Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.02 KB, 58 trang )


CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY
i
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) vào ngày 11/01/2007. Gia nhập WTO, một trong những thuận lợi đầu
tiên được kể đến là việc Việt Nam sẽ được sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO để bảo vệ lợi ích cho quốc gia mình. Điều này còn có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với dệt may, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang có nguy cơ bị
kiện bán phá giá. Hơn nữa, kể từ ngày 01/01/2005, khi chế độ hạn ngạch hết hiệu lực,
dệt may trở thành một mặt hàng thông thường thuộc khuôn khổ pháp lý chung của
WTO mà cụ thể là tuân theo các quy định chung của GATT năm 1994. Theo đó, khi
xảy ra tranh chấp trong thương mại hàng dệt may giữa các nước thành viên WTO, việc
sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là có tính bắt buộc.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng dựa trên nền tảng cơ chế
giải quyết tranh chấp của GATT năm 1947. Trong thời gian tồn tại hơn 47 năm, cơ chế
giải quyết tranh chấp của GATT được đánh giá là đã có nhiều đóng góp to lớn trong
việc giải quyết tranh chấp giữa các nước tham gia GATT. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của thương mại thế giới, cơ chế này cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập; ví dụ như:
việc sử dụng nguyên tắc đồng thuận thuận (consensus) để thông qua các quyết định
hay việc giải quyết tranh chấp chỉ được xét xử ở một cấp là Ban Hội thẩm, … Ngày
01/01/1995, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời đã loại bỏ nhiều bất cập
trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động, cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO đã chứng tỏ được tầm quan trọng cũng như những ưu
điểm hơn hẳn cơ chế của GATT, như là: việc sử dụng nguyên tắc đồng thuận nghịch
(negative consensus) để ra quyết định, quy định hoàn thiện hơn về cơ quan giải quyết
tranh chấp với sự xuất hiện của Cơ quan Phúc thẩm, hay những quy định thuận lợi
dành riêng cho các nước đang và kém phát triển, … Mặc dù còn một số hạn chế nhưng
có thể nói cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hiệu quả hơn và công bằng hơn so
với cơ chế của GATT. Trên thực tế, các nước thành viên WTO thường xuyên phải sử


dụng cơ chế này và tuân theo phán quyết được đưa ra. Theo số liệu mới cập nhật, đến
tháng 07/2007 đã có 366 vụ tranh chấp giữa các nước thành viên được giải quyết theo
cơ chế của WTO, trong đó có 19
1
vụ tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt
may.
Từ việc phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO, nhóm nghiên cứu đi sâu vào việc phân tích kinh nghiệm thực tế vận
1
/>ii
dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong thương mại hàng dệt may của một
số nước đang phát triển trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Khi lựa chọn một số nước đang phát triển để phân tích, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn
Trung Quốc -nước láng giềng có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam-, Ấn Độ và
Pakistan -hai nước đang phát triển có thế mạnh trong việc xuất khẩu hàng dệt may.
Hiện nay, Trung Quốc là nước có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất
trên thế giới. Với tốc độ phát triển mạnh mẽ, sau khi chế độ hạn ngạch MFA hết hiệu
lực, dệt may của Trung Quốc được dự báo sẽ là một mối đe doạ lớn đối với ngành dệt
may của nhiều nước trên thế giới và có thể phải đối mặt với rất nhiều tranh chấp trong
tương lai. Trong thời điểm hiện tại, theo thống kê trong WTO, Trung Quốc mới chỉ
tham gia vào hai
2
vụ tranh chấp về thương mại hàng dệt may và đều với tư cách là bên
thứ ba, điển hình là trong vụ kiện: Ấn Độ kiện Mỹ về quy tắc xuất xứ hàng dệt may.
Mặc dù vậy, Trung Quốc cũng đã đạt được những lợi ích về mặt tăng cường nắm bắt
luật pháp của WTO cũng như tăng khả năng phân tích, lập luận và nói lên tiếng nói
của mình. Điều này cũng góp phần xây dựng hình ảnh và khẳng định vị trí của Trung
Quốc trên trường quốc tế. Kinh nghiệm tham gia với tư cách là bên thứ ba có thể sẽ là
một bài học hữu ích cho Việt Nam khi phải đối mặt với những tranh chấp về thương
mại hàng dệt may trong tương lai.

Với đặc điểm là một nước đang phát triển và cũng là một nước ở Châu Á, dệt
may Pakistan có nhiều đặc điểm tương đối giống dệt may của Việt Nam. Do đó, việc
phân tích vụ kiện điển hình: chế độ hạn ngạch đối với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ
Pakistan vào Mỹ, sẽ đem lại nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho dệt may Việt Nam
khi vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Mặc dù đây là lần đầu tiên
Pakistan sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ quyền lợi của mình
trong thương mại hàng dệt may và gặp phải không ít khó khăn, nhưng cuối cùng nước
này đã đạt được một phán quyết có lợi cho mình. Thành công của Pakistan có được
phần lớn là do sự quyết tâm và sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, cơ quan nhà nước
là Bộ Thương mại, Hiệp hội các nhà sản xuất dệt may và cộng đồng doanh nghiệp
Pakistan. Sau vụ kiện này, Pakistan cũng rút ra kinh nghiệm là phải đặc biệt chú ý đến
công tác đào tạo đội ngũ, nguồn nhân lực chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế.
Bên cạnh đó một kinh nghiệm quan trọng nữa là phải biết chấp nhận hy sinh để tạo ra
một tiền lệ tích cực hướng về tự do và bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Có thể nói, Ấn Độ là một trong những nước tích cực sử dụng cơ chế giải quyết
của tranh chấp WTO, với 19 lần khởi kiện, 17 lần làm bị đơn và tới 49 lần tham gia
với tư cách bên thứ ba trong các vụ tranh chấp
3
. Riêng trong lĩnh vực hàng dệt may,
Ấn độ đã khởi kiện đến 6 lần
4
(trong tổng số 19 vụ tranh chấp) mà tiêu biểu là vụ kiện:
2

3

4
/>iii
Cộng đồng Châu Âu về thuế chống bán phá giá với ga và vỏ gối cotton nhập khẩu từ
Ấn Độ. Trong suốt quá trình diễn ra vụ kiện, các chuyên gia pháp lý của Ấn Độ theo

dõi các tình tiết rất sát sao, đưa ra những lập luận hợp lý, sắc bén và không lúc nào
chịu “thua thiệt” trước EC. Điều đó chứng tỏ Ấn Độ có một nguồn nhân lực có trình
độ cao về pháp luật thương mại quốc tế, đặc biệt là pháp luật của WTO. Với nền tảng
như vậy, và với quyết tâm theo đuổi vụ kiện đến cùng bằng việc tin vào lập luận và sự
hiểu biết của mình, Ấn Độ đã thuyết phục được cả Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc
thẩm. Trên thực tế, EC đã chấp nhận phán quyết cuối cùng của Cơ quan Phúc thẩm,
nhưng họ lại không thực hiện đầy đủ các đề xuất mà bản báo cáo đưa ra. Mặc dù vụ
kiện chỉ thắng lợi về mặt danh nghĩa, Ấn Độ vẫn quyết tâm theo đến cùng, quyết tâm
giữ vững vị thế của nước mình trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại
hàng dệt may nói riêng.
Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm thực tế rút ra cho Việt Nam thông qua
các vụ tranh chấp điển hình của các nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới và từ
phân tích thực tế thương mại hàng dệt may tại Việt Nam, đề tài đề xuất những giải
pháp để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong
giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may. Theo đó, những đề xuất với cơ
quan quản lý Nhà nước bao gồm: tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên
sâu về thương mại quốc tế nói chung và pháp luật của WTO nói riêng; thành lập bộ
phận chuyên trách để đặc biệt theo dõi tiến trình về giải quyết tranh chấp trong thương
mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng. Về phía Hiệp hội dệt
may, giải pháp đề ra là cần nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò đầu mối liên kết
giữa các doanh nghiệp cũng như giữa doanh nghiệp với chính phủ; sẵn sàng hỗ trợ
doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện liên quan đến thương mại hàng dệt may. Bên
cạnh đó Hiệp hội cũng cần thành lập một bộ phận chuyên trách về giải quyết tranh
chấp kết hợp với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương. Các doanh nghiệp xuất
khẩu dệt may trong nước cần phải nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế
nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng; đồng thời phải tăng
cường liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc chủ động đối phó với tranh chấp
có thể xảy ra. Ngoài ra, việc tham gia vụ kiện với tư cách bên thứ 3 cũng là một giải
pháp khác được khuyến khích sử dụng trong thời gian tới; cùng với nó, công tác vận
động hành lang (lobby) và quan hệ công chúng (public relations) cũng cần được đẩy

mạnh như là một thứ công cụ đắc lực để bảo vệ lợi ích quốc gia trong các vụ tranh chấp.
CHỮ
VIẾT TẮT
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
ADA Anti-dumping Agreement Hiệp định chống bán phá giá của WTO
ATC Agreement on Textiles and Clothing Hiệp định hàng Dệt may
iv
DSB Dispute Settlement Body
Cơ quan giải quyết tranh chấp của
WTO
DSU Dispute Settlement Understanding
Thoả thuận về các Quy tắc và Thủ tục
điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp
GATT
Genenral Agreement on Tariffs and
Trade
Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại
LTA
Long Term Arrangement regarding
International Trade in Cotton
textiles
Hiệp định dài hạn về Thương mại quốc
tế Bông sợi
MFA Multifibre Arrangement Hiệp định hàng Đa sợi
MFN Most Favoured Nation Quy chế tối huệ quốc
PNTR Permanent Normal Trade Relations
Quy chế quan hệ thương mại bình
thường vĩnh viễn

RO Rules of Origin Agreement
Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ của
WTO
STA
Short Term Arrangement regarding
International Trade in Cotton
textiles
Hiệp định ngắn hạn về Thương mại
quốc tế Bông sợi
TMB Textiles Monitoring Body Cơ quan giám sát hàng dệt
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
v
MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI v
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY 3
I. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 3
1. Từ cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT đến cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO 3
1.1. Những bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 3
1.2. Sự cần thiết phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 5
2. Những điểm mạnh và những hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO 6
2.1. Những điểm mạnh 6
2.2. Những hạn chế 10
II. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương
mại hàng dệt may 12
1. Các tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong phạm vi của WTO. .12

1.1. Đặc điểm về hàng dệt may và thương mại hàng dệt may 12
1.2. WTO và thương mại hàng dệt may 13
1.3. Đặc điểm của các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may trong
khuôn khổ WTO 14
2. Các quy định trong Hiệp định ATC về giải quyết tranh chấp liên quan
đến thương mại hàng dệt may 15
2.1. Hiệp định ATC 15
2.2. Giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiệp định ATC 16
3. Vì sao phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải
quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may? 17
3.1. Vì Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO 17
3.2. Vì tranh chấp về hàng dệt may đã nằm trong phạm vi điều chỉnh của WTO
17
3.3. Vì cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO góp phần tích cực trong việc
thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế dựa trên tự do hoá thương mại và sự bình
đẳng giữa các nước giàu và các nước nghèo 17
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
TRONG VIỆC VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY VÀ RÚT RA 19
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM 19
I. Kinh nghiệm của Trung Quốc 19
vi
1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Trung Quốc 19
2. Vụ kiện: Ấn Độ kiện Mỹ về quy tắc xuất xứ hàng dệt may và sự tham gia
của Trung Quốc 20
2.1. Tóm tắt vụ kiện 20
2.2. Tiến trình vụ kiện 20
3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 22
II. Kinh nghiệm của Pakistan 23
1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Pakistan 24

2. Vụ kiện: chế độ hạn ngạch đối với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ
Pakistan vào Mỹ và sự vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ
phía Pakistan 25
2.1. Tóm tắt vụ kiện 25
2.2. Diễn biến 25
2.3. Giai đoạn xem xét tại Cơ quan giám sát dệt may 25
2.4. Giai đoạn đưa vụ kiện lên giải quyết tại Cơ quan giải quyết tranh chấp của
WTO 26
3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 28
III. Kinh nghiệm của Ấn Độ 30
1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Ấn Độ 30
2. Vụ kiện: “Cộng đồng Châu Âu - Thuế chống bán phá giá với ga trải
giường và vỏ gối cotton nhập khẩu từ Ấn Độ” và sự vận dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO từ phía Ấn Độ 32
2.1. Tóm tắt vụ kiện 32
2.2. Diễn biến 32
2.3. Tiến trình vụ kiện khi đưa lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO 33
2.4. Hậu phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm 34
3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 34
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ VIỆT NAM VẬN DỤNG THÀNH CÔNG CƠ CHẾ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY 37
I. Dự báo khả năng phát sinh tranh chấp về thương mại hàng dệt may liên quan đến Việt
Nam sau khi gia nhập WTO 37
1. Cơ sở để dự báo 37
1.1. Vai trò của ngành dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam 37
1.2. Vị trí thương mại hàng dệt may Việt Nam trên thế giới 37
1.3. Thách thức đối với dệt may Việt Nam hậu WTO 38
2. Khả năng phát sinh tranh chấp về hàng dệt may 39
II. Một số kiến nghị cụ thể 40

1. Đối với Nhà nước 40
1.1. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về pháp luật
thương mại quốc tế nói chung và pháp luật của WTO nói riêng 40
vii
1.2. Thành lập bộ phận chuyên trách để đặc biệt theo dõi tiến trình về giải
quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt
may nói riêng 42
2. Đối với Hiệp hội ngành Dệt may 43
2.1. Hiệp hội dệt may cần nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò đầu mối liên
kết giữa các doanh nghiệp cũng như giữa doanh nghiệp với chính phủ 43
2.2. Hiệp hội dệt may cần tăng cường hơn nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp
ứng phó với các vụ kiện liên quan đến thương mại hàng dệt may 45
2.3. Hiệp hội dệt may cần thành lập một bộ phận chuyên trách về giải quyết
tranh chấp kết hợp với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương 45
3. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may 46
3.1. Nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng 46
3.2. Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc chủ động đối
phó với các tranh chấp có thể xảy ra 47
4. Các giải pháp khác 48
4.1. Tham gia vào vụ kiện với tư cách bên thứ ba 48
4.2. Thúc đẩy công tác vận động hành lang (lobby) và quan hệ công chúng
(public relations) 48
KẾT LUẬN 50
ĐỀ TÀI ĐẠT GIẢI NHẤT CUỘC THI “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 2007” VÀ ĐƯỢC GỬI DỰ THI CẤP BỘ GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO 50
CÁC PHỤ LỤC (được xếp số trang riêng và được đánh ở bên dưới của trang)
Phụ lục số 1: Thỏa thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU) 2
Phụ lục số 2: Trích dẫn một số điều của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương

mại năm 1947 31
Phụ lục số 3: Trích dẫn một số điều của Hiệp định về Quy tắc xuất xứ 33
Phụ lục số 4: Hiệp định hàng Dệt may 35
Phụ lục số 5: Trích dẫn một số điều của Hiệp định chống bán phá giá 50
Phụ lục số 6: Sơ đồ quy trình giải quyết tranh chấp 64
Phụ lục số 7: Cơ cấu tổ chức của Tổ chức Thương mại Thế giới 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66

viii
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Ngày 11/01/2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Gia nhập WTO, Việt Nam buộc phải tuân theo
“luật chơi chung” của WTO, cụ thể phải thực hiện các cam kết trong các hiệp định đa
biên, trong đó có Hiệp định hàng Dệt may (ATC) và cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được đánh giá là có nhiều ưu việt hơn
so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT trước đây. Và việc vận dụng thành
công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam
trong trường hợp có sự vi phạm từ phía các thành viên khác, cũng như trong việc tự
bảo vệ mình khi bị các nước khác khiếu kiện. Tuy nhiên, đối với những nước đang
phát triển như Việt Nam, việc vận dụng thành công cơ chế này cũng là một thách thức
lớn. Điều này đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu đầy đủ, cụ thể hơn cả trên lý thuyết
cũng như việc giải quyết tranh chấp trong thực tế. Ngoài ra, nghiên cứu việc vận dụng
cơ chế này còn đặc biệt quan trọng trong thương mại hàng dệt may, một mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Xuất khẩu hàng dệt may là nguồn thu ngoại tệ quan
trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, với kim ngạch trên 5,8 tỷ đôla
5
vào năm 2006.

Ngay khi Việt Nam vừa gia nhập WTO, nhiều thành viên khác của WTO như EU,
Mỹ, cũng đang tìm những sơ hở của những doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt
Nam để kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, Trong hoàn cảnh như vậy, việc tìm
hiểu kỹ để vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vào giải quyết các tranh
chấp về thương mại hàng dệt may là rất cần thiết.
Với tất cả những lý do trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn vấn đề “Vận dụng
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với Việt Nam trong việc giải quyết tranh
chấp về thương mại hàng dệt may” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho công trình
tham dự cuộc thi “Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2007” do Bộ Giáo dục và Đào
tạo tổ chức.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, yếu của cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO và tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trong việc vận
dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO khi giải quyết tranh chấp về thương mại
hàng dệt may, đề tài đề xuất giải pháp để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may có
thể sẽ xảy ra giữa Việt Nam với các nước thành viên khác của WTO trong thời gian tới.
5
Tổng cục Hải quan: Báo cáo thống kê hàng hoá xuất khẩu, ngày 28/01/2007, của Cục công nghệ thông tin &
Thống kê Hải quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của WTO liên quan đến cơ chế
giải quyết tranh chấp và việc giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong
khuôn khổ của WTO. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm cả các quy định
của Việt Nam, của WTO về xuất khẩu hàng dệt may và kinh nghiệm của một số nước
trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may thuộc khuôn
khổ của WTO.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, do hạn chế về

thời gian và cả về thời lượng, đề tài không có tham vọng phân tích mọi vấn đề liên
quan đến nội dung nghiên cứu. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở phân
tích về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may trong khuôn
khổ của WTO. Khi lựa chọn một số nước đang phát triển để phân tích, nhóm nghiên
cứu cũng giới hạn sự lựa chọn chỉ ở ba nước là Trung Quốc – một nước Châu Á nhưng
cũng là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và Ấn Độ, Pakistan
– hai nước cũng ở Châu Á, tuy có nhiều điểm khác biệt với Việt Nam nhưng cũng là
hai nước có thế mạnh trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Ba nước Trung Quốc, Ấn
Độ, Pakistan đã gia nhập WTO trước Việt Nam và cũng đã theo đuổi các vụ kiện về
thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phân tích, thống kê,
hệ thống hoá và luận giải. Phương pháp so sánh luật học cũng được áp dụng để nêu bật
những điểm mạnh trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với cơ chế giải
quyết tranh chấp của GATT cũng như làm rõ những vị trí khác nhau của ba nước
Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan khi những nước này tham gia vào quá trình tố tụng tại
WTO.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải
quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may.
Chương 2: Tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trong việc vận
dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về
thương mại hàng dệt may và rút ra bài học cho Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt
may.
2
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY
I. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO)
1. Từ cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT đến cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hình thành cùng với sự ra đời của WTO.
Khi nghiên cứu sự ra đời của WTO, một thực tế đương nhiên được thừa nhận là WTO
ra đời trên cơ sở kế thừa GATT, trong đó có sự kế thừa những thành tựu mà GATT đã
có được trong hơn 47 năm tồn tại (1947-1995), trong đó có sự kế thừa cả cơ chế giải
quyết tranh chấp của GATT. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO không thể không điểm qua, dù ở mức khái quát nhất, cơ chế giải quyết tranh
chấp của GATT.
1.1. Những bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) chính thức có hiệu
lực từ ngày 01/01/1948. Cùng với sự ra đời của GATT, cơ chế giải quyết tranh chấp
giữa các nước tham gia GATT cũng được xây dựng. Hoạt động trong hơn 47 năm, cơ
chế giải quyết tranh chấp của GATT được đánh giá là có nhiều đóng góp to lớn trong
việc giải quyết tranh chấp giữa các nước tham gia GATT. Về điều này, ông Ernst-
Ulrich Petersmann
6
, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về GATT/WTO đã
có nhận xét như sau "cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT có tầm quan trọng sống
còn đối với việc duy trì một hệ thống thương mại quốc tế mở cửa, bởi vì cơ chế đó
không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm các tranh chấp mà nó còn là công cụ bảo đảm
sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của các chính phủ, và quan trọng hơn cả
đó là một vũ khí dùng để răn đe những nước chủ trương chính sách ngoại giao thương
mại dựa trên sức mạnh". Tuy nhiên cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng thể
hiện nhiều điểm bất cập. Những bất cập đó là:
Thứ nhất, theo cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT các quyết định được
thông qua dựa trên nguyên tắc đồng thuận thuận (consensus). Đồng thuận thuận có

nghĩa là không có sự phản đối từ bất kỳ bên ký kết nào đối với quyết định được đưa ra.
Theo nguyên tắc này, Ban Hội thẩm chỉ được thành lập và báo cáo của Ban Hội thẩm
chỉ được thông qua khi có sự nhất trí của tất cả các thành viên trong Hội đồng GATT.
Về lý thuyết, nguyên tắc này có ưu điểm là khuyến khích tất cả các bên tham gia tìm ra
được một quyết định khả dĩ nhất mà tất cả đều có thể chấp nhận. Nhưng nhược điểm
của nó lại là tốn thời gian và nguồn lực để có được một quyết định đồng thuận, bởi vì
bất kỳ bên nào cũng có thể ngăn cản việc thành lập nhóm chuyên gia và phong toả
6
Ông Ernst-Ulrich Petersmann là giáo sư môn Luật của trường Đại học Geneva và Học viện nghiên cứu quốc tế
Geneva, Thuỵ Sỹ. Ông trở thành chuyên gia tư vấn pháp lý của GATT/WTO từ năm 1981. Cho đến nay, ông đã
xuất bản 14 cuốn sách và hơn 100 bài báo viết về Luật quốc tế, Luật Cộng đồng Châu Âu và Quan hệ kinh tế
quốc tế
3
việc thông qua báo cáo hay thậm chí là không cho phép trả đũa bằng việc không bỏ
phiếu thuận. Nói cách khác, ngay cả bên bị khiếu kiện cũng có thể dùng quyền phủ
quyết của mình để thể hiện sự không đồng thuận ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình
giải quyết tranh chấp. Chính điều này đã gây cản trở trong việc ra quyết định và dẫn
tới sự bất lợi cho các nước đi kiện.
Thứ hai, do không có một quy trình ổn định và rõ ràng, việc giải quyết tranh
chấp theo cơ chế của GATT thường bị kéo dài. Với việc áp dụng nguyên tắc đồng
thuận thuận, các bên tham gia có thể trì hoãn ở mọi giai đoạn và gây khó khăn cho quá
trình xét xử. Sự chậm trễ này trong nhiều trường hợp đã không đem lại tác dụng trên
thực tế cho bên thắng kiện do sản phẩm hay ngành sản xuất đã mất khả năng cạnh
tranh sau một khoảng thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài. Hơn nữa, cơ chế giải
quyết tranh chấp của GATT còn cho phép các bên tranh chấp có thể trì hoãn vô thời
hạn quyết định cuối cùng của GATT. Kết quả là rất nhiều vụ tranh chấp không được
giải quyết trong nhiều năm và điều này đã tạo cơ sở cho chủ nghĩa bảo hộ phát triển ở
các quốc gia được lợi từ sự yếu kém của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại
trong GATT.
Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của GATT chỉ được xét xử ở

một cấp là Ban Hội thẩm. Các bên tham gia tranh chấp không có quyền kháng cáo và
GATT cũng không có một Cơ quan Phúc thẩm độc lập để xem xét lại vụ tranh chấp
một cách thoả đáng.
Thứ tư, việc thực thi phán quyết của các vụ tranh chấp cũng chưa thật hiệu quả.
Thậm chí ngay cả khi báo cáo của Ban Hội thẩm đã được thông qua thì các phán quyết
cũng không được thi hành một cách tự động mà vẫn phải dùng nguyên tắc đồng thuận
thuận để quyết định. Thực tế cho thấy là khi yêu cầu cho phép đình chỉ nhượng bộ
không được chấp thuận thì các bên đã tăng cường sử dụng các biện pháp trừng phạt
đơn phương và điều này càng cho thấy hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp vẫn
còn hạn chế. Hơn thế nữa, vũ khí chủ yếu của GATT để đảm bảo sự tuân thủ của các
bên tranh chấp -đó là biện pháp trả đũa- đã không thể hiện được hiệu quả trong việc
kết thúc một tranh chấp. Các nước nhỏ thường gặp nhiều khó khăn khi trả đũa các
nước lớn do họ lo ngại rằng việc trả đũa này có thể gây những ảnh hưởng không tốt
cho nền kinh tế vốn đã yếu ớt của mình. Bên cạnh đó, GATT cũng không có quy định
về biện pháp bồi thường thiệt hại hay việc hạn chế thời gian để thi hành phán quyết đối
với bên thua kiện. Do đó, việc thực thi phán quyết cũng có thể bị kéo dài nhiều năm và
giá trị hiệu lực của các phán quyết cũng phần nào bị suy giảm.
Thứ năm, GATT cũng chưa đưa ra được những quy định đặc biệt và khác biệt
dành cho các nước đang và kém phát triển – điều khiến cho các nước này hầu như
không có tiếng nói, không thể đảm bảo một vị thế tương xứng với các nước phát triển
trong các vụ tranh tụng. Bên cạnh đó, các lĩnh vực không nằm trong phạm vi điều
chỉnh của GATT như thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
4
mại hay những khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ cũng không thuộc phạm
vi điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT.
1.2. Sự cần thiết phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Những hạn chế trên cho thấy cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT nói riêng cũng
như Hiệp định GATT 1947 nói chung không còn phù hợp với sự phát triển của thương mại
quốc tế và cần thiết phải có sự sửa đổi cơ bản cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT.
Ngày 01/01/1995 WTO chính thức hoạt động thay thế cho GATT. Để phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ của mình, WTO đã đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp mới thay
thế cho cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời, một mặt tiếp tục kế thừa những
mặt tích cực trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT, mặt khác loại bỏ cơ bản
những bất cập trong cơ chế này. Kể từ khi bắt đầu hoạt động đến nay, cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO đã nhanh chóng chứng tỏ được tầm quan trọng của nó với
thực tế là các nước thành viên WTO thường xuyên phải sử dụng cơ chế này và tuân
theo những phán quyết được đưa ra.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng dựa trên Thoả thuận về
các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU). Thỏa thuận này
bao gồm 27 điều, 4 phụ lục và có hiệu lực thi hành từ tháng 12-1996 (xem phụ lục số
1). DSU quy định các nguyên tắc, thủ tục giải quyết tranh chấp nhằm bảo đảm tính
thống nhất, khách quan và sự công bằng cho các thành viên của WTO. Nói cách khác,
DSU tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước thành
viên. Tất cả các nước thành viên của WTO đều có nghĩa vụ phải tuân thủ theo DSU
bởi vì họ đã ký và phê chuẩn Hiệp định WTO như là cả gói cam kết chung mà DSU là
một phần trong đó. Hơn nữa, DSU không cho phép sử dụng các diễn đàn đa phương
khác để giải quyết tranh chấp có liên quan đến WTO và cũng cấm việc các quốc gia
thành viên hành động dựa trên các quyết định đơn phương.
Để giám sát việc thực thi các quy định của DSU và cũng là giám sát toàn bộ
quá trình giải quyết tranh chấp, WTO lập ra Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB).
DSB có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên theo
nguyên tắc, quy định, trình tự và thủ tục được quy định trong DSU. DSB là cơ quan có
thẩm quyền thành lập bộ máy riêng để giải quyết tranh chấp như thành lập Ban Hội
thẩm, Cơ quan Phúc thẩm và có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng về tranh chấp
đồng thời quy định các chế tài để bảo đảm việc thực thi cũng như giám sát thực thi
phán quyết của mình.
Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một tổng thể thống nhất các
cơ quan, nguyên tắc và quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp nhằm đạt tới mục tiêu
bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên WTO khi có sự vi phạm các hiệp

định có liên quan của một hay nhiều thành viên khác. Có thể nói, cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan, khi nền thương mại
5
toàn cầu đã phát triển sang một giai đoạn mới: toàn diện hơn, đa dạng hơn và phức tạp
hơn.
2. Những điểm mạnh và những hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
2.1. Những điểm mạnh
2.1.1 Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO có bộ máy hoàn thiện hơn
So với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT, WTO đã lập ra một cơ quan
giải quyết tranh chấp riêng, độc lập với chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh
trong khuôn khổ của WTO. Điều 4.3 của Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO quy
định như sau: “Khi cần thiết Đại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách
nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp theo quy định trong Thoả thuận về giải quyết
tranh chấp”. Như vậy, cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) của WTO lại chính là Đại
Hội Đồng của WTO (xem phụ lục số 7). Là Đại Hội Đồng – cơ quan chấp hành của
WTO, khi có đơn khởi kiện của một nước thành viên, Đại Hội Đồng sẽ đồng thời đảm
nhiệm chức năng là cơ quan giải quyết tranh chấp. Như vậy, một cơ quan thường trực
của WTO được giao thêm chức năng của cơ quan giải quyết tranh chấp đã tạo thêm
quyền lực cho DSB trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh. Người ta thường ví
DSB vừa là chính phủ vừa kiêm luôn chức năng của bộ máy tư pháp trong một nhà
nước. Điều này cho thấy sức mạnh của DSB và cũng giải thích cho việc vì sao cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO với bộ máy như vậy, hoạt động hiệu quả hơn nhiều so
với GATT.
Để thực thi nhiệm vụ của mình, DSB có chủ tịch riêng và được nhận sự trợ giúp
pháp lý từ Ban thư ký của WTO trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh.
DSB có thẩm quyền thành lập Ban Hội thẩm, có quyền thành lập Cơ quan Phúc thẩm
thường trực; thông qua các báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm; bảo
đảm và giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến nghị của các cơ quan nói
trên bằng cách cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa hay đình chỉ thi hành những
nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan. Nói cách khác, DSB

chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy
định trong DSU, đồng thời giám sát toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp.
DSB sẽ nhóm họp khi có phát sinh tranh chấp giữa các nước thành viên. Tuy
vậy, DSB chỉ tham gia vào giai đoạn đầu của quá trình giải quyết tranh chấp là thành
lập Ban Hội thẩm và giai đoạn cuối là thông qua các báo cáo để đưa ra phán quyết
cuối cùng có hiệu lực ràng buộc đối với các bên có liên quan. Trong khi đó, quá trình
tố tụng trong giải quyết tranh chấp sẽ do hai cơ quan là Ban Hội thẩm và Cơ quan
Phúc thẩm đảm nhiệm. Đây là điểm tiến bộ hơn cơ chế giải quyết tranh chấp của
GATT. Trước đây, việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của GATT chỉ được tiến
hành ở một cấp là Ban Hội thẩm và các bên không có quyền kháng cáo. Khắc phục
được nhược điểm này, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có quy định thêm về thủ
tục kháng cáo và thành lập Cơ quan Phúc thẩm thường trực. Cơ quan này sẽ có trách
6
nhiệm xem xét những vấn đề pháp lý được đề cập đến trong báo cáo của Ban Hội thẩm
nếu có một bên kháng cáo. Trên cơ sở đó, Cơ quan Phúc thẩm sẽ có thể giữ nguyên,
thay đổi hoặc ra quyết định ngược lại các ý kiến của Ban Hội thẩm. Việc xét xử ở hai
cấp như trên đã khiến cho các tranh chấp được xét xử một cách thận trọng và công
bằng hơn. Và đặc điểm này một lần nữa chứng tỏ sự hoàn thiện hơn về cơ quan giải
quyết tranh chấp trong cơ chế của WTO so với GATT.
2.1.2. Nguyên tắc “đồng thuận thuận” đã bị thay thế bởi nguyên tắc “đồng
thuận nghịch”
Ưu điểm nổi bật của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với GATT là
nguyên tắc đồng thuận thuận đã được thay thế bằng nguyên tắc đồng thuận nghịch.
Theo nguyên tắc này không một nước thành viên riêng lẻ nào có thể ngăn cản việc ra
quyết định của DSB trong quá trình giải quyết tranh chấp trừ phi có ý kiến đồng thuận
phủ quyết của mọi thành viên của WTO. Điều này có nghĩa là nếu nước vi phạm muốn
phán quyết của DSB không được thông qua thì phải thuyết phục được tất cả các thành
viên khác của WTO (kể cả các bên tham gia trong vụ kiện) cùng phản đối với mình.
Quy định này làm cho quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra nhanh chóng hơn vì
trong thực tế chưa có trường hợp nào mà phán quyết của DSB lại bị bác bỏ do có sự

phản đối của tất cả các nước thành viên của WTO.
Nguyên tắc “đồng thuận nghịch” đã đem lại những thay đổi cơ bản trong cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO so với GATT. Việc ra quyết định dựa trên đồng thuận
phủ quyết khiến cho cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trở nên linh hoạt hơn do
các quyết định hầu như được thông qua một cách tự động. Hơn nữa, nguyên tắc này
cũng làm giảm đáng kể việc các nước lớn gây sức ép để chi phối quá trình giải quyết
tranh chấp, hay nói cách khác, một nước cho dù mạnh đến đâu cũng không thể ngăn
cản một nước yếu hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình theo các hiệp định WTO.
Do vậy, việc giải quyết tranh chấp diễn ra hiệu quả hơn và điều này góp phần củng cố
niềm tin của các nước thành viên, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển, vào sự
công bằng của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
2.1.3. Thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định chặt chẽ hơn
Một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả cần phải có thủ tục giải quyết tranh
chấp thật chặt chẽ. GATT trước đây về cơ bản chỉ có hai điều quy định về thủ tục giải
quyết tranh chấp là Điều 22 và Điều 23 (xem phụ lục số 2). Trong khi đó WTO có hệ
thống các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp. Đó là Thoả thuận về các quy tắc
và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU). Thủ tục giải quyết tranh chấp
của WTO được chia thành bốn giai đoạn chính: giai đoạn tham vấn, giai đoạn hội
thẩm, giai đoạn phúc thẩm và giai đoạn thi hành phán quyết. Tất nhiên không phải bất
kỳ tranh chấp nào cũng trải qua tất cả bốn giai đoạn này nhưng chúng phải được thực
hiện một cách lần lượt. DSU cũng đưa ra những quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ
phải thực hiện của bên nguyên đơn, bên bị đơn cũng như những quyền và nghĩa vụ của
7
DSB, của Ban Hội thẩm, của Cơ quan Phúc thẩm trong từng giai đoạn cụ thể của quá
trình xét xử. Xét về mặt thủ tục, các bên tham gia giải quyết tranh chấp phải tuân thủ
theo một trình tự nhất định đã được quy định trong DSU. Những quy định chi tiết này
làm cho quá trình giải quyết tranh chấp trở nên rõ ràng trong tất cả bốn giai đoạn. Và
đây là điểm tiến bộ hơn so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT.
2.1.4. Thời gian giải quyết tranh chấp ngắn hơn
Thủ tục giải quyết tranh chấp thống nhất, chặt chẽ hơn với quy định ràng buộc

về mặt thời gian trong từng giai đoạn giải quyết tranh chấp cụ thể làm cho thời gian
giải quyết tranh chấp của WTO được rút gọn hơn rất nhiều so với GATT trước đây.
Yếu tố thời gian có được nhắc đến trong những quy định về giải quyết tranh chấp của
GATT nhưng không cụ thể và chi tiết. Nguyên tắc đồng thuận thuận khiến cho một vụ
tranh chấp có thể bị kéo dài và thậm chí là không thể giải quyết được.
Điểm yếu này của GATT đã được khắc phục trong cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO. Thời gian tối đa để thực hiện từng bước trong giải quyết tranh chấp được
quy định rõ ràng trong DSU. Ví dụ như: thời hạn dành cho tham vấn là 60 ngày (Điều
4.3), thời gian để Ban Hội thẩm đưa ra báo cáo là 6 tháng (3 tháng nếu là trường hợp
khẩn cấp - Điều12.9). Với quy định rõ ràng và sự khống chế về mặt thời gian, quá
trình giải quyết tranh chấp của WTO đã được rút ngắn đi rất nhiều, việc giải quyết một
tranh chấp thông thường sẽ có kết quả sau khoảng 12 tháng nếu không có kháng cáo
và còn có thể rút ngắn hơn nữa trong trường hợp khẩn cấp (xem phụ lục số 6). Bên
cạnh đó, các quyết định của DSB đều được thông qua gần như tự động do đã áp dụng
nguyên tắc đồng thuận phủ quyết. Các báo cáo được thông qua nhanh chóng hơn
không những làm giảm thời gian mà còn nâng cao tính hiệu quả của việc giải quyết
tranh chấp theo cơ chế của WTO.
2.1.5. Việc cưỡng chế thực thi phán quyết của DSB có hiệu lực mạnh hơn
Nhằm mục đích buộc bên thua kiện thực thi phán quyết của DSB một cách
nghiêm túc, WTO đề ra cơ chế theo dõi và giám sát thực thi phán quyết. Cơ chế giám
sát được thực hiện trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban Hội
thẩm. Đồng thời bên thua kiện cũng phải thông báo cho DSB biết về những biện pháp
mà nước này dự định áp dụng để thực hiện. Ngoài ra, DSB cũng có thể cho nước này
một thời hạn được cho là “hợp lý” để thực hiện phán quyết. Quá thời gian này mà
nước thua kiện vẫn không thực thi phán quyết của DSB thì nước này sẽ phải thương
lượng với nước thắng kiện về mức độ bồi thường trong thời hạn là 30 ngày. Hết thời
hạn đó, nếu các bên vẫn không thỏa thuận được về mức độ bồi thường thì bên thắng
kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép áp dụng biện pháp trả đũa. Biện pháp trả đũa có
thể là tạm ngừng việc cho bên thua kiện hưởng những nhân nhượng thuế quan hoặc
tạm ngừng thực hiện những nghĩa vụ đối với bên thua kiện trong các hiệp định liên

quan.
8
GATT quy định biện pháp trả đũa chỉ được chấp thuận khi không có bên ký kết
nào phản đối, còn cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO quy định biện pháp trả đũa sẽ
chỉ bị huỷ bỏ khi tất cả các thành viên của WTO đồng ý. Với cách quy định như vậy,
việc cho phép áp dụng biện pháp trả đũa diễn ra gần như tự động theo cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO. Đồng thời, DSU cũng quy định rõ mức độ trả đũa được
DSB cho phép sẽ phải tương ứng với mức độ triệt tiêu hoặc thiệt hại mà nước bị vi
phạm phải gánh chịu (Điều 22.4). Biện pháp trả đũa chỉ là biện pháp tạm thời và được
áp dụng cho đến khi bên thua kiện thực thi phán quyết của DSB. Nước thành viên
thắng kiện có thể áp dụng trả đũa dưới các hình thức: trả đũa song hành, trả đũa chéo
lĩnh vực và trả đũa chéo hiệp định. Trả đũa song hành là việc nước bị thiệt hại tiến
hành trả đũa trong lĩnh vực thương mại mà nước đó bị thiệt hại và trả đũa tương ứng
với mức độ thiệt hại mà nước đó phải chịu. Trả đũa chéo lĩnh vực là việc một nước có
thể trả đũa trong lĩnh vực khác không phải là lĩnh vực nước đó bị thiệt hại, nhưng vẫn
cùng hiệp định bị vi phạm. Biện pháp này được sử dụng khi trả đũa trực tiếp là không
hiệu quả, ví dụ như: nước đang phát triển sẽ khó có thể áp dụng một cách hiệu quả
biện pháp trả đũa trong lĩnh vực thương mại hàng hoá đối với một nước phát triển
nhưng nếu trả đũa trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì có thể sẽ hiệu quả hơn. Cuối
cùng, với biện pháp trả đũa chéo hiệp định, là biện pháp chỉ sử dụng trong một số
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, bên thắng kiện còn có thể yêu cầu DSB cho phép
trả đũa trong những lĩnh vực thuộc các hiệp định thương mại khác với hiệp định
thương mại mà bên thua kiện vi phạm. Như vậy, các biện pháp trả đũa trong cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO đã được quy định một cách chi tiết hơn, rõ ràng hơn.
Điều này tạo cơ sở cho cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động một cách
hiệu quả.
2.1.6. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã đưa ra những quy định thuận
lợi dành riêng cho các nước đang và kém phát triển
Theo quy định tại Điều 23, DSU buộc tất cả các thành viên của WTO phải tuân
thủ cơ chế giải quyết tranh chấp đối với những tranh chấp phát sinh trong khuôn khổ

các Hiệp định của WTO. Tính chất bắt buộc này đã tạo vị thế bình đẳng cho các nước
thành viên trong việc tiếp cận hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO và đảm bảo
rằng không một nước nào, kể cả các nước mạnh, có thể trốn tránh được quyền tài phán
của cơ quan giải quyết tranh chấp WTO. Quy định này đã tạo sự tin tưởng của các
nước đang phát triển đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Ngoài ra, cơ chế giải quyết tranh chấp cũng có những quy định về đối xử đặc
biệt và khác biệt dành riêng cho các nước đang phát triển trong cả giai đoạn tham vấn,
giai đoạn xét xử của Ban Hội thẩm và trong cả giai đoạn thực thi phán quyết. Trong
khi tham vấn, Điều 4.10 của DSU quy định rằng “các thành viên phải đặc biệt chú ý
đến những vấn đề cụ thể và quyền lợi của các nước thành viên là những nước đang
phát triển”. Hơn nữa, Điều 12.10 của DSU còn cho phép thời hạn tham vấn có thể kéo
9
dài thêm nếu như bên bị đơn là nước đang phát triển. Đến giai đoạn xét xử của Ban
Hội thẩm, khi một tranh chấp xảy ra giữa một thành viên phát triển và một thành viên
đang phát triển, nếu có yêu cầu của thành viên đang phát triển thì Ban Hội thẩm phải
có ít nhất một hội thẩm viên là người từ một nước thành viên đang phát triển (Điều
8.10 của DSU). Nếu như nước đang phát triển là bị đơn thì họ còn được Ban Hội thẩm
cho phép có đủ thời gian để chuẩn bị chứng cứ và lý lẽ của mình. Tiếp theo, ở giai
đoạn thực thi, DSU cho phép dành sự quan tâm đặc biệt tới các vấn đề ảnh hưởng tới
lợi ích của các nước thành viên đang phát triển (Điều 21.1của DSU). Như vậy, các vấn
đề khó khăn về kinh tế, thương mại và quyền lợi của các thành viên đang phát triển
phải được đặc biệt chú ý tới trong toàn bộ tiến trình giải quyết tranh chấp nói chung và
phán quyết của DSB nói riêng, hoặc DSB có thể kiến nghị một số giải pháp cụ thể để
các nước phát triển thực hiện, nhằm bảo đảm quyền lợi cho nước đang phát triển.
Bên cạnh đó, các nước đang phát triển cũng có thể yêu cầu thời hạn dài hơn
hoặc được trợ giúp pháp lý từ Ban thư ký. Nếu một nước đang phát triển có yêu cầu,
Ban thư ký sẽ cung cấp những chuyên gia pháp lý có năng lực từ các cơ quan của
WTO để giúp đỡ về thủ tục pháp lý và hỗ trợ nước đó trong suốt quá trình giải quyết
tranh chấp. Từ tháng 10/2002, các nước đang phát triển còn có thể nhận được sự trợ
giúp từ Trung tâm tư vấn Luật của WTO (ACWL) và Trung tâm này cũng có thể đại

diện cho các nước đang phát triển khi cần.
Những điểm mạnh kể trên cho thấy cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt
động hiệu quả hơn và các nước đang và kém phát triển đã tin tưởng hơn vào cơ chế
này. Chính vì vậy, từ khi hoạt động đến nay, so với cơ chế giải quyết tranh chấp của
GATT các nước đang phát triển đã khởi kiện nhiều hơn và đạt được thành công lớn
hơn ở WTO.
2.2. Những hạn chế
2.2.1. Thời gian giải quyết tranh chấp vẫn còn kéo dài
Trước hết, DSU có quy định rõ thời hạn cho từng giai đoạn cụ thể của quá trình
giải quyết tranh chấp. Nhưng bất chấp thời hạn đó, một quy trình giải quyết tranh chấp
đầy đủ (bao gồm cả thủ tục kháng cáo, phúc thẩm và thi hành phán quyết) vẫn có thể
kéo dài tới gần 3 năm. Chưa kể nếu thời gian biểu không được giữ đúng hay có không
có sự nhất trí giữa các bên trong quá trình thực hiện, thời gian giải quyết còn có thể
kéo dài hơn nữa. Ví dụ như: Mexico, Honduras, Guatemala, Ecuador và Mỹ kiện cộng
đồng Châu Âu (EC) về chế độ nhập khẩu chuối. Bắt đầu từ năm 1996, 5 nước bên
nguyên đơn đã đưa vụ tranh chấp ra WTO và đến tận cuối năm 1999 vụ tranh chấp
mới chính thức kết thúc. Vụ tranh chấp này đã kéo dài tới 4 năm, hơn cả thời hạn giải
quyết một vụ tranh chấp đầy đủ theo quy định.
Ngoài ra, trong thời gian giải quyết tranh chấp, các bên vẫn có thể duy trì thực
hiện những biện pháp không phù hợp với WTO. Kết quả là bên khởi kiện sẽ liên tục
phải chịu các tổn hại về kinh tế nếu thực sự bên bị kiện đã vi phạm các quy định của
10
WTO. Ngay cả trong trường hợp thắng kiện, không có một biện pháp tạm thời nào
giúp bên nguyên đơn có thể bảo vệ được lợi ích thương mại và kinh tế của họ trong
suốt quá trình giải quyết tranh chấp. Sau đó, bên nguyên đơn cũng không hề nhận
được bất kỳ khoản bồi thường nào cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu trong thời
gian bị đơn thực hiện phán quyết cũng như những chi phí tư pháp mà họ phải trả. Sự
kéo dài về mặt thời gian như vậy phần nào đã làm giảm hiệu quả của cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO.
2.2.2. Quy trình thủ tục vẫn còn tốn kém, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển


Một quy trình giải quyết tranh chấp đầy đủ kéo dài tới gần 3 năm và còn có thể
kéo dài hơn nếu như các bên không có sự nhất trí trong quá trình thực hiện. Do đó, với
một thời gian kéo dài như vậy, các nước tham gia tranh chấp sẽ phải tốn nhiều công
sức và nguồn lực tài chính nếu muốn theo đến cùng các vụ kiện. Đặc biệt đối với các
nước thành viên là nước đang phát triển, so sánh tương quan về các nguồn lực đối với
các nước phát triển, họ gặp khó khăn và tốn kém hơn nhiều. Các nước đang phát triển
hầu hết đều không có đủ nguồn nhân lực với kiến thức chuyên môn, thêm vào đó khả
năng tài chính và kinh tế còn hạn hẹp. Mặt khác, thủ tục giải quyết tranh chấp của
WTO lại rất phức tạp nên yêu cầu các nước tham gia giải quyết tranh chấp cần có năng
lực pháp lý chuyên sâu với nguồn nhân lực có kiến thức chuyên môn, có khả năng
đánh giá triển vọng về lợi ích kinh tế có thể đạt được sau các vụ tranh chấp, đồng thời
là khả năng tài chính dồi dào cần thiết cho quá trình theo kiện. Trong rất nhiều trường
hợp, các nước đang phát triển phải nhờ đến các chuyên gia ở nước phát triển tư vấn
trong quá trình tranh tụng và phải trả một khoản phí khá lớn. Ngoài các chi phí tư vấn
pháp lý thì chi phí cho quá trình điều tra hay thu thập chứng cứ cũng là một nỗi lo của
các nước đang phát triển. Điều đó chính là khó khăn lớn của các nước đang phát triển
khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, nhất là khi lợi ích kinh tế mà họ đạt
được sau một vụ tranh chấp có thể là rất thấp so với chi phí phải bỏ ra.
2.2.3. Những quy định dành riêng cho các nước đang phát triển vẫn chỉ mang tính
hình thức

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có những quy định thuận lợi dành riêng
cho các nước đang và kém phát triển, nhưng phần lớn các quy định này lại chỉ mang
tính tuyên bố. Ví dụ: theo Điều 4.10 DSU, trong khi tham vấn, các thành viên phải đặc
biệt chú ý đến những vấn đề cụ thể và quyền lợi của các thành viên là các nước đang
phát triển. Điều khó khăn đặt ra ở đây là chúng ta phải hiểu khái niệm “đặc biệt chú ý”
là như thế nào? Vì khó có thể hiểu được khái niệm này và DSU cũng không đưa ra
một giải thích cụ thể nào về tiêu chí gọi là “đặc biệt chú ý” do đó các nước đang phát
triển khi tham gia vào giải quyết tranh chấp không thể áp dụng cũng như yêu cầu các

nước phát triển làm theo những quy định này.
Các nước đang phát triển cũng nhận được sự hỗ trợ pháp lý từ Ban thư ký của
WTO. Nhưng do phải đảm bảo tính công bằng và giới hạn về nguồn lực, Ban thư ký
11
của WTO cũng không thể đứng về một bên tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra. Thêm
vào đó, Ban thư ký chỉ có thể hỗ trợ các nước đang phát triển sau khi có đơn kiện. Như
vậy, các nước đang phát triển khi tham gia vào giải quyết tranh chấp với vai trò là bị
đơn thì họ mới có lợi từ sự hỗ trợ pháp lý của Ban thư ký. Còn nếu đi kiện, họ vẫn
buộc phải chấp nhận thuê tư vấn luật của nước ngoài với giá cao. Một vấn đề nữa đối
với các nước đang phát triển là đôi khi các biện pháp trả đũa thương mại cũng là trở
ngại, và họ khó có điều kiện để sử dụng hiệu quả những biện pháp này. Quan hệ
thương mại chưa tương xứng giữa các nước đang phát triển và nước phát triển cũng
như các vấn đề về chính trị khiến cho các nước đang phát triển luôn lo ngại rằng các
biện pháp như vậy sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế vốn đã yếu ớt của họ.
Việc nêu ra những điểm mạnh và những điểm chưa mạnh trong cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO sẽ giúp cho việc vận dụng tốt hơn cơ chế này khi có tranh
chấp xảy ra. Với Việt Nam điều này là rất quan trọng.
II. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp
về thương mại hàng dệt may
1. Các tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong phạm vi của WTO
1.1. Đặc điểm về hàng dệt may và thương mại hàng dệt may
Ngay từ thời tiền sử, cái ăn cái mặc đã là những nhu cầu cơ bản không thể
thiếu của con người. Mới đầu, những nguyên liệu để may mặc chỉ là những mảnh da
thú, hoặc đan lát các thứ cây cỏ. Nhưng theo tiến trình phát triển, nguyên liệu may mặc
cũng dần phát triển theo. Đầu tiên là sợi lanh (flax), sợi len (Mésopotamia), sợi bông
(cotton), sợi tơ tằm (silk), … đều có nguồn gốc từ tự nhiên, từ cây cỏ hoặc động vật.
Đến thế kỷ 18, sự ra đời của động cơ hơi nước và sợi nhân tạo đã tạo nên một cuộc
cách mạng trong may mặc. Ngành dệt may phát triển ngày càng nhanh, những mặt
hàng thời trang dần phổ biến với mọi thành phần dân chúng. Sản phẩm của ngành dệt
may là những mặt hàng cơ bản và cần thiết cho nhiều mặt của cuộc sống, không chỉ là

quần áo, vải vóc phục vụ cho các nhu cầu hàng ngày mà còn là bao bì, các thiết bị
trong xe hơi, máy bay, … nguyên liệu cung cấp cho nhiều ngành nghề khác.
Từ năm 1949 đến năm 2005, tổng giá trị thương mại hàng dệt may của toàn
thế giới đã tăng lên một cách nhanh chóng, từ 6 tỷ USD lên 350 tỷ USD
7
. Sau cuộc
cách mạng trong may mặc, hàng dệt may trở thành động lực phát triển của thế giới
phương Tây và của các nền kinh tế mới công nghiệp hoá ở Châu Á. Có thể nói, việc
triển khai sản xuất hàng dệt may khá dễ dàng và không tốn kém, vốn đầu tư không cần
nhiều và công nghệ sử dụng đơn giản. Thêm vào đó, ngành dệt may cần nhiều lao
động do hoạt động sản xuất dệt may là hoạt động sử dụng nhiều lao động và không đòi
hỏi trình độ cao. Mức lương cạnh tranh cũng là một yếu tố rất quan trọng trong ngành
dệt may. Dệt may cũng là ngành có mức độ linh hoạt cao và dễ thay đổi, tức là có thể
7
Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thương mại, năm 2005.
12
dễ dàng được bắt đầu từ những nguồn lực nhỏ bé và dễ dàng chuyển từ nơi này sang
nơi khác.
Hàng dệt may đã trở thành mặt hàng chủ lực của các nước đang phát triển.
Đặc điểm thường thấy ở các nước này là nguồn lực tài chính yếu trong khi nguồn lao
động lại rất dồi dào và rẻ, do đó hàng dệt may là một mặt hàng rất thích hợp trong
chiến lược phát triển kinh tế của họ. Ở hầu hết các nước đang phát triển, nhờ có dệt
may, tỷ lệ đói nghèo được giảm bớt, số lượng thất nghiệp cũng giảm, lương thực tế
tăng lên, góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân. Hơn thế nữa xuất khẩu dệt may
còn giúp cho các quốc gia này thu được một lượng ngoại tệ đáng kể để phát triển các
ngành công nghiệp khác trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2. WTO và thương mại hàng dệt may
Ngay từ những năm đầu ký kết hiệp định GATT năm 1947, dệt may là một lĩnh
vực nhạy cảm, gây nhiều tranh cãi giữa các nước thành viên nhập khẩu và xuất khẩu
mặt hàng này. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, một số nước phát triển đã viện cớ cán

cân thanh toán khó khăn để áp đặt thuế suất cao, thủ tục thuế quan nặng nề và các biện
pháp hạn chế định lượng đối với nhập khẩu hàng dệt may. Những hình thức này đã đi
ngược lại nguyên tắc cơ bản về tự do hoá thương mại của GATT và gây cản trở cho sự
phát triển của hàng dệt may, mà chủ yếu là hàng bông sợi. Tuy nhiên, cùng với những
vòng đàm phán trong khuôn khổ của GATT, từ năm 1949 trở đi, các hàng rào mậu
dịch cản trở thương mại hàng dệt may đã được giảm dần để hướng tới tự do hoá ngành
công nghiệp này.
Năm 1961, chính phủ Mỹ đã đề xướng một hội nghị các nước xuất khẩu hàng
dệt trong khuôn khổ của GATT. Sau hội nghị này, Hiệp định ngắn hạn về Thương mại
quốc tế Bông sợi (STA) đã ra đời. Hiệp định này cho phép các nước xuất khẩu, đơn
phương hoặc qua thoả thuận song phương, ấn định hạn ngạch (quota) nhằm hạn chế
việc nhập khẩu khi thị trường nội địa có nguy cơ bị đổ vỡ. Hiệp định STA có thời hạn
là 1 năm.
Năm 1962, Hiệp định STA được thay thế bởi Hiệp định dài hạn về Thương mại
quốc tế Bông sợi (LTA). Theo Hiệp định này, các hạn ngạch phải được nâng cao dần ở
mức 5% mỗi năm. Hiệp định LTA có thời hạn 5 năm và tiếp tục được gia hạn vào năm
1967 và năm 1970.
Đến tháng 12/1972, Hiệp định LTA lại được thay thế bởi MFA, Hiệp định đa
sợi. Hiệp định này được áp dụng từ tháng 01/1974 cho đến hết năm 1994, khi Hiệp
định ATC ra đời và hoạt động trong khuôn khổ của WTO.
Như vậy, trong hơn 30 năm, hàng dệt may không được điều tiết bởi những quy
tắc chung của GATT mà lần lượt được điều tiết bởi ba hiệp định là STA, LTA và
MFA. Cả ba hiệp định này, ở các góc độ khác nhau, đã đặt ra cơ sở pháp lý cho chính
sách thương mại bất bình đẳng hướng về bảo hộ trong thương mại hàng dệt may.
13
Ngày 01/01/1995 Hiệp định hàng dệt may (ATC) ra đời với ý nghĩa là hiệp định đa
biên trong hệ thống các hiệp định của WTO. Hiệp định ATC đưa ra một lộ trình, một giai
đoạn chuyển tiếp để xoá bỏ chế độ hạn ngạch trong thương mại hàng dệt may. Trong
khuôn khổ WTO, Hiệp định này quy định các biện pháp chuyển tiếp để đưa thương mại
hàng dệt may vào khung pháp lý chung của WTO. Hiệp định ATC cũng đề ra một thời

hạn cụ thể để chấm dứt chế độ hạn ngạch: “Hiệp định này và tất cả các hạn chế được quy
định trong đó sẽ hết hạn vào ngày đầu tiên của tháng thứ 121 sau khi Hiệp định WTO có
hiệu lực. Vào ngày đó, lĩnh vực hàng dệt may sẽ được hoà nhập hoàn toàn vào GATT
1994. Hiệp định này sẽ không được gia hạn thêm nữa” (Điều 9 của ATC). Như vậy, kể từ
ngày 01/01/2005 hàng dệt may đã hoà nhập hoàn toàn vào GATT 1994 và được coi như
một hàng hoá bình thường, được tự do thương mại trên cơ sở bình đẳng giữa các thành
viên của WTO.
Mặc dù ATC hết hiệu lực và hàng dệt may đã được coi như một loại hàng hoá
bình thường nhưng điều đó không có nghĩa là xung quanh hàng dệt may không còn
nhiều vấn đề tranh cãi. Dệt may vẫn tiếp tục là một trong những vấn đề được đưa ra
đàm phán trong Vòng Doha. Vòng Doha được khởi động từ năm 2001 với mục tiêu tự
do hóa thương mại, bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững. Tuy nhiên, cho
đến nay, do bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề vòng Doha vẫn chưa đạt được kết quả.
1.3. Đặc điểm của các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may
trong khuôn khổ WTO
Theo số liệu mới cập nhật kể từ khi WTO chính thức hoạt động cho đến tháng
07/2007, đã có 366 vụ tranh chấp
8
giữa các nước thành viên được giải quyết theo cơ
chế của WTO, trong đó có 19 vụ tranh chấp
9
liên quan đến thương mại hàng dệt may.
Các vụ tranh chấp về thương mại hàng dệt may hầu như diễn ra ở những năm cuối của
thế kỷ trước, tính trung bình khoảng 3 vụ/năm. Từ năm 2000 trở lại đây thì số lượng
tranh chấp khiêm tốn hơn và đặc biệt là WTO chưa thống kê được tranh chấp nào liên
quan đến hàng dệt may từ thời kỳ hậu hạn ngạch.
Trong số 19 vụ tranh chấp về hàng dệt may nêu trên, các nước đang phát triển
chiếm khoảng 2/3 tổng số lần đi kiện và tập trung chính vào những nước có kim ngạch
xuất khẩu dệt may lớn như Ấn Độ, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó, Ấn Độ là một
quốc gia tích cực sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ lợi ích của

mình. Nếu chỉ tính riêng những tranh chấp trong lĩnh vực hàng dệt may, ngoài việc
tham gia với tư cách bên thứ ba trong nhiều tranh chấp, Ấn Độ đã khởi kiện tới 6 vụ
trên tổng số 19 vụ, chiếm khoảng 32%. Trong số các nước phát triển lớn trên thế giới,
Mỹ là nước tham gia nhiều nhất vào các tranh chấp dệt may mà chủ yếu là với tư cách
bị đơn (7 vụ) và chỉ đi kiện có 3 lần. Ngoài ra, cộng đồng Châu Âu (EC) cũng đã là
nguyên đơn của 3 vụ và tham gia với tư cách bị đơn của 2 vụ đối với các tranh chấp về
dệt may trong thời gian qua.
8
/>9
/>14
Cũng theo số liệu của WTO, có đến trên 60% các tranh chấp trong thương mại
hàng dệt may được giải quyết bằng con đường tham vấn. Trong quá trình tham vấn
song phương, hai bên đã tìm được tiếng nói chung hoặc sau một thời gian áp dụng các
biện pháp bảo hộ, nước nhập khẩu đã chủ động huỷ bỏ các biện pháp đó nên tranh
chấp được giải quyết mà không cần đưa ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.
Đối với các tranh chấp còn lại, có đến 6/7 vụ trải qua tất cả các giai đoạn của một quá
trình giải quyết tranh chấp bao gồm tham vấn, xét xử ở Ban Hội thẩm và kháng cáo lên
Cơ quan Phúc thẩm.
Có thể nói, sau hơn 11 năm, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vẫn được
công nhận là một công cụ đắc lực trong việc điều hoà các mối quan hệ thương mại
quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng giữa các thành viên của
WTO. Đối với các tranh chấp được DSB giải quyết, hầu hết các nước thua kiện đã
thực thi phán quyết của DSB hoặc nhiều đề xuất đã được DSB thông qua. Điều đó đã
tạo sự tin tưởng của các nước thành viên WTO vào cơ chế này.
Các tranh chấp về hàng dệt may có nội dung tương đối đa dạng. Phần lớn các
tranh chấp trong thời gian qua có liên quan đến các điều khoản của ATC, với số lượng
khoảng 12 vụ
10
tương đương 63% tổng số tranh chấp. Ngoài ra còn có nhiều tranh
chấp về các vấn đề khác như: quy tắc xuất xứ, chống bán phá giá… Vì vậy, khi nghiên

cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với thương mại hàng dệt may,
không thể không phân tích Hiệp định ATC và các quy định của ATC liên quan đến
giải quyết tranh chấp hàng dệt may.
2. Các quy định trong Hiệp định ATC về giải quyết tranh chấp liên quan đến
thương mại hàng dệt may
2.1. Hiệp định ATC
Hiệp định ATC gồm 9 điều và 1 phụ lục, điều chỉnh một phạm vi rộng các mặt
hàng dệt may gồm sợi, vải, thành phẩm (made-up articles) và quần áo, tức là hầu hết
ngành dệt may, chỉ loại trừ các nguyên liệu thô (xem phụ lục số 4). Nội dung chính
của Hiệp định này là đặt ra một lịch trình sáp nhập dần dần các mặt hàng trên vào
khuôn khổ điều tiết của Hiệp định GATT năm 1994 (Điều 2 của ATC). Nói cách khác,
mục đích của ATC là từng bước loại bỏ các quy định bảo hộ của các nước đối với
thương mại hàng dệt may, đưa dệt may vào cơ chế tự do hoá hoàn toàn.
Lịch trình tự do hóa hàng dệt may này được chia thành 4 giai đoạn. Giai đoạn
thứ nhất từ 1995 -1998; giai đoạn thứ hai từ 1998 – 2002; giai đoạn thứ ba từ 2002 -
2005 và năm 2005. Sau khoảng thời gian 10 năm (từ ngày 01/01/1995 đến ngày
01/01/2005), sẽ không còn nước nào được sử dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng
dệt may, trừ khi họ có thể chứng minh rằng những biện pháp này phù hợp với những
quy định của Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Ngoài ra, trong quá trình chuyển đổi
xoá bỏ hạn ngạch, ATC cũng cho phép các nước nhập khẩu được áp dụng các biện
10
/>15
pháp tự vệ chuyển tiếp đặc định (specific transitional safeguard) hay là các biện pháp
phòng chống, nếu như các ngành sản xuất nội địa của họ bị tổn hại nghiêm trọng.
Để lịch trình hoà nhập hàng dệt may vào khuôn khổ pháp lý của WTO được
thực hiện một cách nghiêm túc, Hiệp định cũng quy định thành lập một Cơ quan giám
sát Hàng dệt (xem Điều 8 ATC tại phụ lục số 4). Cơ quan giám sát này bao gồm một
chủ tịch và mười uỷ viên. Mục đích chính của cơ quan này là giám sát việc thi hành
Hiệp định ATC và xem xét tất cả các biện pháp phòng chống được nước thành viên sử
dụng và sự phù hợp của chúng với Hiệp định, cũng như tiến hành các hành động được

yêu cầu theo yêu cầu riêng của Hiệp định này.
Hiệp định ATC ra đời là một thắng lợi quan trọng đối với các nước đang phát
triển, theo đó, hàng dệt may vốn là thế mạnh của các nước này sẽ không còn bị các
nước phát triển áp đặt cơ chế quota. Nó đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
trình tự do hóa thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ luật chơi chung của WTO.
2.2. Giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiệp định ATC
Như đã phân tích ở trên, ATC đã thành lập Cơ quan giám sát hàng dệt may
(TMB) với chức năng giám sát việc các nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp tự vệ
trong thời gian chuyển tiếp theo ATC. Theo đó, nước nhập khẩu, nếu thấy cần bảo vệ
thị trường nội địa của mình khi ngành công nghiệp của họ bị tổn hại bởi việc tăng
nhanh hàng nhập khẩu từ nước khác, sẽ yêu cầu nước xuất khẩu hội ý với mình. Từ
đó, hai bên có thể thoả thuận một biện pháp giới hạn nhập khẩu. Thoả thuận này cũng
như yêu cầu hội ý đều phải được thông báo lên TMB. Nếu không đi đến thoả thuận,
nước nhập khẩu có thể trình lên TMB một đề nghị giới hạn đơn phương. TMB có 30
ngày để điều tra và đưa ra khuyến cáo. Nếu hai bên vẫn không đồng ý thì có thể kiện
nhau trước DSB.
Như vậy, những tranh chấp liên quan đến Hiệp định ATC thường được giải
quyết trên cơ sở song phương hoặc giải quyết tại TMB trước khi đưa lên Cơ quan giải
quyết tranh chấp của WTO. Tính từ khi cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời
đến nay, các tranh chấp về hàng dệt may bao gồm 19 vụ thì có đến 12 vụ
11
liên quan
đến ATC. Các vụ này hầu hết đều được đưa lên giải quyết tại TMB trước khi kiện lên
DSB, chỉ trừ một vụ duy nhất là tranh chấp liên quan đến các biện pháp tự vệ của Mỹ
đối với quần áo lót sản xuất tại Costa Rica. Tranh chấp này đã được trực tiếp đưa lên
Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO mà không đưa ra TMB. Nội dung của các
tranh chấp liên quan đến ATC cũng khá phong phú, nhưng chủ yếu vẫn xoay quanh
việc áp dụng điều khoản tự vệ trong ATC (trong 12 vụ kể trên thì có 7 vụ là về thực thi
điều khoản tự vệ ). Điều này cho thấy việc vận dụng các quy định có tính pháp lý của
một biện pháp bảo hộ là rất phức tạp và gây ra nhiều tranh cãi giữa nước nhập khẩu,

nước áp đặt các biện pháp này, và nước xuất khẩu, nước bị áp đặt. Vì vậy, để có thể
11
/>16
theo đuổi các vụ tranh chấp liên quan đến hàng dệt may một cách thành công, điều
quan trọng là phải biết cách vận dụng hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
3. Vì sao phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết
tranh chấp về thương mại hàng dệt may?
3.1. Vì Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO
Theo quy định của DSU, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
để giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên là có tính bắt buộc. DSU không cho
phép các nước thành viên sử dụng các diễn đàn đa phương khác để giải quyết tranh
chấp có liên quan đến WTO và cũng cấm việc các quốc gia này hành động dựa trên
các quyết định đơn phương. Do đó, dù muốn hay không, các nước thành viên vẫn phải
chấp nhận việc đưa các tranh chấp nói chung và tranh chấp về hàng dệt may của mình
nói riêng ra giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Việt Nam là thành
viên của WTO, do đó Việt Nam buộc phải tuân theo quy định này. Quy định này vừa
là quyền lợi vừa là nghĩa vụ. Tuy nhiên, để có thể vận dụng một cách thành công cần
có sự hiểu biết đầy đủ về cơ chế này. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
là yêu cầu có tính khách quan xuất phát từ chính quyền lợi của Việt Nam.
3.2. Vì tranh chấp về hàng dệt may đã nằm trong phạm vi điều chỉnh của WTO
Sau khi Hiệp định ATC hết hiệu lực, dệt may được coi như một mặt hàng thông
thường thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO. Vì vậy, tranh chấp liên quan đến hàng dệt
may sẽ được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Ngoài ra, dệt may
là thế mạnh của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong thời kỳ hậu hạn
ngạch, những nội dung tranh chấp trong thương mại hàng dệt may sẽ còn đa dạng và
phức tạp hơn vì các nước nhập khẩu sẽ sử dụng các rào cản tinh vi hơn. Điều này đòi
hỏi Việt Nam và các nước đang phát triển phải chú ý khi sử dụng cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Với những yếu tố phức tạp đan
xen nhau như thế, mâu thuẫn xảy ra về quyền lợi giữa các nước thành viên WTO trong
thương mại hàng dệt may là không thể tránh khỏi. Do đó, việc sử dụng cơ chế giải

quyết tranh chấp của WTO để giải quyết các mâu thuẫn này cũng là điều tất yếu.
3.3. Vì cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO góp phần tích cực trong việc
thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế dựa trên tự do hoá thương mại và sự bình đẳng
giữa các nước giàu và các nước nghèo
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp giải quyết tranh chấp giữa các
nước thành viên theo một cách hoà bình và mang tính xây dựng. Khi các nước có mối
quan hệ kinh tế với nhau, sự mâu thuẫn về mặt lợi ích là không thể tránh khỏi. Nếu để
cho sự mâu thuẫn này phát triển một cách tự do sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng. Đặc biệt trong thời kỳ toàn cầu hoá như hiện nay, các mối quan hệ bang giao
giữa các nước không chỉ đơn thuần là các mối quan hệ song phương mà là một tổng
thể các mối quan hệ đa phương hết sức phức tạp. Có thể nói, chính WTO đã tạo nên
một hệ thống thương mại đa phương toàn cầu theo nguyên tắc đảm bảo tự do hoá và
17

×