Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

lãi suất tại các ngân hàng thương mại Việt Nam nam 2010 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.57 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
DANH SÁCH NHÓM 1 3
PHẦN TRÌNH BÀY 4
1.Cơ sở lý thuyết 4
2.Đặt vấn đề 5
2.1.Diễn biến lãi suất huy động và cho vay 5
a.Lãi suất cơ bản 5
b.Lãi suất huy động và lãi suất cho vay VND 5
2.2.Diễn biến tình hình huy động vốn và dư nợ tín dụng ở các NHTM 11
3.Một số tác động của tình trạng lãi suất cao đến nền kinh tế 14
4.Nguyên nhân lãi suất cho vay tăng cao 16
5.Nhận xét 20
6.Một số giải pháp được đề xuất 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
CHỦ ĐỀ 1: Hiện nay lãi suất tiền đồng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
đang có nghịch lý, lãi suất cho vay đang ở mức rất cao trong khi đó tăng trưởng
nguồn vốn huy động trong chín tháng đầu năm 2010 đã vượt quá so với mức tăng
của dư nợ tín dụng. Theo anh (chị) đâu là nguyên nhân của thực trạng này.
PHẦN TRÌNH BÀY
1. Cơ sở lý thuyết
Lãi suất: Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng -
giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền
tệ hoặc các dạng tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người
cho vay khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số lãi
trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
Ở tầm kinh tế vĩ mô: lãi suất là một công cụ điều tiết cho vay kinh tế nhạy bén
và hiệu quả, thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ. Lãi
suất cao hay thấp do quan hệ cung cầu vốn quyết định. Khi tổng cầu bằng tổng cung
thì lãi suất đạt được ở mức cân bằng. Nếu tổng cung tăng, tổng cầu không đổi thì lãi
suất cân bằng thiết lập ở mức thấp hơn. Ngược lại, khi tổng cầu tăng còn tổng cung


không đổi thì lãi suất cân bằng được thiết lập ở mức cao hơn.
Nguồn vốn huy động: là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của
NHTM. Các NHTM nhận vốn từ những người gửi tiền, các chủ thể cho vay để phục
vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình.
Dư nợ tín dụng: là khoản tiền giải ngân mà ngân hàng thương mại chưa thu
tiền về, đây là khoản nợ của các đơn vị vay đối với ngân hàng đến 1 thời điểm nhất
định thể hiện trên phần bên nợ của tài khoản cho vay của NH.
2. Đặt vấn đề
2
Y
Biểu đồ 1: Mô hình IS/LM
MS
MS’
MD
r
A
B
C D
Trong 9 tháng đầu năm 2010, diễn biến lãi suất trên thị trường đi ngược với cơ
sở lý thuyết nêu trên. Thực tế cho thấy tăng trưởng nguồn vốn huy động đã vượt quá
so với mức dư nợ tín dụng (cung vốn lớn hơn cầu vốn) ở các ngân hàng thương mại
nhưng lãi suất huy động vẫn ở mức cao dẫn đến lãi suất cho vay cũng ở mức rất cao.
Sau đây là tình hình lãi suất, huy động vốn và cho vay năm 2010 và những tháng đầu
năm 2011.
2.1Diễn biến lãi suất huy động và cho vay
a. Lãi suất cơ bản
Trong năm 2010, Ngân hàng nhà nước đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức
9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Các lãi suất qui định còn lại
cũng có điều chỉnh tương tự.


Bảng 1: Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của Ngân hàng nhà nước
Vào thời điểm hiện nay, những tháng đầu năm 2011, lãi suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam vẫn được giữ ở mức 9%.
b. Lãi suất huy động huy động và cho vay VND
Lãi suất huy động VND
Duy trì đà tăng của lãi suất huy
động vào những tháng cuối năm 2009,
nhìn chung vào năm 2010, lãi suất huy
động VND về cơ bản đã gia tăng ở
những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn
định trong quý II, quý III và gia tăng
mạnh trong hai tháng cuối năm. Để thấy
được tình hình này, hãy cùng nhìn lại
những khoảng mốc thời gian với số liệu
Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay trong năm 2010 thể
hiện hai điểm nóng là trong những tháng đầu
năm (trước và sau khi thực hiện lãi suất thoả
thuận theo Thông tư số 07/2010/TT-NHNN) và
hai tháng cuối năm lãi suất cho vay ở mức khá
cao.
3
thực tế trên thị trường đầy biến động này.
Quý I/2010
Hiện tượng nổi bật trên thị trường
tín dụng ngân hàng quí I/2010 là khả
năng huy động vốn rất khó khăn (nhưng
lại không đồng đều trong toàn hệ thống
mà khó khăn tập trung chủ yếu vào các

NHTM nhỏ và mới thành lập)
Do nhiều tác động trên thị trường
đặc biệt là diễn biến CPI (tháng 12/2009
tăng 1,38%, tháng 01/2010 tăng 1,36%
và tháng 02/2010 tăng 1,96%) đã tác
động đến tâm lý thị trường nên mặt bằng
lãi suất huy động VND trong quý I/2010
có xu hướng tăng, cụ thể là lãi suất huy
động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất
cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức
khuyến mại.
Quý II, III/2010
Ngày 14/4, NHNN chính thức dỡ
bỏ trần lãi suất huy động 10,5%/năm duy
trì từ quý I đã để giảm bớt sự “méo mó”
trên thị trường tín dụng ngân hàng. Một
số NHTM đã đẩy lãi suất huy động VND
lên trên 11%/năm do tình trạng huy
động vốn rất căng thẳng.
(Tại NH Xuất nhập khẩu VN (Eximbank),
lãi suất huy động cao nhất 11,5%/năm kỳ
hạn 12 tháng. Cách biệt lãi suất giữa các
kỳ hạn từ 1-11 tháng không lớn, kỳ hạn 3
tháng là 11,4%/năm, 6 tháng
11,43%/năm, 9 tháng 11,45%/năm.
Tại NH Sài Gòn Thương Tín, lãi suất huy
Quý I/2010
Vào cuối tháng 3/2010, Ngân hàng nhà
nước đã chính thức hoá lãi suất cho vay ở
mức 16 - 20%/năm thông qua Thông tư số

07/2010/TT-NHNN về áp dụng lãi suất thoả
thuận cho các khoản tín dụng trung và dài
hạn, 12% năm cho tín dụng ngắn hạn.
Chính điều đó đã làm cho các ngân hàng
thương mại chuyển các khoản cho vay ngắn
hạn sang cho vay trung, dài hạn để áp dụng lãi
suất thoả thuận tới 16 - 20%/năm.
Quý II, III/2010
CPI quý II/2010 tăng quá thấp đã làm
giảm đáng kể mối lo về lạm phát, thậm chí có ý
kiến cho rằng Việt Nam đã hoàn toàn kiểm soát
được lạm phát cả năm 2010 nên NHNN Việt
Nam tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức 8%
như từ tháng 12/2009 nhằm phát tín hiệu về ổn
định chính sách lãi suất trong khi thực thi chính
sách tín dụng nới lỏng với mặt bằng lãi suất cho
vay phổ biến khoảng 13 - 14%/năm.
Mặt khác, các NH trên thực tế dù đã được tự
quyết định lãi suất nhưng do cạnh tranh nên
khó có thể đẩy lãi suất lên cao. Tình hình chung
là mặt bằng lãi suất cho vay đang bắt đầu hạ
xuống, tại ACB còn 14-14,5%/năm, chia làm
bốn mức. Khách hàng doanh nghiệp đã quan hệ
4
động cao nhất là 11,1%/năm kỳ hạn 12
tháng. Các kỳ hạn ngắn đều dưới
11%/năm: 1 tháng 10,56%/năm, 3 tháng
10,86%/năm, 6 tháng 10,98%/năm.)
Cuộc đua tăng lãi suất huy động
VND đã quay lại trong tháng 5/2010 với

lãi suất huy động phổ biến ở mức xấp xỉ
12%/năm kèm theo nhiều hình thức
khuyến khích người gửi tiền.
Tháng 7, để tạo sự thống nhất về
mặt bằng lãi suất huy động trên thị
trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã
yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi
suất huy động vốn bằng VND để góp
phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của
thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP
ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong
nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu
vực ngân hàng. Như vậy, sau khi tăng dần
từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động
VND đón đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở
mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy
trì khá ổn định cho đến tháng 10.
lâu năm với NH là 13,8%/năm; khách hàng
bình thường 14%; doanh nghiệp vừa và nhỏ
15% và cá nhân là 15-16%/năm.
Các NH đang khát đầu ra, tăng trưởng tín dụng
quý 1-2010 chủ yếu là giải ngân các dự án đầu
tư xây dựng cơ bản, vay để dự trữ nguyên vật
liệu là chính. Vay sản xuất và tiêu dùng rất ít.
Do vậy, một khi các NH đang muốn giải ngân
thì không thể tăng mà chỉ có giảm lãi suất.
Theo số liệu thống kê được vào đầu tháng
4/2010, hầu hết các ngân hàng đều áp dụng
mức lãi suất cho vay tối đa dưới 15%, cá biệt có

trường hợp lên tới 18%.
Bảng 2: Mức lãi suất cho vay tối đa của một
số ngân hàng vào đầu quý II/2010
Xu thế lãi suất trên thị trường tiền tệ tín dụng
vẫn không thể vận động theo yêu cầu của Nghị
Quyết 23 ngày 7/5/2010 của Chính phủ là đưa
lãi suất huy động xuống mức 10%/năm và lãi
suất cho vay xuống 12%/năm. Cho đến đầu
tháng 7/2010, NHNN đã phải áp dụng một số
biện pháp hành chính là thoả thuận với các
NHTM lớn để thực hiện mức lãi suất 12%/năm
đối với tín dụng cho các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu và
5
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để thực hiện nhiệm
vụ này, Ngân hàng nhà nước đã tích cực hỗ trợ
vốn cho các Ngân hàng thương mại thông qua
hoạt động của thị trường mở và thị trường liên
ngân hàng nên mặt bằng lãi suất cho vay VND
vào quý II và quý III có xu hướng giảm dần
(giảm khoảng 1%), một số đối tượng và ngành
nghề kinh doanh có mức giảm lớn hơn (giảm 2
- 2,5%) như: các khoản vay để sản xuất nông –
lâm – ngư nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu, chi
phí sản xuất của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tuy vậy, tới trên 90% các doanh nghiệp Việt
Nam là nhỏ và vừa nên tính khả thi của thoả
thuận này ít được đảm bảo. Lãi suất tín dụng
ngân hàng vẫn phải vận động dựa trên các qui
luật thị trường trong khi NHNN chưa có chính

sách tiền tệ nào để can thiệp mạnh vào thị
trường.
6
Tên ngân hàng Mức lãi suất
cho vay tối
đa (%)
Ngâ
n
hàng
quốc doan
h
Agribank 14 – 14,5
BIDV 14
MHB 14
Vietcombank 14 – 14,5
Vietinbank 14
Ngân
hàng
cổ
phần
Maritime Bank 15
ACB 15
Eximbank 15
VIB 15
VPBank 14,5
MB 13,7 – 14,5
Techcombank 18
Quý IV/2010
Cho đến ngày 15/10/201, trên bình
diện tốc độ huy động vốn đã được cải

thiện rất nhiều so với năm 2009 và trước
nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay vốn
ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ của NHNN
và sự đồng thuận của các ngân hàng, lãi
suất huy động một lần nữa được điều
chỉnh xoay quanh mức 10,8 – 11% năm.
Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào
những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy
động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã
ngay lập tức gia tăng sau khi NHNN thực
hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên
9%. Mặt bằng lãi suất huy động mới được
thiết lập ở mức 12% năm và tiếp tục có
xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm
giao động xoay quay mức 17 – 18%
năm.
Biểu đồ 2: Lãi suất huy động từ
tháng 9 đến tháng 12 năm 2010
ĐIỀN HÌNH: Vào hồi giữa tháng
12/2010, Techcombank là ngân hàng đầu
tiên công khai chương trình khuyến mại
với lãi suất “khủng” 17% một năm. Ngay
QuýIV/2010
Trước những diễn biến không thuận lợi của
kinh tế vĩ mô, mặt bằng lãi suất cho vay đã tăng
cao trở lại trong hai tháng cuối năm, dao động
trong khoảng 13,5 – 18,5% năm , có thời điểm
lên tới 19 - 20% năm.

7
sau đó, hàng loạt nhà băng khác cũng
đồng loạt tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm
lên mức này, thậm chí có nơi lên tới 18%
một năm cho kỳ hạn một tháng như
Seabank.
Quý I/2011
Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất
thỏa thuận và cùng với các biện pháp điều
hành tiền tệ linh hoạt của NHNN cuối
năm 2010, lãi suất huy động và cho vay
VND của các NHTM đã giảm dần với lãi
suất huy động VND không vượt quá
14%/ năm; theo đó, lãi suất huy động
VND bình quân ở mức 13,04%/năm.
Trong khi nhiều ngân hàng thương
mại đã thực hiện tốt điều này thì một số
ngân hàng khác do thiếu vốn, thiếu thanh
khoản nên vẫn còn “âm ỉ” thỏa thuận
ngầm với khách hàng, đẩy lãi suất lên
trên 14%. Mặc dù Ngân hàng nhà nước
vừa ban hành Thông tư 02 buộc các ngân
hàng phải tuân thủ và nếu ngân hàng nào
không tuân theo sẽ bị chế tài, thế nhưng
vẫn có một số ngân hàng “lách luật”. Một
số ngân hàng cổ phần bắt đầu tăng lãi
suất tiết kiệm VND kỳ hạn một tháng lên
17% một năm trong những ngày cuối
tháng 2.
Trong ba ngày đầu tháng 3/2011 lại tái

diễn tình trạng một số ngân hàng đẩy lãi
suất huy động lên 17-18%/năm bằng cách
lãi suất tiết kiệm vẫn niêm yết 14%/năm,
nhưng lại ghi thêm phiếu chi thưởng
3,8% lãi suất đối với những khách hàng
tiền tỷ.
Quý I/2011
Bước sang năm 2011, vào cuối tháng
2/2011, lãi suất cho vay vẫn có dấu hiệu tăng
và ở mức cao, lãi suất cho vay VND bình quân
ở mức 16,23% năm (cho vay lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 14-16%
năm; lĩnh vực phi sản xuất là 18-20%/năm).
Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất huy động bình quân VND chỉ còn khoảng
2,5%/năm, thấp hơn so với mấy năm trước (con
số này là 4,62%/năm năm 2008; 4,45%/năm
trong năm 2007; 4,63%/năm trong năm 2006 và
3,42%/năm trong năm 2005).
8
 Như vậy theo đà tăng của lãi suất huy động, lãi suất cho vay cũng tăng cao.
Vậy thì điều đó có ảnh hưởng gì đến tình hình huy động vốn và dư nợ tín
dụng của các Ngân hàng thương mại?
2.2Diễn biến tình hình huy động vốn và dư nợ tín dụng ở các Ngân hàng
thương mại:
Thực tế cho thấy, dư nợ tín dụng ở nhiều ngân hàng năm 2010 không cao trong
khi đó nguồn vốn huy động được lại rất lớn.
Quý I/2010
Theo thông tin được đề cập trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tại phiên
họp Chính phủ diễn ra từ ngày 30/3 - 1/4/2010 thì tăng trưởng tín dụng VND ước đạt

0,57% trong quý 1, tăng 2,95% so với tháng 12/2009.
Mức tăng Huy động vốn (%) Mức tăng Dư nợ tín dụng (%)
VNĐ 1,82 0,57
Ngoại tệ 0,21 14,07
Bảng 3: Mức tăng trưởng dư nợ và huy động tháng 3/2010 so với tháng
12/2009
Những con số trên gây bất ngờ, bởi trong những năm gần đây tăng trưởng tín
dụng bằng VND thường tăng cao hơn hoặc bằng ngoại tệ. Đặc biệt, cùng kỳ năm
2009, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ giảm 2,24% và tiếp tục âm cho đến tháng
5/2009. Bất ngờ trên được giải thích bằng thực tế là từ đầu năm 2010, khi không còn
chính sách hỗ trợ lãi suất như trong năm 2009, lãi suất vay vốn bằng VND liên tục
tăng cao từ 14% - 17%/năm, cá biệt có những trường hợp lên tới 18%/năm, hay có thể
cao hơn ở tín dụng tiêu dùng. Lãi suất cao hạn chế hoạt động vay vốn của doanh
nghiệp. Mặt khác, khi lãi suất cho vay bằng VND lên cao, nhiều doanh nghiệp xoay
sang vay bằng USD với lãi suất thấp hơn rất nhiều. Cụ thể, lãi suất cho vay USD ngắn
hạn chỉ khoảng từ 5,5% - 6%/năm, dài hạn từ 6% - 8%/năm. Bên cạnh đó, sau những
lần điều chỉnh gần đây, doanh nghiệp kỳ vọng tỷ giá USD/VND sẽ tương đối ổn định
trong thời gian tới. Trường hợp có biến động, rủi ro trong kỳ vay có thể nằm trong sức
chịu đựng và dự tính của họ.
9
Ví dụ thực tế: Đại diện NH Sài Gòn Thương Tín cho biết trong quý I/2010 huy
động vốn tăng 7% nhưng cho vay chỉ tăng 3% do doanh nghiệp không chịu được
mức lãi suất cao.
Quý II, III/2010
Nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng ước tăng 10,82%, dư nợ tín dụng
đạt 10,52% so với cuối năm 2009, do lãi suất ngân hàng đang ở mức cao điều đó cản
trở việc vay vốn phát triển của doanh nghiệp.
Tăng trưởng tín dụng đồng nội tệ tăng quá thấp 4,6% trong khi đó tín dụng
ngoại tệ tăng cao quá mức 27% và đã đến giới hạn so với đầu năm. Theo thống kê của
NHNN, dư nợ tín dụng ngoại tệ cao gấp nhiều lần so với dư nợ bằng đồng Việt Nam

(Tại Tp.HCM, tính đến cuối tháng 9 tín dụng ngoại tệ đạt 186.000 tỷ đồng, tăng
36,4%, gấp bốn lần so với mức tăng tín dụng VND). Sự mất cân đối này đang lên đến
mức báo động khi các doanh nghiệp khai thác cơ hội bằng cách tăng vay ngoại tệ,
chuyển đổi sang đồng Việt Nam rồi gửi ngược trở lại ngân hàng, hưởng chênh lệch về
lãi suất. Việc làm này có thể gây mất cân bằng hệ thống ngân hàng, gia tăng áp lực lên
tỷ giá tiền đồng vào thời điểm các khoản vay đáo hạn.
Đến 16/9, so với cùng kì năm trước, vốn huy động tăng thêm 21,5%, tín dụng
đối với nền kinh tế tăng 17,81%. Trong đó, tỷ trọng chính trong tổng huy động vốn
vẫn là huy động vốn ngắn hạn chiếm hơn 80%, trong đó, tiền gửi có kỳ hạn tập trung
chủ yếu ở dải kỳ hạn dưới 6 tháng.
Ví dụ thực tế: Kết thúc tháng 7/2010, tại ngân hàng Oceanbank, tổng vốn huy
động đạt hơn 38.725 tỉ đồng trong lúc tổng dư nợ đầu tư cho nền kinh tế mới dừng ở
12.519 tỉ đồng. Cũng cùng khoảng thời gian trên tại ngân hàng LienVietbank tổng dư
nợ ở mức khiêm tốn trong khi nguồn vốn huy động đạt được 20.000 tỉ đồng.
Quý IV/2010
Nhìn chung vào quý IV tình hình huy động vốn và dư nợ tín dụng vẫn diễn ra
theo xu hướng cũ. Trong 10 tháng đầu năm 2010, dư nợ tiền gửi tăng mới chỉ đạt
22,8%. Tuy vậy, mức tăng này vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng. Càng làm tăng tính
nghịch lý trong lãi suất tiền đồng hiện nay. Nhiều ngân hàng thương mại đều có chung
tình trạng trên. Điển hình như thông tin từ HDBank: Trong năm 2010, HDBank bội
thu về huy động vốn với 21.583 tỉ đồng, vượt 2,8% kế hoạch năm và tăng 81,97% so
với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó tổng dư nợ tín dụng của NH này dù đạt tới
71,2% kế hoạch năm và tăng khoảng 11,4% so với cùng thời điểm năm 2009 chỉ dừng
lại ở con số 7.474 tỉ đồng.
STT Ngân hàng Vốn huy động Dư nợ
10
(triệu VNĐ)
(tiền gửi khách hàng)
(triệu VND)
(cho vay khách hàng)

1 Vietcombank 205.517.069 169.985.696
2 Navibank 10.721.302 10.638.936
3 Sacombank 78.335.416 82.484.803
4 Vietinbank 205.918.705 231.434.907
5 Eximbank 58.150.665 61.717.617
6 ACB 64.216.949 34.832.700
7 HDbank 13.986.212 11.643.356
8 Techcombank 80.550.753 52.316.862.
Bảng 4: Báo cáo thường niên năm 2010 một số ngân hàng (tính đến ngày
31/12/2010)
Với số liệu từ bảng trên, ta có thể thấy sự chênh lệch giữa số vốn mà các ngân hàng
TM huy động được với số tiền các ngân hàng này cho vay. Theo báo cáo của NHNN,
tín dụng đến 31.12.2010 ước tăng 29,81% so với cuối năm 2009, trong đó, tín dụng
VND tăng 25,3%; tín dụng ngoại tệ tăng 49,3%.
Không chỉ riêng năm 2010 mà tình hình này vẫn còn tiếp diễn những tháng
đầu năm 2011.
Quý I/2011
Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến ngày
22/02/2011 ước tăng Vào những tháng đầu năm 2011, trong cuộc gặp mặt báo chí
ngày 1/3, ông Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết,
tính đến ngày 22/2/2011, huy động tăng 5,79% so với cuối tháng 01/2011,(do sau Tết
Nguyên đán lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng tăng mạnh), so với cuối năm 2010
tăng 1,9%; tăng trưởng tín dụng ước tăng 1,46% so với cuối tháng 01/2011 và tăng
2,71% so với cuối năm 2010. Như vậy, tăng trưởng tín dụng 2 tháng đầu năm 2011 có
mức tăng nhanh hơn so với cùng kỳ 2010 (trong 2 tháng đầu năm 2010, tăng trưởng
tín dụng của nền kinh tế chỉ tăng 1,4%, năm 2009 là 1,82%).
Với số liệu ở trên chúng ta đã thấy rõ được nghịch lý đã và đang xảy ra đối
với lãi suất tiền đồng hiện nay, vậy thì tình hình này đã ảnh hưởng như thế nào đến
nền kinh tế.
11

3. Một số tác động của tình trạng lãi suất cao đến nền kinh tế (cụ thể là qui
trình kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp)
 Thứ nhất, lãi suất tiền gửi cao khiến những người gửi tiền có lợi hơn, nhất là
khách hàng nhiều tiền (có cả một số doanh nghiệp). Còn trong khi đó khách hàng vay
vốn lại không biết mình sẽ còn phải chịu lãi suất vay cao đến đâu trong tháng kế tiếp
vì trong hợp đồng tín dụng hiện nay nhiều NHTM ghi rõ lãi suất sẽ điều chỉnh 1
tháng/lần tùy mặt bằng LS của hệ thống (trước đây là 6 tháng/lần hoặc tùy theo sự thay
đổi mức lãi suất cơ bản của NHNN).
Ví dụ:ĐIỂN HÌNH: Một nhân viên tín dụng của chi nhánh NHTM Nhà nước
nói: “Lãi suất cao thì lại đổ vào đầu khách hàng thôi. Khi đã cần tiền đến ngân hàng
thì lãi suất cao cũng phải vay. Vay được là mừng rồi vì tìm đâu ra ngoài xã hội hàng tỷ
đồng mà vay? Nếu có phải chấp nhận lãi suất rất cao hoặc chi hoa hồng đến 10%/tổng
món vay chịu sao nổi.”.
 Tình trạng lãi suất vay vốn hiện quá cao khiến việc đầu tư gần như bị
đình trệ. Nhiều doanh nghiệp sản xuất trong tình trạng cầm chừng. Doanh nghiệp
không vay thì không thể nào đầu tư lớn, không thể đổi mới công nghệ, không thể đa
dạng hóa sản phẩm và càng khó lòng có sản phẩm chất lượng để cạnh tranh với sản
phẩm ngoại nhập.
Theo Ông Cao Sỹ Kiêm (chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ): “Lãi
suất vay vốn quá cao như hiện nay đang vượt quá sức chịu đựng của doanh nghiệp.
Nếu vay vốn lãi suất 20% thì kinh doanh phải có lãi 30%, doanh nghiệp mới huề vốn
nhưng trong thời điểm này kinh doanh gì để có lãi 30% là bài toán khó. Hàng loạt
doanh nghiệp đang co cụm lại, chờ lãi suất dễ thở hơn mới dám tính toán làm ăn. Một
khi doanh nghiệp không dám làm ăn sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, hàng hóa
khan hiếm, giá cao, hàng sản xuất ra không tiêu thụ được, lao động không có việc làm,
kinh tế tăng trưởng chậm lại. Để tồn tại, nhiều doanh nghiệp đang phải xoay xở đủ
cách nhưng sức chịu đựng của doanh nghiệp có hạn. Giảm lãi suất để cứu doanh
nghiệp là điều tất yếu phải làm.
Thiết nghĩ, doanh nghiệp cứ phải chịu trận vay với mức lãi suất cao như vậy thì
có chịu nổi và chuyện doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm trên thị trường bán ở mức

giá cao đề bù đắp lại chi phí là không thể không xảy ra. Câu chuyện bình ổn giá,
không để giá tăng cao lại được đặt ra. Thực trạng này đã diễn ra ở nhiều doanh nghiệp.
 Theo Bà Trần Thị Mai Trang (phó giám đốc Công ty TNHH nhựa Đức Đạt,
TP.HCM): “Chúng tôi có nhu cầu vay khoảng 3 tỉ đồng để đổi mới công nghệ sản xuất
mặt hàng bình xịt thuốc trừ sâu cho thị trường xuất khẩu lẫn nội địa, nhưng nói thật
12
với mức lãi suất quá cao như hiện nay chúng tôi chỉ biết ngồi nhìn”. Nếu tính lại các
hợp đồng mà nhựa Đức Đạt đã vay từ cuối năm 2009 với lãi suất 10,5%/năm thì hiện
nay tất cả các hợp đồng này đều đã bị điều chỉnh lãi suất lên mức 18,66%/năm.”.
Trong vòng một năm, lãi suất đã tăng gần gấp đôi, thử hỏi làm sao doanh nghiệp có
thể làm gì để ổn định sản xuất?
 Theo Bà Nguyễn Thị Hồng Hương (tổng giám đốc hệ thống siêu thị Vinatex
Mart - Tập đoàn Dệt may VN): “Tổng nguồn vốn mà Vinatex Mart dự kiến đầu tư
trong năm 2011 lên đến hơn 500 tỉ đồng để mở rộng mạng lưới phân phối và hoàn
thiện các dự án triển khai dở dang từ năm trước. Đây là các dự án trọng điểm bắt buộc
phải thực hiện, không thể trì hoãn vì càng để lâu càng bất lợi cho kế hoạch phát triển
và chiến lược đầu tư của Vinatex Mart, chẳng hạn như dự án xây dựng tổng kho ở Gia
Lâm (Hà Nội), hệ thống siêu thị ở Sóc Trăng, Phan Thiết, Bình Dương Tuy nhiên
với lãi suất cao như hiện nay, dù nguồn vốn vay ngân hàng chỉ chiếm khoảng 30-40%
trong tổng nguồn vốn đầu tư nhưng đã gây hết sức khó khăn cho doanh nghiệp. Trước
mắt, chúng tôi sẽ “xếp hàng” các dự án thực hiện theo hướng lựa chọn ưu tiên, đồng
thời chờ lãi suất giảm, chúng tôi mới tính toán tiếp.”.
 Theo Ông Cao Tiến Vị (chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Giấy Sài Gòn - SPC):
“Với khoản đầu tư 100 triệu USD để nâng cấp công suất nhà máy hiện tại của Công ty
cổ phần Giấy Sài Gòn, chúng tôi đã vay khoảng 70 triệu USD từ năm 2008. Chỉ tính
riêng phần trượt giá giữa tỉ giá VND và USD, trong năm 2009 và 2010 SPC đã phải trả
xấp xỉ 30 tỉ đồng, lãi vay hai năm xấp xỉ 60 tỉ đồng. Năm 2011, với mức lãi suất cho
vay như hiện nay là 20%/năm, mức chênh lệch tỉ giá được chúng tôi dự kiến phải bù
thêm trên 20 tỉ đồng và lãi vay phải trả lên khoảng 100 tỉ đồng do dự án đã đi vào vận
hành. Hiệu quả chắc chắn không có vì làm ra bao nhiêu là lo đi trả lãi ngân hàng hết.”.

 Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu tăng, tỷ trọng nhập siêu giảm - đây là hiện tượng
đáng mừng cho nền kinh tế hiện tại của nước ta. Vấn đề là, hiện nay, các doanh nghiệp
xuất khẩu đang phải tiếp cận vốn từ các ngân hàng với mức lãi suất còn cao, lại không
dễ dàng bởi các thủ tục thẩm định và tái thẩm định của quá trình vay vốn. Để kim
ngạch xuất khẩu vẫn giữ được đà tăng trưởng, giảm lãi suất cho vay là một yếu tố quan
trọng giúp các doanh nghiệp xuất khẩu bảo đảm chỉ tiêu kế hoạch năm và đây là mối
quan tâm đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước trong nỗ lực giữ giá trị đồng nội tệ.
13
4. Nguyên nhân lãi suất cho vay tăng cao
Lãi suất cho vay tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân, sau đây nhóm xin
trình bày 3 nhóm nguyên nhân chính gây nên tình trạng này.
* ẢNH HƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ VĨ MÔ TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
• Lạm phát cao vượt dự kiến: Lý giải vấn đề này, TS.Võ Trí Thành, Phó viện
trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương cho rằng: “Lạm phát cao thì lãi suất sẽ bị
đẩy lên”. Đồng quan điểm đó, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát
tài chính quốc gia: “Lạm phát cao khiến lãi suất phải cao để đảm bảo lãi suất thực
dương mới có thể hấp dẫn người gửi tiền. Lạm phát cao đã khiến người dân không còn
muốn cất giữ tiền mặt, thay vào đó đầu tư các tài sản có tính thanh khoản tốt và thường
tăng theo lạm phát là USD và vàng. Vì vậy, các ngân hàng không những khó huy động
vốn mà tiền tiết kiệm được rút ra để đầu tư vào các tài sản có tính an toàn cao hơn.
Mặt khác, lạm phát cao còn khiến lượng tiền gửi bị sụt giảm mạnh do thu nhập thực tế
của người dân suy giảm, phần tiền tiết kiệm bị co lại. Thiết yếu các NHTM phải nâng
lãi suất huy động để cạnh tranh làm cho lãi suất cho vay cao”.
Sau đây chúng ta hãy xem tình hình chỉ số CPI trong 2 năm 2009 và 2010.
Biểu đồ 3: Diễn biến CPI các tháng trong 2 năm 2009 - 2010.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 vẫn cao ở đầu và cuối năm, thấp
ở giữa năm. Tăng thấp giai đoạn giữa năm, thậm chí có năm giảm một số tháng, không
phải là bất thường mà do sản xuất ở giai đoạn này đã vào guồng, cung cầu không có
đột biến lớn. Tuy nhiên, mức tăng thấp kỷ lục của các tháng giữa năm 2010 có sự khác
14

biệt, một phần nhờ hiệu quả các chính sách vĩ mô. Đến 4 tháng cuối năm, chỉ số giá
tiêu dùng liên tục duy trì ở mức cao. Có tới 3 tháng đạt kỷ lục về cao độ
Điểm lại các nguyên nhân tác động đến lạm phát trong giai đoạn này, yếu tố chủ
quan không ít hơn khách quan. Kiểm soát lạm phát bắt đầu lơ là trong khi quan điểm
ưu tiên cho tăng trưởng lại trỗi dậy, điều chỉnh học phí tăng lên rất cao, công tác chuẩn
bị đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, tình hình lũ diễn ra liên miên tại miền Trung,
giá gạo xuất khẩu tăng liên tục lên giá đẩy mặt bằng giá trong nước lên theo, hành
trình leo thang của giá vàng và USD. Nhưng điểm đáng lưu ý là chính sách tiền tệ đã
nới lỏng hơn. Từ mức tăng chỉ chưa đầy 13% vào cuối tháng 7, tổng phương tiện
thanh toán và tín dụng được “bồi đắp” nhanh chóng, đến cuối tháng 11 đã đạt mức
tăng 22,54% với M2 và 26,31% với tín dụng, so với cuối năm 2009.
• Đầu tư khu vực nhà nước tăng lên rất mạnh: Năm 2010, thực hiện mục tiêu
phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, nhiều dự án, công
trình trọng điểm năm 2010 đã được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo quyết liệt, đẩy
nhanh tiến độ nhằm sớm hoàn thành kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư
xây dựng của các địa phương trên cả nước cũng phát triển khá mạnh nên giá trị sản
xuất xây dựng năm 2010 theo giá thực tế ước tính đạt 545,2 nghìn tỷ đồng, tăng 23,1%
so với năm trước, trong đó khu vực nhà nước đạt 184,7 nghìn tỷ đồng, tăng 23,4%.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế ước tính đạt 830,3
nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP, trong đó có 1980 tỷ
đồng từ nguồn ngân sách trung ương và 4487,5 tỷ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính
phủ được Thủ tướng cho phép ứng trước để bổ sung và đẩy nhanh tiến độ thực hiện
một số dự án quan trọng hoàn thành trong năm 2010. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã
hội thực hiện năm nay, vốn khu vực Nhà nước là 316,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,1%
tổng vốn và tăng 10%.Với tỷ lệ đầu tư cao như vậy, nền kinh tế luôn đòi hỏi một tốc
độ tăng trưởng tín dụng và cung tiền rất cao kéo mặt bằng lãi suất lên cao . Bên cạnh
đó, một số hạn mục đầu tư không hiệu quả, tạo sức ép đến lạm phát  lãi suất cao.
• Biến động của thị trường tài chính tiền tệ quốc tế càng làm cho việc kiểm soát
lạm phát nói chung và ổn định lãi suất nói riêng của chúng ta thêm khó khăn. Tỷ giá
hối đoái giữa các đồng tiền chủ chốt trên thế giới như USD, EURO, JPY, RMB, liên

tục chao đảo dưới tác động của các yếu tố bất định như sự phục hồi của kinh tế toàn
cầu hay khả năng “khủng hoảng kép”, khủng hoảng nợ của khu vực EURO có thể giải
quyết hay sẽ lan rộng từ Hy Lạp, Ireland sang Bồ Đào Nha và cả Tây Ban Nha, thậm
chí đặt ra cả vấn đề EURO tồn tại hay không tồn tại, nâng giá đồng tiền hay phá giá
mạnh để duy trì tính cạnh tranh.
* ẢNH HƯỞNG TỪ CHÍNH SÁCH CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
15
• Chính sách tiền tệ thắt chặt: Trước sức nóng của lạm phát tăng cao , đến đầu
tháng 11, tín hiệu thắt chặt lại xuất hiện. Ngày 5/11/2010, NHNN quyết định điều
chỉnh các lãi suất thêm 1%, lãi suất cơ bản lên 9%, lãi suất tái cấp vốn lên 9%, lãi suất
tái chiết khấu lên 7%, cung tiền và tín dụng cũng thu hẹp tốc độ tăng, chốt lại cả năm
M2 còn tăng 23%, tín dụng tăng 27,65% so với cuối năm 2009. Động thái này cho
thấy NHNN đang sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để phòng chống lạm phát. Trong
thời gian qua, NHNN cũng đã hạn chế cung tiền qua thị trường mở. Khi GDP vượt chỉ
tiêu Quốc Hội, các NH thi nhau đưa ra mức lãi suất thỏa thuận, buộc các NH khác
không tăng thì không thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi cực lớn trong dân chúng.
• Sức ép từ Thông tư 13: Thông tư 13 yêu cầu nâng hệ số an toàn vốn tối thiểu
CAR từ 8% lên 9% và quy định số tiền cho vay không quá 80% huy động được. Trước
khi có quy định hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều có hệ số CAR chưa đạt đến 9%
và dư nợ cho vay lớn hơn vốn huy động. Hiện tại, các ngân hàng đang gặp rất nhiều
khó khăn trong việc huy động vốn dù lãi suất huy động đã lên rất cao. Do vậy, các
ngân hàng sẽ tiếp tục gặp nhiều trở ngại để đảm bảo những quy định của Thông tư 13.
Ngoài ra, quy định tại Thông tư 13 còn nâng hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay
đầu tư bất động sản và chứng khoán từ 100% lên 250%. Do vậy, các ngân hàng đã
phải hạn chế cho vay và tăng cường huy động vốn để đáp ứng được quy định trên. Đây
là một nguyên nhân khá quan trọng đẩy nhu cầu huy động vốn lên cao và buộc các
ngân hàng phải hạn chế cho vay.
• Áp lực tăng vốn, theo Nghị định 141/2006 của Chính phủ, đến 31-12-2010 là
hạn chót để các ngân hàng phải đảm bảo nâng vốn lên tối thiểu 3.000 tỉ đồng. Đây là
áp lực rất lớn đối với các ngân hàng nhỏ, nhất là ngân hàng có vốn điều lệ quanh mức

1.000 tỉ đồng. Trong khi lợi nhuận của đa phần ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các
ngân hàng nhỏ đều trông vào tín dụng, nên việc cạnh tranh khốc liệt để huy động vốn
cũng là điều dễ hiểu. Đồng thời nhu cầu thanh khoản cuối năm tăng cao khiến nhu cầu
vốn của các NH quý 4 đi vào giai đoạn nước rút. Thống kê cho thấy vào thời điểm đầu
tháng 5 năm 2010, trong tổng cộng 39 ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) đang
hoạt động có tới 24 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 3.000 tỉ đồng. Trong đó có 15 ngân
hàng có vốn dưới 2.000 tỉ đồng và tám ngân hàng có vốn quanh mức 1.000 tỉ đồng.
• Ảnh hưởng của đầu tư vào trái phiếu chính phủ: Những năm qua, lượng trái
phiếu chính phủ phát hành rất lớn cũng hút một lượng vốn không nhỏ của hệ thống
ngân hàng. Vậy tại sao các ngân hàng lại tích cực đầu tư vào trái phiếu chính phủ, câu
trả lời là lãi suất huy động cao nhưng đầu ra lại bị khống chế làm cho tăng trưởng tín
dụng của các ngân hàng năm tháng đầu năm tăng chậm lại. Để bù đắp lại lợi nhuận,
các ngân hàng tích cực đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Các ngân hàng thế chấp số trái
16
phiếu chính phủ đã mua để vay lại Ngân hàng Nhà nước qua nghiệp vụ thị trường mở
sau đó cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng để hưởng lãi suất chênh lệch. Thực
trạng này làm cho nguồn vốn phân bổ không đều, nơi thừa, nơi thiếu, đẩy lãi suất tăng
cao. Sự quan tâm trái phiếu chính phủ trở lại của các ngân hàng sẽ giúp cho mục tiêu
huy động 56.000 tỉ đồng vốn trái phiếu phục vụ cho đầu tư phát triển cũng như bù đắp
thâm hụt ngân sách của Chính phủ trong năm 2010 dễ dàng hơn. Tuy nhiên, các
chuyên gia cũng cảnh báo về mặt trái của việc đầu tư trái phiếu chính phủ quá nhiều có
thể sẽ ảnh hưởng tới xu hướng lãi suất, rủi ro thanh khoản của các ngân hàng và nguồn
vốn cho nền kinh tế.
* HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
• Sự cạnh tranh khốc liệt, không lành mạnh giữa các ngân hàng: Sự mở rộng
mạng lưới nhanh chóng, khả năng quản trị điều hành của nguồn nhân lực không đồng
đều tại một số NH dẫn đến hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. "Về lý thuyết,
cạnh tranh sẽ làm cho lãi suất giảm, nhưng đó là cạnh tranh cho vay. Còn ở đây là
cạnh tranh huy động, nên đẩy lãi suất tiền gửi tăng lên và lãi suất cho vay tăng là điều
không tránh khỏi", ông Lê Xuân Nghĩa nói.

• Quy mô của các ngân hàng không đồng đều: Tính đến tháng 9 năm 2010,
mạng lưới hệ thống NH VN gồm có 43 NHTM nội địa (trong đó có 4 NH thuộc 100%
vốn sở hữu của Nhà nước, VCB và Vietinbank do Nhà nước chiếm đa số vốn), 5 NH
100% vốn nước ngoài, 47 chi nhánh NH nước ngoài, 5 NH liên doanh. Nếu các ngân
hàng cùng áp dụng một mức trần lãi suất tiền gửi (ví dụ như đối với VND hiện
12%/năm) thì người gửi tiền thường chọn các NHTM Nhà nước hoặc ngân hàng quy
mô lớn để gửi vì họ tin tưởng năng lực chi trả và thích sự thuận tiện (mạng lưới rộng)
của các ngân hàng này hơn. Các ngân hàng nhỏ chịu nhiều bất lợi do yếu về thương
hiệu, uy tín, thiếu về mạng lưới nên tất yếu phải cạnh tranh bằng lãi suất. Các ngân
hàng thương mại Việt Nam đứng trước áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước
ngoài với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ quản lý và hệ thống sản phẩm
đa dạng và có chất lượng cao hơn, có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Hệ
thống ngân hàng cần đáp ứng các chuẩn mực về an toàn theo thông lệ quốc tế như tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu, trích lập dự phòng rủi ro, phân loại nợ theo chuẩn mực kế toán
quốc tế.
• Tính thanh khoản của các NHTM nước ta không tương đồng: thậm chí rất
khác nhau nên các NHTM có thanh khoản không tốt (thường là NHTM qui mô nhỏ và
trung bình) buộc phải đẩy lãi suất huy động lên khi giảm sự trông cậy vào thị trường
liên ngân hàng, do đó, kéo theo các NHTM có thanh khoản tốt hơn vào cuộc đua lãi
suất. Theo các chuyên gia, trong 36 loại rủi ro hoạt động tài chính ngân hàng thì rủi ro
17
thanh khoản được coi là nguy hiểm nhất. Kinh doanh lĩnh vực này, chẳng ai quên bài
học “vỡ lòng” đó nhưng lâu nay, không ít trường hợp vì lòng tham, vì “ăn xổi” đã tự
đẩy mình vào thế “giật gấu vá vai”.Tiến sĩ Nguyễn Đức Hưởng, Tổng giám đốc
LienVietBank cho rằng, rủi ro thanh khoản xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác
nhau như: tập trung tín dụng trung dài hạn vào một số khách hàng lớn; tập trung nguồn
vốn huy động không kỳ hạn vào một số khách hàng lớn và khi họ rút bất ngờ, có thể
dẫn đến mất thanh khoản; phát triển nóng cả nguồn vốn lẫn tín dụng cũng liên quan
đến rủi ro thanh khoản. Trong hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động ngân hàng, ai
cũng muốn tránh xa thứ rủi ro này, bởi chúng tiêu tốn lợi nhuận, làm kiệt quệ năng lực

tài chính và thậm chí là đứt khả năng nghĩa vụ chi trả hay cam kết tài chính với đối
tác.Theo Ông Bùi Kiến Thành (chuyên gia kinh tế): “Lý do doanh nghiệp VN đang
phải chịu lãi suất cao nhất thế giới như hiện nay là vì thiếu tiền, vì ngân hàng thắt chặt
tín dụng. Muốn có vốn ngân hàng phải huy động lãi suất cao, cho vay cao, từ đó tạo ra
vòng luẩn quẩn không thoát ra được”. Lãi suất đầu vào cao kéo theo lãi suất đầu ra
cao. Khách hàng vay vốn luôn là người chịu hậu quả. Ngoài ra, một số ngân hàng nhỏ
lại có tỷ lệ cho vay trung và dài hạn khá cao (có ngân hàng cuối năm 2008 trên
50%/tổng dư nợ cho vay). Tiền cho vay thì thường 3- 5 năm mới đến hạn thu hồi,
trong khi đó tiền huy động thì lúc nào cũng có khoản đến hạn phải trả, khiến các ngân
hàng phải nâng lãi suất để thu hút vốn, đảm bảo thanh khoản.
5. Nhận xét:
Rõ ràng, biến động lãi suất VND trong năm 2010 là hệ quả tất yếu của nhiều
nguyên nhân khác nhau, cả khách quan và chủ quan, cả quá khứ trong ngắn hạn cũng
như trung và dài hạn, cả bên trong cũng như từ bên ngoài song rõ nhất hiện nay là
nguyên nhân sâu xa trong lựa chọn chế độ tiền tệ, chúng ta dường như đã lựa chọn một
chế độ tiền tệ “thứ 3 rưỡi” là tự do hóa luồng vốn do thiếu cơ chế kiểm soát vốn có
hiệu quả, hơn nữa, mong muốn lấy thặng dư tài khoản vốn để bù đắp thâm hụt cán cân
thương mại và mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, đồng thời lại muốn cố định tỷ giá
hối đoái giống như chế độ tiền tệ thứ hai nêu trên trong khi lại mong muốn không phải
hy sinh tính độc lập và hiệu quả can thiệp của chính sách tiền tệ như chế độ tiền tệ thứ
hai nêu trên yêu cầu. Kết quả tất yếu là lãi suất đang và sẽ trở thành “con ngựa bất
kham” đối với riêng chính sách tiền tệ cho đến khi chúng ta dứt khoát lựa chọn lại
đúng chế độ tiền tệ cơ bản của mình.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, khó dùng mệnh lệnh để buộc các NH hạ lãi
vay khi lãi huy động không thể hạ mà NHNN cần điều chỉnh chính sách linh hoạt hơn
bằng các công cụ như lãi suất tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bơm vốn thông qua thị
trường mở với thời hạn lâu hơn Cuộc đua lãi suất hiện nay chủ yếu do các NH nhỏ
18
khởi động để tự tìm nguồn vốn chứ không phải do áp lực lạm phát. Tuy nhiên, một khi
những chỉ đạo của Chính phủ không được thực thi thì NHNN cần mạnh tay hơn hoặc

có những biện pháp linh hoạt, phù hợp chứ không phải chỉ quyết tâm kiểm tra NH
nâng lãi lên 12%/năm. Bởi suy cho cùng, rất khó để bó buộc các NH vào khuôn khổ vì
họ phải tự bơi và sống theo cơ chế thị trường.
Có nhiều ý kiến cho rằng giảm lãi suất cho vay sẽ dẫn đến lạm phát cao nhưng
thực tế không phải như vậy. Thực tế lãi suất cao như hiện nay chính là nguyên nhân
tạo ra lạm phát vì doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất cao thì tất yếu phải tăng giá
cả hàng hóa để bù đắp chi phí đầu vào.
Ngân hàng Nhà nước xem xét hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc để hỗ trợ thêm vốn cho
các ngân hàng thương mại.
6. Một số giải pháp được đề xuất:
(1)Theo ông Bùi Kiến Thành (chuyên gia kinh tế): “để giảm lãi suất ngân hàng
phải thực hiện hàng loạt giải pháp, trong đó giải pháp không thể thiếu là tiếp thêm tiền
cho các ngân hàng thông qua thị trường mở, kể cả hỗ trợ vốn cho những ngân hàng
nhỏ không có tài sản thế chấp”.
Điều 10 và điều 11 của Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ năm 2011 quy định
Ngân hàng Nhà nước có quyền cho ngân hàng thương mại vay và không cần các yêu
cầu về thế chấp, chiết khấu hoặc mua bán các giấy tờ có giá qua thị trường mở. Như
vậy Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có cơ sở để chặn đứng các cuộc đua lãi suất bắt
nguồn từ nguyên nhân thiếu thanh khoản của các ngân hàng nhỏ, đồng thời có thể chủ
động lãi suất cho vay với các ngân hàng. Được vay nguồn vốn rẻ từ Ngân hàng Nhà
nước, các ngân hàng thương mại sẽ có nguồn cho vay lãi suất thấp, kéo mặt bằng lãi
suất trên thị trường xuống mức hợp lý.
(2)Ngân hàng Nhà nước cũng nên có các giải pháp để điều tiết nguồn tiền đi
vào đúng kênh sản xuất kinh doanh, hạn chế tiền chảy vào các kênh phi sản xuất. Phải
dùng lãi suất để kéo giá cả xuống chứ đừng nhìn giá cả để ấn định lãi suất, như vậy sẽ
không thể trị tận gốc lạm phát.
(3)Nhiều đề xuất đã đưa ra để ổn định lãi suất VND như phải kiểm soát lạm
phát thông qua kiểm soát giá cả, phải phối hợp thắt chặt chính sách tài khóa với chính
sách tiền tệ, phải “đồng thuận” đưa lãi suất huy động xuống 12% mỗi năm, phải giảm
lãi suất cho vay để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, phải ổn định tỷ giá hối

đoái VND/USD, phải đảm bảo đủ ngoại tệ thông qua sử dụng dự trữ ngoại hối, phải ổn
định giá vàng thông qua cấp quota nhập khẩu và tăng thuế xuất khẩu vàng, phải cân
đối cung cầu, phải hạn chế nhập siêu, phải chuẩn bị thu hút nguồn vốn “nóng” sẽ đổ
vào Việt Nam
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài viết: “Biến động lãi suất và tín dụng ngân hàng năm 2010”- Tạp chí Ngân
Hàng số 3+ 4/ năm 2011
2. Tạp chí: Thị trường tài chính- tiền tệ số 3+4 (324+325)
3. Tạp chí: Thông tin Tài chính số 1+2(453-454)/tháng 1-2011; số 3 (455)/ tháng
2-2011
4.
5.
6.
nam.chn
7.
xuat.chn
8.
9.
p=forum_thread&forum=200&thread=11858#p0
10.
oang_327.html
11.
hang/_/-/journal_content/journal_content_INSTANCE_1oY8/10136/2824900?
_journal_content_INSTANCE_1oY8_version=1.0
12.
fileticket=Fxt9106x4S4%3D&tabid=8130&mid=26347
13.
23nam.htm
14.

giam/126/5619802.epi
15.
16.
17.
lai-suat-van-tang.html
18.
nam-2010-mot-nam-nhin-lai.html
19.
giam-lai-suat-cho-vay.htm
20.
21.
21614770.html
20
21

×