Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp tại MBBank trong giai đoạn 2005 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.65 KB, 85 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
PHẦN MỞ ĐẦU
Hoạt động sinh lời của các ngân hàng thương mại chủ yếu từ hoạt động
tín dụng. Thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại thu được
trên 70% lợi nhuận. Một ngân hàng thương mại muốn phát triển bền vững thì
cần phải kiểm soát được rủi ro tín dụng hay nói cách khác là phải nâng cao
được chất lượng.
Trong hoạt động của Doanh nghiệp xây lắp thì nhu cầu vốn lưu động
cho sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn. Các ngân hàng thương mại Việt
Nam thường tài trợ vốn lưu động dưới các hình thức khác nhau cho loại hình
doanh nghiệp này thì lên đến 80% tổng chi phí. Như vậy ngân hàng đã trở
thành nhà tài trợ vốn chủ yếu của DNXL
Trong thời gian qua, ngân hàng TMCP Quân đội không ngừng mở rộng
quy mô và hoạt động, phục vụ đông đảo trong đó có các doanh nghiệp xây
lắp. Dư nợ của Doanh nghiệp xây lắp chiếm tỷ trọng lớn (trên 30% tổng dư
nợ), thu được từ việc cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp là không ít, đồng
nghĩa với nớ là rủi ro về tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp là cao, nếu
không có biện pháp quản lý hữu hiệu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đến chất
lượng tín dụng của toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Quân đội. Trên cơ sở đó,
em đã chọn đề tài :''Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
đối với doanh nghiệp xây lắp tại MBBank trong giai đoạn 2005 - 2007''.
1
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với
sự ra đời tồn tại và phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tín
dụng ra đời là một yếu tố khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội.


Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến nay người ta
vẫn chưa thống nhất về tín dụng. Khái niệm " tín dụng '' có nguồn gốc từ thuật
ngữ La tinh credittum có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Hiểu một cách
nôm na thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai bên (Bên cho vay và bên vay).
Ngày nay, sự phát triển và hiện đại hoá của nền kinh tế thị trường đòi
hỏi các quan hệ và hình thức tín dụng cũng phát triển đa dạng và phong phú
phù hợp với nền kinh tế. Trong đó tín dụng ngân hàng là hình thức chủ yếu
nhất, nó đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế rất kịp thời và linh hoạt.
Theo từ điển thuật ngữ tín dụng có đề cập đến khái niệm '' tín dụng
Ngân hàng'': Đó là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và TCTD khác với
doanh nghiệp, cá nhân. Trong quan hệ tín dụng này, ngân hàng vừa là người
đi vay, vừa là người cho vay. Khác với tín dụng Thương mại, tín dụng ngân
hàng không cung cấp tín dụng dưới hình thức hàng hoá.
Luật Các Tổ chức Tín dụng đã được sửa đổi bổ sung năm 2004 quy
định cụ thể về hoạt động tín dụng và cấp tín dụng của TCTD như sau: " Hoạt
động tín dụng là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động
để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách
hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ
2
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
khác."
Như vậy, Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín
dụng. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các
ngân hàng, các TCTD với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo
nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là một loại hình tín dụng trong hệ thống tín dụng
của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng cũng mang những đặc điểm vốn có của
tổ chức tín dụng nói chung. Tuy nhiên do được tổ chức thực hiện bởi các ngân

hàng thương mại hoạt động theo quy luật thị trường nên tín dụng ngân hàng
có những đặc điểm đặc trưng, cụ thể như sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong
những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho
vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và
cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây,
cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định
chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh
của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực ( nhà ở, văn phòng
làm việc, máy móc - thiết bị).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sỏ để tin rằng người đi vay
sẽ trả đúng han. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong
thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở
đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm,
chính quan điểm này đã lma ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cần lưu ý
3
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
rằng các bậc tiền bối đã bằng từ ''credo'' hoặc ''tín'' để đặt tên cho ''credit'' hoặc
tín dụng không phải là vấn đề ngẫu nhiên.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là người đi vay phải trả thêm lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được
nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay
nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (Lãi suất thực = Lãi suất danh
nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau, nên trong một trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp
hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan

hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…thực chất là lệnh phiếu
(promissory note), trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên
cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường
Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có phạm vi hoạt động
rộng rãi và đa dạng, việc phân loạ chỉ có tính tương đối. Trên cơ sở các căn
cứ phân loại khác nhau, có hình thức tín dụng khác nhau.
- Theo thời gian: Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với
ngân hàng vì thời gian mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng, khả
năng hoàn trả của khách hàng cũng như lãi suất mua bán vốn. Theo thời gian
tín dụng được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước
Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
4
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong
nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy
cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn
hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là
những doanh nghiệp mới thành lập.
+ Tín dụng trung hạn: Là khoản vay có thời hạn trên 12 tháng và không
quá 60 tháng. Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố
định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ
và xây dựng mới những công trình loại nhỏ thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn
hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển

sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng
cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ của ngân hàng
+ Tín dụng dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 60 tháng. Mục
đích là sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí
nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân
bay ), cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn.
- Theo mục đích sử dụng tiền vay: Căn cứ vào tiêu thức này, người ta
chia tín dụng thành 2 loại:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các
nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông
hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng như: Mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá bền chắc
như tủ lạnh, điều hoà, máy giặt
5
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
- Theo tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép
ngân hàng có được nguồn thu nợ thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó
khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc
không đủ.
+ Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy
tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Cầm kết
đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình
đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ
cho ngân hàng.
+ Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách
hàng uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài
chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương
đối nhỏ so với vốn của người đi vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của
Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho

vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho
vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán
hàng cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng
phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng
của tài sản đảm bảo(quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả
năng tài chính của người thứ ba ), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có
khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
- Theo tính chất của việc cấp vốn: gồm cho vay bổ sung vốn và cho vay
dựa trên tài sản
♦ Cho vay bổ sung vốn: Là việc cho vay mang tính chất bổ sung vốn
cho khách hàng khi thiếu vốn tạm thời.
6
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
♦ Cho vay trên tài sản: Là loại cho vay mà ngân hàng dựa vào một loại
tài sản của khách hàng, cho vay trên tài sản bao gồm:
+ Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ
quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người
bán ( hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền
người mua( hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu
trước hạn. Sau đây là sơ đồ luân chuyển thương phiếu.
Người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong hạn thanh toán
có thể nhượng lại cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho
khách hàng một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng
phí. Khi các chứng từ này đến hạn thanh toán người thụ lệnh hoặc người phát
hành lệnh có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Cần lưu ý, trong nghiệp
vụ chiết khấu thương phiếu người được cấp tín dụng và người chịu trách
nhiệm thanh toán chính cho ngân hàng là hai người khác nhau.
+ Bảo lãnh: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi

khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Mặc dù không phải
xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để
thu lợi.
Ngân hàng
7
Người bán
Người mua
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
+ Cho thuê tài chính: Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với
thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản
cho thuê cộng lãi(thời hạn khoảng 80% - 90% đời sống kinh tế của tài sản).
Hết hạn,khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
+ Bao thanh toán: Là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho
bên bán hàng thông qua việc mua bán lại các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong
hợp đồng mua bán hàng.
- Theo thành phần kinh tế:
+ Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh: Là quan hệ tín dụng giữa
ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: Tổ sản xuất,
Hợp tác xã, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân, Hộ cá
thể
+ Tín dụng đối với kinh tế quốc doanh: Là quan hệ tín dụng của ngân
hàng với các DNNN.
- Theo đặc điểm luân chuyển vốn:
+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng hình thành vốn
lưu động của tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu
hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hoá, cho
vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết
khấu kỳ phiếu.
+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được hình thành tài sản cố

định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.
- Theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên
cứu mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10
thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục
8
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh chứng khoán. Cách
phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các
khoản mục tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
+ Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
+ Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành
mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm,
khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời
hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài
sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì
yên giám sát.
1.2. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt
động kinh doanh thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ làm ra là điều
tất yếu.Trong ba yếu tố của hàng hoá và dịch vụ lần lượt là: Chất lượng, giá
cả và số lượng có mối quan hệ khăng khít đan xen nhau thì chất lượng là yếu
tố quan trọng nhất.
Các nhà kinh tế, nhà kinh doanh đã nói đến chất lượng bằng nhiều cách
khác nhau: ''Chất lượng là sự phù hợp với mục đích và sử dụng'': là '' một
trình độ dự kiến về độ đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với

thị trường''. Theo hiệp hội tiêu chuẩn hoá Pháp (TC NCF-104) thì ''Chất lượng
là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của người
sử dụng. Chất lượng sản phẩm được hiểu là toàn bộ tính năng của sản phẩm
phù hợp với những điều kiện quy định và nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của
9
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
xã hội. Nâng câo chất lượng sản phẩm là một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất của các doanh nghiệp. Vấn đề chất lượng sản phẩm có ý nghĩa kinh
tế quốc dân to lớn. Đặc biệt hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt
động chứa đựng nhiều rủi ro thì vấn đề chất lượng lại càng cần thiết được đặt
ra.
Như vậy ta có thể hiểu: '' Chất lượng tín dụng là vốn vay của ngân
hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra
một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả cả gốc và lãi vay ngân hàng đúng hạn,
vừa trang trải các chi phí và có lợi nhuậ ''.
Qua khái niệm về chất lượng tín dụng có thể thấy, khi xem xét chất
lượng tín dụng cần được xem xét dưới 3 giác độ chính: Nền kinh tế, người đi
vay, người cho vay.
Thứ nhất, dưới giác độ nền kinh tế thì chất lượng tín dụng được nâng
cao phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và Ngân hàng
có hiệu quả, thu được lợi nhuận góp phần tăng trưởng kinh tế, khai thác tối ưu
các nguồn lực, tăng thu nhập, giải quyết công việc làm ăn, tăng sản phảm cho
xã hội, nâng cao mức sống dân cư, khai thác hiệu quả những khả năng tiềm ẩn
của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, thu hút tối đa
nguồn vốn nhàn rỗi phục vụ cho phát triển kinh tế.
Thứ hai, dưới giác độ là người đi vay (khách hàng) thì khoản tín dụng
có chất lượng là phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng, với lãi
suất và kỳ hạn vay vốn hợp lý, thủ tục đơn giản thuận tiện, thu hút được
khách hàng nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ đúng nguyên tắc và quy định của tín

dụng.
Thứ ba, dưới giác độ là người cho vay (Ngân hàng):
10
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
+ Vốn cho vay ra phải người đi vay hoàn trả cả gốc, lãi đủ và đúng hạn.
Điều này thể hiện tính chất đặc trưng của tín dụng phân biệt so với cấp phát
ngân sách.
+ Vốn cho vay ra phải được người đi vay sử dụng hợp pháp và đúng
mục đích, đối tượng được đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế tài chính và hiệu
quả kinh tế xã hội.
+ Chất lượng tín dụng là hoạt động tín dụng đạt được lợi nhuận cao,
khách hàng thoả mãn với dịch vụ ngân hàng cung cấp, từ đó ngân hàng có
điều kiện để mở rộng quy mô hoạt động, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng.
1.2.2. Một số chỉ tiêu phân tích và đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng
Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng, các cơ quan quản lý, các
nhà quản lý ngân hàng, các cán bộ thanh tra kiểm soát khi đánh giá chất lượng
tín dụng ngân hàng đã sử dụng rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau. Nhìn chung,
khi đánh giá chất lượng tín dụng, người ta thường dùng các chỉ tiêu được xếp
vào hai nhóm: Nhóm chỉ tiêu mang tính định tính và nhóm chỉ tiêu mang tính
định lượng.
♦Các chỉ tiêu định tính:
Chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại là một hệ thống các
biện pháp liên quan đến việc khuyến trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để
đạt mục tiêu đã được hoạch định của ngân hàng thương mại đó và hạn chế rủi
ro, bảo đảm an toàn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng.
Nội dung của chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại thể hiện
qua các điểm sau đây:
+ Chính sách khách hàng: Khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất
đa dạng, từ doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước, cá nhân
tiêu dùng, các ngân hàng, các công ty tài chính…Tuy nhiên luật pháp cũng

cấm hoặc hạn chế tài trợ đối với một số đối tượng nhất định.
11
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Người đứng tên vay cho một tập thể phải được sự uỷ quyền của cả tập
thể.
Cá nhân vay phải là người đã đến tuổi thành niên. Người vay phải được
sự uỷ quyền của cả tập thể.
Cá nhân vay phải là người đã đến tuổi thành niên. Người đi vay phải
ghi rõ vay để làm gì. Ngân hàng được quyền chấm dứt quan hệ tín dụng và
thu hồi nợ nếu phát hiện người đi vay sử dụng vốn sai mục đích đã đăng ký
ban đầu mà không được phép của ngân hàng.
Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng,
khách hàng khác. Loại khách hàng truyền thống và quan trọng thường được
hưởng chính sách ưu đãi của ngân hàng thương mại. Đây là nội dung có liên
quan đến chính sách marketing nên thường được các ngân hàng cân nhắc và
đưa ra cho khách hàng biết.
+ Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng: Ngân hàng cam kết tài trợ
cho khách hàng (cho vay, bảo lãnh, hoặc cho thuê…) với món tiền hoặc hạn
mức nhất định. Số lượng tài trợ có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời
gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. Ngân hàng có thể tài
trợ tối đa bằng nhu cầu của khách và phù hợp các điều luật ( hoặc các qui
định) dựa trên các tính toán của ngân hàng về rủi ro và sinh lời. Nhìn chung
ngân hàng rất quan tâm tới vốn sở hữu của khách hàng và ít muốn tài trợ
trong trường hợp các khoản nợ lớn hơn vốn chủ sở hữu. Ngoài các giới hạn
do luật quy định, mỗi ngân hàng còn có quy định riêng về qui mô và các giới
hạn. Ví dụ qui mô cho vay tối đa của giám đốc khu vực hoặc chi nhánh; quy
mô cho vay dựa trên giá trị vật đảm bảo; qui mô tối đa phải đảm bảo kết hợp
tính sinh lời với mức rủi ro có thể chấp nhận của mỗi khoản vay. Chính sách
này còn được qui định cho từng thời kỳ trong năm, có tính đến quy mô và
tính chất của nguồn vốn của ngân hàng.

12
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
+ Lãi suầt và phí tín dụng: Ngân hàng có các mức lãi suất tín dụng khác
nhau tuỳ theo kỳ hạn (ngắn, trung và dài hạn), tuỳ theo các loại tiền và thậm
chí tuỳ theo loại khách hàng (khách hàng quen, hoặc khách hàng vay lớn có
thể có lãi suất lớn). Ngân hàng khi thoả thuận về lãi suất tín dụng phải tính
đến rủi ro, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh
khung lãi suất định trước, ngân hàng còn cung cấp các lãi suất thoả thuận đối
với từng khách hàng cụ thể. Lãi suất có thể cố định trong suốt kỳ hạn tín dụng
( gọi là lãi suất cố định), hoặc biến đổi tuỳ theo thay đổi của lãi suất tham
khảo hoặc của chỉ số làm cơ sở điều chỉnh lãi suất (gọi là lãi suất thả nổi),
hoặc kết hợp cố định có điều chỉnh sau một khoảng thời gian xác định (gọi là
lãi suất hỗn hợp). Lãi suất tín dụng có thể bị giới hạn bởi lãi trần, bị tác động
bởi lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng Nhà nước qui định, hoặc lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất tín dụng do Ban giám đốc ngân hàng thông qua và cần được
phổ biến đến mọi cán bộ tín dụng, bao gồm lãi suất cơ bản và lãi suất bình
quân đối với các kì hạn, các ngành và lĩnh vực chủ yếu. Chính sách này cần
khuyến khích tính linh hoạt, đa dạng trong việc đặt giá trên cơ sở đảm bảo
khả năng sinh lời cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng: Nhiều ngân
hàng đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt, cho phép cán bộ tín dụng được thay
đổi trong giới hạn nhất định, hoặc cho phép khách hàng được chọn hình thức
của lãi suất…Chính sách lãi suất cần chỉ rõ các bộ phận cơ bản cấu thành nên
lãi suất tín dụng như lãi suất nguồn, chi phí khác, rủi ro, thuế và tỷ lệ lợi
nhuận tối thiểu…và các nhân tố chính tác động đến các bộ phận đó.
+ Thời gian tín dụng và kì hạn nợ: Thời hạn tín dụng có thể là ngắn
hạn, trung hạn hoặc dài hạn. Thời hạn tín dụng được tính từ lúc khoản tiền
đầu tiên phát ra đến lúc khách hàng hoàn trả hết vốn và lãi theo hợp đồng cam
kết. Ngân hàng thường xác định rõ kì hạn tín dụng trong hợp đồng như tài trợ
13

Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
trong 6 tháng, 9 tháng, 2 năm, 15 năm…tuỳ theo chu kì sản xuất kinh doanh
sau khi đã thoả thuận với khách hàng. Cũng có trường hợp thời hạn không xác
định không xác định cụ thể trước mà tuỳ theo mức luân chuyển của vật tư
hàng hoá là đối tượng cho vay của ngân hàng. Đối với phần lớn các khoản tài
trợ trung và dài hạn, thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư
(thời gian ngân hàng giải ngân theo tiến độ xây dựng), thời gian ân hạn (thời
gian chưa phải trả gốc), thời gian trả nợ. Ví dụ, cho vay trong 6 năm, giải
ngân trong 2 năm, thu nợ bắt đầu từ năm thứ 4, như vậy thời gian ân hạn là 1
năm. Một số khoản tài trợ các thời gian trên có thể đan xen với nhau. Nhiều
khoản tài trợ, ngân hàng chia nhỏ thời gian trả nợ thành năm, thu nợ 2 lần vào
cuối mỗi năm, vậy kì hạn nợ thứ nhất là 1 năm, kì hạn nợ thứ hai là 1 năm.
Các giới hạn về thời gian luôn được các nhà quản lý ngân hàng chú ý
bởi vì kì hạn liên quan đến thanh khoản và rủi ro ngân hàng cũng như chu kì
kinh doanh của người vay. Trong chính sách tín dụng, ngân hàng cần xác định
rõ, ngân hàng sẵn sàng cung ứng tín dụng với thời gian như thế nào?. Bài toán
về thời gian phải giải quyết cho ngân hàng vay quyết định và thời hạn tài trợ
(xuất phát từ yêu cầu của người vay do đặc điểm luân chuyển vốn và qui mô
thu nhập quyết định). Từ đó ngân hàng xác định kì hạn cụ thể đảm bảo cân
bằng kì hạn trung bình. Ngân hàng thường dựa trên kì hạn của nguồn để quyết
định chính sách kì hạn cho vay nếu khả năng tìm kiếm nguồn và chuyển hoán
kì hạn nguồn của ngân hàng không cao. Việc chuyển hoán kì hạn nguồn sẽ
tiềm ẩn rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất bởi vì nó tạo ra khe hở lãi suất
(nguồn nhạy cảm lớn hơn tài sản nhạy cảm). Nếu ngân hàng có khả năng
chuyển hoán nguồn và huy động nguồn trung và dài hạn tốt, chinh sách thời
hạn tín dụng và kì hạn nợ nghiêng về đáp ứng kì hạn của người vay.
+ Các khoản đảm bảo: Ngân hàng dựa trên uy tín của khách hàng.
Trong trường hợp khách hàng truyền thống, có uy tín, ngân hàng cho vay
14
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân

không cần ký hợp đồng đảm bảo. Trong những trường hợp độ an toàn của
người vay không chắc chắn, ngân hàng đòi hợp đồng đảm bảo. Các đảm bảo
của khách hàng nhằm hạn chế bớt thiệt hại cho ngân hàng khi khách hàng có
khó khăn không trả được nợ. Đảm bảo có thể bằng phương pháp cầm cố hoặc
thế chấp. Các đảm bảo thường là giấy tờ có giá, hàng hoá trong kho, nhà cửa,
thiết bị, hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Chính sách đảm bảo gồm các qui
định về các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, tỷ lệ phần trăm cho vay
trên đảm bảo, đánh giá và quản lý đảm bảo…Các ngân hàng thường cung cấp
cho khách hàng danh mục các đảm bảo được ngân hàng chấp nhận cũng như
các trường hợp vay cần có đảm bảo.
Ngân hàng chỉ chấp nhận các tài sản có khả năng bán được làm đảm
bảo. Các tài sản thuộc sở hữu công, kém, mất phẩm chất hoặc phi pháp đều bị
loại khỏi đảm bảo. Có loại đảm bảo (thường là bất động sản, máy móc, trang,
thiết bị, đồ dùng lâu bền) ngân hàng vẫn cho người vay được quyền sử dụng
song phải cam kết giữ nguyên hiện trạng, hoặc sử dụng đúng mục đích đã
thoả thuận với ngân hàng. Có loại đảm bảo (thường là các hàng hoá) bị ngân
hàng phong toả, hoặc kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng. Để đề phòng các
trường hợp bất trắc xảy ra đối với đảm bảo, ngân hàng thường xuyên yêu cầu
người vay phải mua bảo hiểm tài sản. Các hợp đồngg bảo lãnh cũng được
xem xét cẩn thận. Uy tín, khả năng trả nợ, tài sản mang làm vật đảm bảo của
người bảo lãnh là những nội dung phải xác định rõ.
Định giá vật đảm bảo giúp cho ngân hàng đưa ra mức phán quyết tín
dụng thích hợp. Thông thường ngân hàng chỉ cho vay với một giới hạn thấp
hơn giá trị thị trường của đảm bảo, tỷ lệ bao nhiêu là tuỳ thuộc vào khả năng
bán và khả năng thay đổi giá trị thị trường của vật đảm bảo. Trong một số
trường hợp ngân hàng xác định khả năng tổn thất có thể xảy ra để xác định
15
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
giá trị đảm bảo. Các đảm bảo này có thể chỉ là một phần giá trị của khoản tài
trợ ví dụ như kí quỹ, số dư bù…

+ Điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán: Ngân hàng có thể giải
ngân một lần hoặc nhiều lần tuỳ đối tượng. Để tiện tài trợ được sử dụng đúng
mục đích, ngân hàng thường giải ngân gắn liền với một số điều kiện nhất định
như các chứng từ nhập hàng, hoặc biên bản nghiệm thu công trình từng phần
của bên A, hoặc món nợ trước đã trả… Ví dụ, hợp đồng kí cho vay 300 triệu
trong thời gian 9 tháng để thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Điều kiện giải
ngân là hàng nhập về đến đâu cho vay đến đó (kèm chứng từ), hoặc trả xong
khoản vay đợt trước mới cấp tiền đợt sau. Điều kiện giải ngân cho phép ngân
hàng thực hiện kiểm soát trong khi cho vay, giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Điều kiện thanh toán bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng có
thể yêu cầu thanh toán cả gốc và lãi một lần khi đáo hạn (thường áp dụng
trong cho vay ngắn hạn). Các khoản cho vay trung và dài hạn thường được
yều cầu trả gốc và lãi thành nhiều kì, trả vào các đầu năm hoặc giữa năm, gốc
và lãi được tính riêng hoặc tính chung thành khoản trả đều (niên kim hàng
năm). Nhìn chung việc hoàn trả đều lấy từ các khoản thu trong tương lai.
Ngân hàng cần có chính sách chi tiết về các khoản thu, nguồn thu, phương
thức thanh toán.
+ Chính sách đối với các tài sản có vấn đề: Các tài sản có vấn đề bao
gồm các khoản nợ xấu (đã quá hạn, hoặc khó đòi, hoặc không đòi được) và
các tài sản có biểu hiện đáng ngờ. Chính sách đồi với các tài sản có vấn đề
gồm qui định mức rủi ro, các yếu tố cấu thành khoản tín dụng có vấn đề, các
mức độ ''xấu'' của khoản nợ, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai
thác. Do hoạt động của ngân hàng luôn gắn với rủi ro, mức rủi ro có thể chấp
nhận được cần được hoạch định cho từng nhóm khách hàng, từng ngành hoặc
vùng. Đây là điều kiện để ngân hàng xây dựng chính sách cho vay cá biệt.
16
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Chính sách giải quyết nợ xấu liên quan đến nhiều bên: Khách hàng, ngân
hàng, cán bộ ngân hàng, toà án, chính quyền địa phương…Nhiều ngân hàng
thành lập bộ phận chuyên trách giải quyết các tài sản có vấn đề.

Qui trình tín dụng:Hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nửa thế kỷ
qua, đặc biệt là từ những năm thập niên 1970 trở lại đây, đã có rất nhiều thay
đổi. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, kinh
doanh ngân hàng đã có những bước phát triển mới. Với phương pháp công
nghệ hiện đại, ngân hàng đã tiếp cận các khách hàng của mình với chi phí,
giao dịch thấp và cung cấp được nhiều loại sản phẩm và dịch vụ tài chính hơn
so với trước. Tuy nhiên sự mở rộng hoạt động luôn tiềm ẩn những rủi ro, vì
vậy cần phải có các biện pháp để hạn chế và kiểm soát rủi ro. Một trong
những biện pháp đó là thiết lập một qui trình tín dụng chặt chẽ để hướng dẫn
các nhân viện tín dụng và các bộ phận có liên quan thực hành việc cho vay
nhằm thực hiện đạt được hiệu quả cao nhất.
Qui trình tín dụng nếu phân tích ý nghĩa các từ cấu thành thì: Qui - là
những qui định, những nguyên tắc; Trình - là trình tự. Như vậy, qui trình là
quy định các bước thực hiện để đạt được những mục tiêu đã được hoạch
định.
Qui trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, qui định của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình
tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm
dứt quan hệ tín dụng. Đây là quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính
chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và
gắn bó với nhau.
Ngày nay, các ngân hàng và các định chế cho vay khác đều thiết lập
các qui trình tín dụng. Về nguyên tắc, các qui trình tín dụng của các ngân
hàng có các nội dung cơ bản tương tự nhau, tuy nhiên nội dung chi tiết lại có
17
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
nhiều khác biệt. Điều này phụ thuộc vào qui mô của ngân hàng, cấu trúc các
loại cho vay, năng lực của đội ngũ nhân sự, mức độ ứng dụng công nghệ tin
học. Việc xây dựng các qui trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả của hoạt động quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi.

Chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tín dụng: trình độ chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng để giải đáp mọi thắc mắc cho khách hàng về khoản
vay. Ngân hàng phải thực sự là người bạn đồng hành của khách hàng, sẵn
sàng giúp đỡ, tư vấn tài chính, cung cấp thông tin cho khách hàng giúp đỡ
khách hàng kinh doanh có hiệu quả đồng thời ngân hàng cũng tránh được rủi
ro, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của mình. Khi khách hàng đến giao dịch,
cán bộ tín dụng phải có thái độ tiếp đón lịch sự, phục vụ nhiệt tình, chu đáo;
thủ tục đơn giản, thuận tiện; phục vụ nhanh nhất cho khách hàng trong thời
gian qui định.
♦ Các chỉ tiêu định lượng:
Về cơ bản, chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với DNXL được đánh
giá qua các chỉ tiêu sau:
 Nhóm chỉ tiêu dư nợ cho vay:
Nhóm chỉ tiêu này cho biết khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho các các
DNXL của ngân hàng. Một ngân hàng uy tín tốt, chiến lược huy động, cạnh
tranh marketing tốt thì mới thu hút được nhiều khách hàng vay vốn và đáp
ứng tốt nhu cầu của họ.
- Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNXL
Dư nợ cho vay DNXL
Tỷ trọng dư nợ cho vay cho DNXL= × 100
Tổng dư nợ
18
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNXL thể hiện trong tổng dư nợ cho
vay của ngân hàng thì dư nợ cho DNXL vay chiếm bao nhiêu %. Tỷ trọng
càng cao chứng tỏ quy mô cho vay đối với DNXL của ngân hàng càng lớn.
- Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNXL
Tốc độ tăng trưởng dư nợ Dư nợ cho vay DNXL kỳ này
= × 100
cho vay đối với DNXL Dư nợ cho vay DNXL kỳ trước

Tốc độ tăng doanh số phản ánh khả năng mở rộng tín dụng đối với
DNXL qua từng thời kỳ. Dư nợ càng cao thì khả năng mở rộng tín dụng càng
lớn. Nếu chỉ số > 1 chứng tỏ quy mô cho vay năm nay cao hơn năm trước.
Tuy nhiên, cả 2 chỉ tiêu này chưa đủ để phản ánh chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với DNXL. Để đánh giá chất lượng tín dụng một cách đúng
đắn, khách quan và khoa học thì chỉ tiêu này phải được kết hợp với các chỉ
tiêu khác, đặc biệt là chỉ tiêu nợ quá hạn.
 Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn:
Ta biết rằng, trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài
nguồn vốn tự có của mình, các doanh nghiệp phải sử dụng một nguồn vốn bên
ngoài, đó là vốn vay của các ngân hàng thương mại. Đây là nhu cầu vốn rất
cần thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ hoạt động
sản xuất kinh doanh một cách bình thường. Tùy đặc điểm và tính chất hoạt
động của từng loại hình doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay ngân hàng
thương mại cũng có sự khác nhau. Thông thường các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực thương mại - dịch vụ sử dụng vốn vay ngân hàng nhiều hơn các
doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất.
19
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Doanh nghiệp vay vốn ngân hàng và ngân hàng cho doanh nghiệp vay
vốn được thực hiện bằng những cam kết thoả thuận theo những nội dung đã
ấn định phù hợp với nguyên tắc tín dụng. Mỗi khoản vay được xác định một
thời hạn trả nợ nhất định. Thời hạn trả nợ là bao nhiêu, lâu hay nhanh là do
đặc điểm của vốn vay tham gia vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn
của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, trong phạm vi thời hạn nợ quy định khi đến
hạn trả nợ, doanh nghiệp vay vốn phải có trách nhiệm hoàn trả nợ gốc và lãi
cho ngân hàng thương mại. Nếu thực hiện đúng nguyên tắc này thì cả doanh
nghiệp và ngân hàng coi như thực hiện đúng cam kết, vốn cho vay của ngân
hàng thương mại được thu hồi để sử dụng vòng luân chuyển khác. Doanh
nghiệp trả hết nợ ngân hàng và thực sự vốn vay này đã giúp doanh nghiệp

hoàn thành sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng thực tế không diễn ra suôn
sẻ như vậy, có nhiều doanh nghiệp không trả được nợ và lãi cho ngân hàng
khi nợ đã đến hạn trả. Trong trường hợp này, ngân hàng thương mại không
thu hồi vốn và lãi. Đây người ta gọi là nợ quá hạn. Như vậy, nợ quá hạn được
hiểu một cách tổng quát là: Đó là một khoản nợ mà người đi vay (doanh
nghiệp) đến hạn phải trả cho ngân hàng thương mại cả vốn và lãi theo cam
kết, nhưng doanh nghiệp không trả được cho ngân hàng, nợ quá hạn có tác
động xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn.
Nợ quá hạn được phân chia như sau:
- Nợ quá hạn có tài sản đảm bảo: Là khoản nợ khi cho vay người đi vay
là doanh nghiệp phải thế chấp tài sản cho ngân hàng, theo pháp luật, ngân
hàng có quyền phát mãi tài sản để thu nợ, do vậy nợ quá hạn này tuy chưa thu
được nhưng ngân hàng thương mại có khả năng thu hồi.
- Nợ quá hạn không có tài sản đảm bảo: Là khoản nợ khi cho vay, ngân
hàng không yêu cầu người vay thế chấp tài sản. Loại nợ này, con nợ là doanh
20
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
nghiệp vay vốn vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh nếu tình hình tài chính
của doanh nghiệp tốt thì cũng có khả năng thu nợ.
-Nợ quá hạn là nợ khó đòi: Loại nợ này xảy ra và tồn đọng ở những
doanh nghiệp vay vốn có tình hình hoạt động sản xuất khinh doanh và tình
hình tài chính yếu kém, biểu hiện sản xuất kinh doanh bị lỗ, nợ phải trả tăng,
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hoàn toàn. Thời hạn nợ tồn đọng khá
lâu, có thể kéo dài trên một năm, 2 - 3 năm hoặc lâu hơn nữa và rất khó giải
quyết.
Nguyên nhân dẫn tới nợ quá hạn:
- Doanh nghiệp vay vốn gặp những rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của mình như: Thiên tai, chiến tranh, khủng bố…do vậy việc sử dụng vốn vay
và vốn của doanh nghiệp không đạt hiệu quả, mất hoàn toàn về vốn của cả

doanh nghiệp và của cả vốn vay ngân hàng thương mại.
- Tình hình thế giới có thể ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng như: Biên
động của giá vàng thế giới, giá dầu mỏ, giá một số ngoại tệ mạnh hoặc giá
một số vật tư chủ yếu có xu hướng tăng cao.
- Về phía ngân hàng thương mại, khi quyết định cho vay, thiếu căn cứ
khoa học, không phân tích tình hình khả năng sử dụng vốn và hoàn trả nợ của
doanh nghiệp, do vậy đã đưa vốn vào những doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ
dẫn đến nợ quá hạn, nợ đọng,hoặc cũng có thể do nguyên nhân từ phía đạo
đức của người cán bộ tín dụng, cố tình cho vay để vì mục đích lợi riêng cho
mình.
- Về doanh nghiệp vay vốn: Quản lý sản xuất kinh doanh kém hiệu quả,
sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiền vay về không có tác dụng thúc
đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn
làm ăn kém hiệu quả, nợ phải trả tăng trong đó có nợ vay ngân hàng.
21
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
- Bản thân doanh nghiệp thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng vốn vay,
hoặc thiếu ý thức trong vấn đề trả nợ, không lo lắng, không quan tâm đến nợ
ngân hàng mặc dù khả năng tài chính của doanh nghiệp có.
Để đánh giá chính xác chỉ tiêu này, chúng ta quan tâm tới các tỷ lệ nợ
quá hạn
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = × 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu đánh giá khá đúng chất lượng hoạt động tín
dụng của NHTM, tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng tín dụng ở ngân
hàng cao, mức độ an toàn cao hay rủi ro thấp và ngược lại nếu tỷ lệ nợ quá
cao. Một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ gặp khó khăn trong việc phân
phối luồng vốn vào ra, và việc không thu được nợ khiến ngân hàng phải đối
mặt với việc mất khả năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản.

 Nhóm chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay
Lợi nhuận hoạt động tín dụng là nguồn thu nhập chủ yếu và quan trọng
của ngân hàng. Chỉ tiêu này giúp chúng ta so sánh được thu nhập từ hoạt động
cho vay DNXL của ngân hàng trong tổng thu nhập. Ta có công thức tính như
sau:
Thu nhập từ hoạt động cho vay DNXL
Tỷ trọng thu nhập = × 100
Tổng thu nhập của ngân hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh của
ngân hàng, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm bao nhiêu phần, đồng thời
nó phản ánh mức độ đóng góp của hoạt động tín dụng vào kết quả hoạt động
kinh doanh chung của ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ thu nhập từ hoạt
động tín dụng mang lại càng lớn và nó phản ánh chất lượng tín dụng tốt.
22
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng đối với
DNXL
Chất lượng tín dụng là một phạm trù kinh tế rộng, phức tạp, vừa trừu
tượng, vừa mang tính cụ thể. Do đó đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách
tổng hợp, sâu sắc thì mới có thể đánh giá đúng được chất lượng tín dụng. Chất
lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan, nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Việc phân chia này
chỉ có tương đối, còn trong thực tế thì chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng
tổng hoà của các nhân tố. Chính vì thế, chúng ta sẽ xem xét một số nhân tố
ảnh hưởng chủ yếu nhất đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
♦ Nhóm các nhân tố thuộc về môi trường pháp lý, kinh tế, chính trị, xã
hội
 Môi trường kinh tế:
Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức gia nhập ngôi nhà chung của tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Khi vào WTO, không chỉ ngành ngân hàng

mà tất cả các ngành kinh tế liên quan ở nước ta đã nhận thức rõ thuận lợi và
những khó khăn thách thức và cả những giải pháp để đối mặt với những khó
khăn thách thức nhằm đứng vững trong cạnh tranh và hội nhập. Đây là cơ hội
tốt cho các ngân hàng, các doanh nghiệp có cơ hội hợp tác, nhận công nghệ
tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại. Các ngân hàng có thể mở rộng cho
vay cả bằng nội tệ và ngoại tệ để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh
doanh, nhập khẩu hàng hoá, trang thiết bị, máy móc, kỹ thuật công nghệ
Chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước là nhân
tố cực kỳ quan trọng,sẽ ảnh hưởng tới định hướng và mục tiêu kinh doanh của
ngân hàng thương mại cũng như các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng.
Chẳng hạn, chính sách kinh tế của nhà nước điều tiết để ưu tiên hay hạn chế
23
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
sự phát triển một ngành, một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền
kinh tế sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng.
Môi trường kinh tế có thể có những thay đổi bất ngờ không dự tính
trước được. Ví dụ chẳng hạn khi lạm phát cao, lãi suất thực tế sẽ giảm xuống
và nếu như ngân hàng không cân đối giữa các loại nguồn và sử dụng nguồn
nhạy cảm với lãi suất thì có thể khoản cho vay không đem lại hiệu quả như
mong đợi. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản
tín dụng có chất lượng cao, còn nền kinh tế không ổn định thì các yếu tố lạm
phát, khủng hoản sẽ làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay biến
động lớn làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu nợ khi cho vay của ngân hàng.
 Môi trường xã hội:
Không một quốc gia nào có thể có nền kinh tế phát triển khi mất ổn
định về an ninh, chính trị, xã hội. Ở Việt Nam hiện nay có thể nói là có tình
hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, được thế giới đánh
giá là nước có độ an toàn cao. Đó là điều kiện căn bản để phát triển kinh tế
đất nước. Tác động của môi trường chính trị xã hội tới chất lượng tín dụng là
không thường xuyên, nhưng khi có biến động về chính trị thì tác động của nó

đến ngân hàng là vô cùng to lớn. Một sự thay đổi trong hệ thống chính trị hay
nếu có bạo động có thể làm cho các ngân hàng mất phần lớn hoặc toàn bộ các
khoản tín dụng của mình, điều này tất yếu sẽ đẩy ngân hàng tới bờ vực phá
sản
 Môi trường pháp lý:
Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ
không thể diễn ra một cách thuận lợi được. Với vai trò đảm bảo cho việc
chuyển nền kinh tế thị trường văn minh, pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một
24
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
môi trường pháp lý để giải quyết các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp xảy
ra. Vì thế nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động
ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện
các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm
chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai, và chất lượng tín
dụng mới được đảm bảo.
♦ Nhóm nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Những nhân tố thuộc về phía ngân hàng được hiểu là những nhân tố
thuộc về nội tại của từng ngân hàng, do chủ quan của ngân hàng. Nó ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh nói chung và ảnh hưởng chất lượng
tín dụng của từng ngân hàng.
 Chiến lược phát triển của ngân hàng:
Chiến lược phát triển của ngân hàng là một trong các yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của chính bản thân ngân hàng. Một chiến
lược phát triển đúng đắn và phù hợp sẽ đảm bảo ngân hàng phát triển.
Ngược lại, một chiến lược không phù hợp sẽ làm chậm quá trình phát triển
của ngân hàng, thậm chí dẫn đến khó khăn trong hoạt động hoặc thu lỗ, phá
sản.

Một chiến lược phát triển phù hợp phải là một chiến lược phát huy tối
đa được các điểm mạnh, khai thác được cơ hội đồng thời phải hạn chế đến
mức thấp nhất các điểm yếu và vượt qua được các thách thức.
Đối với các ngân hàng có quy mô nhỏ, vốn ít, trình độ thông tin ở mức
thấp hoặc trung bình thì chắc chắn không thể lựa chọn thị trường mục tiêu là
thị trường bán buôn với các doanh nghiệp lớn hoặc các tập đoàn đa quốc
gia vì nó vượt quá khả năng cung cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Trong
điều kiện đó thì thị trường mục tiêu của các ngân hàng này chỉ có thể là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ và các khách hàng cá nhân.
25

×