, chỉ có diện tích nuôi chắn sáo được ngư dân tận dụng để xen
canh, nuôi ghép nhiều loại như tôm cua, cá để tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Tình hình nuôi tôm ở xã Quảng Công được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.4: Diện tích, sản lượng nuôi của xã Quảng Công năm 2009
Chỉ tiêu ĐVT Kế hoạch Thực hiện TH/KH (%)
1. Diện tích Ha 141,7 137,1 97,0
- Nước lợ Ha 133,0 126,0 95,0
- Nước ngọt Ha 8,7 11,1 128,0
2. Sản lượng Tấn 160,0 176,0 110,0
- Tôm sú Tấn 95,0 101,0 106,0
- Tôm ráo Tấn 2,5 2,5 100,0
- Cua, cá nước lợ Tấn 50,0 55,5 111,0

(Nguồn: báo cáo nuôi trồng thủy sản xã Quảng Công, 2009)
Tôm sú là đối tượng chính mà người dân lựa chọn. Năm 2009 ngư dân đã đưa vào nuôi
với diện tích là 126ha, đạt 94,7% so với kế hoạch
Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản của xã so với kế hoạch để ra tuy không đúng kế
hoạch nhưng tổng diện tích nuôi vẫn đạt 137,1 ha đạt so với kế hoạch là 97%
Sản lượng nuôi trồng trong năm là 176 tấn, cá, tôm các loại, đạt 110% kế hoạch, tăng 26
tấn so với năm trước, tổng giá trị đạt khoảng 7.2 tỷ đồng. Trong đó sản lượng tôm sú thu về
14
là 101 tấn tăng so với kế hoạch là 6%. Đây là nét đáng mừng cho hoạt động nuôi tôm của xã,
tạo động lực để phát triển ngành nuôi tôm sú trên địa bàn của xã.
15
PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội [6], [13]
4.1.1. Vị trí địa lý [13]
Xã Quảng Công nằm về phía Đông của huyện Quảng Điền và cách trung tâm huyện 6
km, cách thành phố Huế 12 km và có vị trí địa lý như sau:
- Phía Bắc giáp xã Quảng Ngạn
- Phía Đông giáp Biển Đông
- Phía Tây giáp Phá Tam Giang.
- Phía Nam giáp xã Hải Dương, huyện Hương Trà.
Với tổng diện tích đất tự nhiên là 1261,43 ha.
4.1.2. Điều kiện tự nhiên [6], [13]
4.1.2.1. Địa hình
Xã có địa hình tương đối bằng phẳng, thấp từ Tây sang Đông, phía Đông giáp với Biển
Đông Hải, vùng đầm phá làm cho một phần diện tích bị nhiễm mặn và đây cũng là điều kiện
để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
4.1.2.2. Thổ nhưỡng [13]
Xã Quảng Công có tổng số 1261,43 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó có các loại đất
chính như sau:

- Đất cát (haplic arenosols): Diện tích 313,5 ha chiếm 27,33% diện tích đất tự nhiên.
Loại đất này được phân bố chủ yếu ở địa phận tiếp giáp phá Tam Giang, loại đất này ít có ý
nghĩa đối với sản xuất nông nghiệp.
- Đất phù sa (fluvisol): Diện tích 30,4 ha chiếm 2,65% diện tích đất tự nhiên. Đất phù sa
có diện tích không lớn và phân bố dọc sông, loại đất này rất có ý nghĩa cho sản xuất nông
nghiệp và thực tế đã được người dân khai thác một cách triệt để vào sản xuất hoa màu,
lương thực cũng như các cây công nghiệp ngắn ngày hàng năm bởi những đặc điểm khá ưu
việt: tỷ lệ đạm, mùn trung bình đến khá, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, dễ thoát
nước, địa hình bằng, tập trung.
- Đất biến đổi do trồng lúa (LP): Diện tích 561,5 ha chiếm 48,5% diện tích đất tự nhiên
(đất thịt nặng). Đây là đất được hình thành do sản phẩm phong hoá đá mẹ khác nhau, được
nhân dân địa phương cải tạo lâu đời nên hình thành các chân ruộng để sản xuất nông nghiệp.
Loại đất này được phân bố hầu hết ở các vùng trong xã.
- Đất khác: Bao gồm mặt nước đầm phá, kênh mương, sông hồ và đất chuyên dùng...
Tổng diện tích 241,6 ha chiếm 21,1 %.
16
4.1.2.3. Khí hậu thời tiết [13]
a. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 25
o
C. Nhiệt độ cao nhất vào các tháng 5,6,7,8. Nhiệt
độ cao nhất cao năm: 40,1
o
C . Nhiệt độ thấp nhất vào các tháng 12 và tháng 1, tháng 2 năm
sau. Nhiệt độ thấp nhất: 10,2
o
C.
b. Lương mưa
Do vị trí ở vùng đồng bằng ven biển nên xã Quảng Công có lượng mưa thấp, số ngày
mưa ngắn hơn so với vùng núi của tỉnh, lượng mưa trung bình năm khoảng 2550mm.

Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 2 năm sau. Đỉnh mưa dịch chuyển
trong bốn tháng từ tháng 9 đến tháng 12, riêng tháng 11có lượng mưa nhiều nhất chiếm tới
30% lượng mưa cả năm.
c. Độ ẩm
Độ ẩm tương đối trung bình năm: 85 - 86%. Độ ẩm cao nhất là 89%. Tháng có độ ẩm
cao nhất là tháng 9, tháng 10, tháng 11. Độ ẩm thấp nhất là 76%.
d. Bốc hơi
Lượng nước bốc hơi trung bình hàng năm là 977mm/năm. Lượng bốc hơi nhiều nhất từ
tháng 5 đến tháng 8 (tháng 7 là 133mm), tháng có lượng bốc hơi nhiều nhất là tháng 2 cũng
đạt 39,6mm.
e. Gió, bão, nắng
- Xã Quảng Công chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính:
+ Gió mùa Tây Nam: Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió bình quân từ 2 - 3m/s có
khi lên đến 7 - 8m/s. Mùa này gió thường khô nóng, bốc hơi nên khô hạn kéo dài.
+ Gió mùa Đông Bắc: Bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, tốc độ gió bình quân từ 4
-6m/s. Gió kèm theo mưa làm khí hậu lạnh ẩm dễ gây lũ lụt, ngập úng ở nhiều nơi.
- Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10. Trong các trường hợp chịu ảnh hưởng
của bão, lốc và gió mùa Đông Bắc, tốc độ gió có thể đạt trên 15m/s trong gió mùa Đông Bắc
và 30m/s trong khi lốc bão.
- Số giờ nắng trung bình hàng năm: 2075 giờ/năm và số ngày nắng trung bình năm là
196 ngày.
4.1.2.4. Môi trường nước [6]
a. Nước mặt
Quảng Công có hệ thống nước mặt không nhiều, đáng chú ý là sông Bồ, đây là nguồn
nước mặt chủ yếu phục vụ sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong xã. Sông này có chiều
dài 12 km, đoạn chảy qua xã Quảng Công dài 6 km. Lưu vực của sông này có nhiều hói
nước dẫn vào khu vực sản xuất
b. Nước ngầm
Theo quan sát thực tế từ các giếng đào cho thấy, nguồn nước ngầm ở Quảng Công tương
đối lớn, độ sâu 4 - 6m có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và cung cấp cho một số cơ sở công

nghiệp nhỏ.
17

×