Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.14 KB, 74 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
Bắt đầu từ Đại hội Đảng năm 1986, Việt Nam đã tiến hành quá trình đổi
mới nền kinh tế, xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp,
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã tạo ra nhiều thành phần kinh
tế mới, trong đó có các DNNQD. Hiện nay, các DNNQD đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo công ăn việc
làm cho người lao động, góp phần đang kể vào GDP của đất nước. Xét về mặt
quản lý thì DNNQD chính là lực lượng quan trọng góp phần nâng cao hiệu suất
và tính linh hoạt của nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay các DNNQD Việt Nam
chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có của nó vì gặp phải nhiều lý do.
Đồng thời, trong những năm qua thì ngành ngân hàng Việt Nam cũng đã
tiến hành đổi mới trong tổ chức cũng như trong hoạt động kinh doanh của mình.
Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phong phú hơn, đáp ứng được ngày càng
nhiều hơn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của các NHTM vẫn là tín
dụng. Các ngân hàng luôn chú trọng đa dạng hoá hình thức cho vay, cũng như đa
dạng hoá các hình thức khách hàng. Trong đó đối tượng khách hàng là các
DNNQD ngày càng được ngân hàng quan tâm hơn vì đây là đối tượng khách
hàng đầy tiềm năng đối với ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay, do nhiều lý do mà
hoạt động tín dụng đối với các DNNQD tại các NHTM vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, lý do chủ yếu là do chất lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này
của các ngân hàng vẫn còn chưa cao. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng
tín dụng đối với DNNQD tại các ngân hàng có vai trò đặc biết quan trọng đến sự
phát triển của các ngân hàng và các DNNQD. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề
này, qua quá trình thực tập, tìm hiểu thực trạng cũng như những khó khăn trong
việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại SGD – NHĐT&PTVN,
tôi đã chon đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC


1
Qua chuyên đề này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Th.S
Lê Hương Lan và các cán bộ nhân viên tại SGDI – NHĐT&PTVN, những người
đã tận tình giúp đỡ em để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Nội dung chuyên đề ngoài lời mở đầu và phần kết luận còn bao gồm ba
chương:
Chương I - Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương II - Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương III - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
2
2
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH
1.1. Tín dụng Ngân hàng Thương mại.
1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của
nền kinh tế hàng hoá. Nó tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội,
tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra các khái niệm khác
nhau về tín dụng ngân hàng:
Theo định nghĩa hiện nay thì Tín dụng Ngân hàng Thương mại (NHTM)
là mối quan hệ giữa một bên là NHTM và một bên là khách hàng của ngân hàng
dựa trên nguyên tắc tin tưởng và hoàn trả. Trong đó Ngân hàng chuyển giao tiền
hoặc tài sản cho khách hàng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên nhận

tiền hay tài sản phải cam kết phải hoàn trả đầy đủ theo thời hạn và kèm theo
phần lãi do hai bên thoả thuận. Theo cách khác thì tín dụng ngân hàng là sự
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hay hiên vật từ
NHTM sang người sử dụng sau đó người sử dụng hoàn trả tại một thời điểm
trong tương lai với lượng giá trị lớn hơn.
Như vậy, theo định nghĩa trên thì tín dụng NHTM được thể hiện qua các
nội dung sau:
- Ngân hàng sẽ chuyển giao cho khách hàng (người vay) một lượng giá
trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hiện vật
như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
3
- Khách hàng (người đi vay) chỉ được sử dụng tạm thời trong một
khoảng thời gian nhất định. Sau khi hết thời hạn theo thoả thuận phải hoàn trả lại
cho ngân hàng (người cho vay).
- Giá trị mà khách hàng hoàn trả lại cho ngân hàng thường lớn hơn giá
trị lúc vay, tức là khách hàng phải trả thêm lãi.
1.1.2. Phân loại tín dụng NHTM.
Theo các tiêu thức khác nhau thì có các cách phân loại tín dụng ngân
hàng khác nhau. Sau đây là các cách phân loại tín dụng ngân hàng phổ biến hiện
nay:
* Căn cứ theo thời gian cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn dưới một năm,
thường nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn
hạn. Nó bao gồm các loại chính: bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp; chiết
khấu chứng từ có giá...
- Tín dụng trung hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm. Loại tín dụng này thường được sử dụng để đầu tư mua sắp tài sản cố định,
đổi mới trang thiết bị, cải tiến kỹ thuật...
- Tín dụng dài hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại

tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của khách
hàng như: xây dựng nhà xưởng, máy móc, thiết bị, những dự án có thời gian thu
hồi vốn dài...
* Căn cứ vào hình thức bảo đảm:
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó
Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần
cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
4
4
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
- Tín dụng có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó khách
hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản để cấm cố, thế chấp
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng đồng ý.
* Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng:
- Chiết khấu thương phiếu: Là hình thức tín dụng mà khách hàng sẽ
mang thương phiếu còn hạn đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp
vụ chiết khấu thương phiếu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu.
- Cho vay:
+ Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không có
điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và
trình ngân hàng giấy đề nghị vay vốn và trình phương án sử dụng vốn vay. Ngân
hàng sẽ tiến hành phân tích khách hàng, xác định quy mô cho vay, thời hạn cho
vay, thời hạn giải ngân, lãi suất, tài sản đảm bảo nếu cần... và sau đó ký hợp
đồng cho vay.
+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển
hàng hoá. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm giấy đề nghị vay luân
chuyển, sau đó Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức
vay, hạn mức cho vay... Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong một năm

hoặc vài năm, đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời gian để ngân hàng
xem xét lại mối quan hệ với khách hàng. Vì thủ tục vay chỉ phải thực hiện một
lần nên rất thuận tiện cho khách hàng.
+ Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng hạn mức cho vay. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc
cuối kỳ, đó là số dư tại thời điểm tính.
+ Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng được chi trội vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
5
giới hạn nhất định trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi.
+ Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thoả thuận. Hình
thức này thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, hoặc cho vay
đối với tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.
+ Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian. Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng...
- Cho thuê tài sản (Cho thuê tài chính): Là hình thức tín dụng trung và
dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và cá
động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và
bên thuê. Bên cho thuê cam kết mmua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền
thuê trong suốt thời gian thuê đã được hai bên thoả thuận
- Bảo lãnh: Bão lãnh của Ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.

1.1.3. Vai trò của tín dụng NHTM trong nền Kinh tế thị trường.
Tuỳ từng trình độ phát triển của mỗi nước mà vai trò của tín dụng
NHTM có khác nhau. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì vai trò
của tín dụng NHTM được thể hiện rõ nét, thể hiện qua các mặt sau:
* Tín dụng NHTM thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế để đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh
doanh,góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
6
6
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa được sử dụng,
tín dụng ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động
vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để có thể mang nguồn vốn đó
cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản
xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế
mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị
trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất
nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để
chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không
thể thiếu vai trò của tín dụng ngân hàng. Trong đó, tín dụng ngân hàng tạo nguồn
vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh
hoạt, phù hợp với tỉ lệ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát để đầu tư vào các lĩnh vực, các
công trình cần thiết cho đất nước nhưng đang gặp khó khăn do thiếu vốn; Bên
cạnh đó ngân hàng còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi
nhọn mà sự phát triển của các ngành này đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của kinh tế đất nước.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân

chuyển tiền tệ.
Sự phát triển của tín dụng NHTM làm tăng mạnh các hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Đây
cũng là một biện pháp hữu hiệu để kiềm chế lạm phát.
* Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm
soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung
thống nhất công tác tín dụng đã tạo điều kiện cho nó phản ánh một cách tổng
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
7
hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện
pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể
xảy ra để thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng được sử dụng
như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong cả công tác quản lý, kiểm
soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội và củng cố chế độ hạch
toán kinh tế.
* Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại của
đất nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay thì muốn kinh tế đất
nước phát triển nhanh, vững mạnh thì kinh tế đối ngoai đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Nhờ có tín dụng ngân hàng mà các thành phần kinh tế của đất nước
đã có vốn, từ đó nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị, tiến hành xuất khẩu hàng
hoá ra thế giới. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã trở thành cầu nối quan trọng
giữa kinh tế trong nước và kinh tế thế giới.
1.1.4. Quy trình tín dụng của NHTM.
Quy trình tín dụng là một tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín
dụng phải làm khi thực hiện xem xét một yêu cầu tín dụng của khách hàng. Quy
trình tín dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban
hành, buộc Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng tại

các NHTM bao gồm các bước sau:
- Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay
vốn. Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng cho khách
hàng về thể lệ vay, tránh gây phiền hà cho khách hàng.
- Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và
phương án vay vốn. Những thông tin này phải được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau để đảm bảo có được thông tin chính xác nhất, như là từ các bạn hàng,
8
8
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
từ sự đánh giá của cán bộ tín dụng, từ các tổ chức liên quan, thông tin từ thị
trường, điều tra quốc tế...
- Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Thẩm
định tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển, thẩm định tình hình tài chính
của Doanh nghiệp.
- Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư.
+ Thẩm định sự cần thiết của dự án.
+ Thẩm định phương tiện kỹ thuật, tổ chức quản lý tài chính.
Tuỳ theo từng món vay cụ thể mà cán bộ tín dụng cần xác định cụ thể
nội dung và phương pháp thẩm định thích hợp để vừa đảm bảo chất lượng và
thời gian thẩm định, tránh việc thẩm định quá rườm rà, phức tạp làm mất cơ hội
kinh doanh của khách hàng.
- Bước 5: Quyết định cho vay.
- Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ gốc, lãi, tiền thuê.
1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới
đất nước, đó là sự nghiệp đổi mới toàn diện, trên nhiều lĩnh vực... Trong đó đổi
mới cơ cấu kinh tế là một trong những ưu tiên quan trọng của Nhà nước. Phương
hướng chủ yếu nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế ở nước ta là phát triển nền kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN, đây là bước phát triển mang tính quy luật
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh (DNNQD) là doanh nghiệp mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn
điều lệ (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm: Các doanh nghiệp tư
nhân, công ty cổ phần mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ, công
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
9
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác
xã.
1.2.2. Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Có nhiều tiêu thức để phân loại các DNNQD, nhưng có các tiêu thức
chủ yếu sau:
* Phân loại theo loại hình doanh nghiệp, bao gồm các loại hình sau:
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là công ty trong đó phần vốn góp của
tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các
phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát
hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các
thành viên được thực hiện tự do. Nhưng việc chuyển nhượng vốn góp cho người
không phải thành viên công ty phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại
diện cho ít nhất ¾ số vốn điều lệ của công ty. Có công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên.
- Công ty cổ phần: Là công ty mà trong đó số thành viên được gọi là cổ
đông của công ty phải ít nhất là 3 người trong suốt quá trình hoạt động của công
ty. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần.

- Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu
cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải
thiện đời sống, góp phần phát triển đời sống của hộ gia đình cũng như phát triển
kinh tế của địa phương, đất nước.
10
10
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
* Phân loại theo ngành kinh doanh thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực xây dựng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, khách sạn, nhà
hàng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực vận tải, bưu chính, viễn thông.
- DNNQD hoạt động trong các ngành dịch vụ khác.
* Phân loại theo quy mô doanh nghiệp thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD có quy mô vừa và nhỏ: Là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập,
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người.
- DNNQD có quy mô lớn: Là những doanh nghiệp có tính chất tư hữu,
có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng và số lao động lớn hơn 300 người.
1.2.3. Đặc điểm của DNNQD ở nước ta hiện nay.
1.2.3.1. DNNQD có số lượng lớn.
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và
DNNQD Việt Nam nói riêng đã tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp, số lượng
lao động và vốn. Năm 1991, một năm sau khi ban hành luật công ty và luật
doanh nghiệp tư nhân, tổng số DNNQD chỉ có 414 doanh nghiệp. Đến năm

1999, số lượng DNNQD đã tăng lên con số 30.500 doanh nghiệp. Tính bình
quân giai đoạn này, mỗi năm tăng khoảng 3.252 doanh nghiệp, tương ứng với tốc
độ tăng 32%/ năm. Đến năm 2003, số lượng DNNQD đã tăng lên 55.236 doanh
nghiệp, chiếm tỷ trọng 88 % trong tổng số doanh nghiệp ở nước ta.
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
11
1.2.3.2. DNNQD ở nước ta có quy mô lao động và quy mô vốn nhỏ bé.
Mặc dù có số lượng rất lớn nhưng độ tập trung vốn của khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh chưa cao, còn rời rạc, quy mô nhỏ bé. Số lượng DNNQD có
quy mô vốn lớn rất ít, hầu như không có. Theo số liệu thống kê thì năm 2005, số
vốn của các DNNQD chỉ chiếm 19% tổng số vốn của toàn bộ các doanh nghiệp
hoạt động tại Việt Nam.
* Xét về vốn sản xuất: Năm 2005, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500
triệu đồng chiếm khoảng 62,4% trong tổng số doanh nghiệp; số doanh nghiệp có
số vốn trên 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng chiếm khoảng 24,3%, còn lại là
các doanh nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng. Tuy những năm gần đây, số vốn bình
quân của một DNNQD đã tăng lên, đạt được gần 5 tỷ đồng/doanh nghiệp, nhưng
so với số vốn bình quân của một doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là khoảng
170 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là khoảng 145 tỷ đồng thì
số vốn bình quân của DNNQD quá nhỏ bé.
* Xét về số lượng lao động: Số lao động trong các DNNQD vào khoảng
1,9 triệu người, chiếm 37% tổng số lao động của toàn khu vực doanh nghiệp
nhưng so với tỷ lệ số DNNQD trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam thì có thể
thấy số lao động bình quân của một DNNQD là thấp.
Như vây, phần lớn các DNNQD ở Việt Nam là thuộc loại hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh chỉ mới thực sự tồn tại và phát triển trong khoảng thời gian
chưa dài, do đó chưa có điều kiện tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất và quy mô.
1.2.3.3. Trình độ quản lý và công nghệ sản xuất lac hậu, thấp kém.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là một vấn đề phức tạp,

đòi hỏi người quản lý không những phải có trình độ mà còn phải có kinh nghiệm
dày dạn. Bởi vì nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường nên
những kiến thức về kinh tế, về quy luật kinh doanh không phải ai cũng nắm bắt
được; mặt khác cũng bởi vì các trường đào tạo quản lý kinh doanh và quản lý
12
12
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
pháp luật còn quá thiên về phương pháp lý thuyết mà ít chú ý tới phương pháp
giải quyết các vấn đề thực tế, mặt khác chi phí đào tạo quản lý nói chung còn rất
cao. Từ những lý do trên làm cho trình độ quản lý của DNNQD còn thấp, gây ra
nhiều khó khăn trong việc quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Những người
quản lý ở các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức nhân
sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, cơ hội đầu tư. Việc
thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý tài chính trong các doanh
nghiệp này còn chưa được nghiêm túc, chính vì thế mà họ gặp nhiều khó khăn
khi muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Công nghệ sản xuất của các DNNQD đã trở nên lạc hậu. Theo điều tra
thì ở các DNNQD hiện nay chỉ có 20% thiết bị hiện đại, 55% thiết bị ở mức
trung bình, còn lại là thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo
thì có đến 60% máy móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 60. Nguyên nhân của
tình trạng này là do vốn đầu tư ban đầu của các DNNQD thường thấp, họ lại gặp
nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc
đầu tư nâng cấp công nghệ. Ngoài ra các DNNQD không được tiếp cận đầy đủ
với những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ trong việc xác định công nghệ tương
xứng và thích hợp với khả năng tài chính nhằm hoàn thiện trình độ sản xuất và
nâng cao sức cạnh tranh của mình. Chính vì những lý do trên mà hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các DNNQD thường rất thấp và năng lực cạnh tranh trong
thị trường trong nước cũng như ngoài nước cũng bị suy giảm.
1.2.3.4. Các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu
quả.

Các DNNQD hoạt động năng động, thích nghi cao với thị trường, dễ
dàng chuyển đổi, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các
DNNQD hiện nay làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật mà không tính đến lợi
ích lâu dài của doanh nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận
dụng, khai thác tối đa nhất, triệt để nhất các lợi ích trước mắt mà không có tính
toán chiến lược lâu dài. Điều đó làm cho họ luôn bị động, lúng túng khi gặp khó
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
13
khăn, nhất là các khó khăn đến một cách bất ngờ. Nhiều DNNQD không thực
hiện đúng chế độ kế toán, thống kê, một số khác lại có biểu hiện của làm ăn phi
pháp như: trốn thuế, lừa đảo, gian lận thương mại... Điều đó làm cho xã hội thiếu
tin tưởng vào các DNNQD, gây ra hiệu quả kém của các doanh nghiệp này.
Trên đây là một số đặc điểm chính của các DNNQD ở nước ta hiện nay.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng các DNNQD ở nước ta đã và đang phát triển
với tốc độ cao, đóng góp vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của kinh tế đất
nước.
1.2.4. Vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường.
Trong tình hình hiện nay, khi mà nền kinh tế đất nước ta đang trong quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thì các DNNQD ngày càng thể hiện
được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế. Vai trò quan trọng đó được
thể hiện ở các mặt sau:
1.2.4.1. Thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất nước.
Các DNNQD hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế của đất nước
như: nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp... Các DNNQD hoạt động linh
hoạt, năng động, thích ứng nhanh, đáp ứng tốt những nhu cầu của thị trường.
Theo số liệu thống kê thì hiện nay các DNNQD đóng góp đến khoảng 40% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), những năm gần đây, tỷ lệ đóng góp vào GDP của các
DNNQD ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Điều này góp phần quan
trọng thúc đấy nền kinh tế đất nước ta phát triển.
1.2.4.2. Làm nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế, tận dụng tối

đa mọi nguồn lực của đất nước..
Các DNNQD phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh
tế đã làm cho thị trưòng hàng hoá trở nên phong phú, đa dạng và sôi động hơn.
Người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của mình. Mặt khác các DNNQD có ưu thế về sự nhạy bén với thị
trường đã thực sự trở thành đối thủ cạnh tranh trên thị trường của rất nhiều
14
14
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp khác. Vì vậy, sự phát triển của DNNQD sẽ làm tăng tính cạnh
tranh trên thị trường.
Cạnh tranh không những giúp các doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm,
dịch vụ đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng trên thị trường mà còn
thông qua đó sàng lọc ra các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và không hiệu quả.
Các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả sẽ bị loại ra khỏi thị trường. Với những
ưu thế của mình, các DNNQD đã thực sự trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ
của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế mà trong nền kinh
tế kế hoạch hoá trước kia luôn giữ vị trí độc tôn. Đây thực sự là một động lực
giúp cho nền kinh tế phát triển vì nó thúc đẩy tính cạnh tranh, năng động của
mọi thành phần kinh tế trong xã hội, làm cho mọi nguồn lực của đất nước được
tận dụng tối đa.
1.2.4.3. Góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp.
Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo. Khu
vực kinh tế Nhà nước không thể tạo đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả. Sự ra
đời của DNNQD thực sự là cứu cánh cho số lao động còn lại. Mặt khác,
DNNQD cần một lượng lớn lao động giản đơn, lao động không cần đầu tư phức
tạp nên rất phù hợp với trình độ của người lao động Việt Nam. Chính vì vậy mà
DNNQD đã góp phần quan trọng vào tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp của đất
nước.

1.2.4.4. Góp phần vào quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá của
đất nước.
DNNQD hoạt động trong mọi ngành nghề nhưng chủ yếu phổ biến ở các
lĩnh vực công nghiệp, thương mại, thủ công nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu. DNNQD
có thể thích nghi đón đầu công nghệ mới, chuyển đổi hướng sản xuất nhanh
chóng cho phù hợp với thị trường, đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển đổi
cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Từ đó góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
15
có cơ cấu tiên tiến, theo hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.
1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với DNNQD.
Trong quá trình phát triển của mình, ngoài nguồn vốn tự có thì các
DNNQD có thể dựa vào các nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn tín dụng Ngân
hàng, nguồn vốn thông qua thị trường tài chính. Trong đó thì vốn tín dụng Ngân
hàng đóng vai trò chủ yếu và an toàn nhất. Vì vậy vai trò của tín dụng Ngân
hàng đối với hoạt động của DNNQD là rất lớn.
1.3.1. Tín dụng NHTM là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các DNNQD, góp
phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của các DNNQD.
Tại thị trường tín dụng chính thức, hoạt động của các quỹ tín dụng nhân
dân chủ yếu là để hỗ trợ, giải quyết nhu cầu sinh hoạt và vốn phát triển kinh tế
gia đình. Mặt khác, thị trường vốn dài hạn, thì trường chứng khoán của nước ta
mới trong giai đoạn sơ khai. Điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các
DNNQD không phải dễ dàng. Chính vì vậy mà kênh cung cấp vốn chủ yếu và
hết sức quan trọng để giúp cho các DNNQD phát triển chính là vốn tín dụng
Ngân hàng.
Có thể nói điểm yếu lớn nhất của các DNNQD là vốn. Nguồn vốn tự có
hạn hẹp của các doanh nghiệp phần lớn được tập trung cho việc đầu tư ban đầu
vào các máy móc, thiết bị, nhà xưởng và giá trị quyền sử dụng đất. Mặt khác,

nếu sử dụng vốn tự có của mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm tăng
chi phí vốn. Vì thế nên phần vốn để dành cho vốn lưu động để luân chuyển trong
quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tái sản xuất là rất hạn chế, mà tái sản
xuất mở rộng chính là tiền đề cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nói
chung và DNNQD nói riêng, một doanh nghiệp chỉ có thể phát triển, khẳng định
vị thế của mình thông qua hoạt động tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, với nguồn
vốn nhỏ bé, cơ sở vật chất yếu kém thì việc tái sản xuất mở rộng của các
DNNQD nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có là rất khó.
16
16
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
Tháo gỡ được cho doanh nghiệp các khó khăn trên, tín dụng Ngân hàng
đã giúp đỡ cho các DNNQD trong việc hỗ trợ vốn lưu động và tiến hành tái đầu
tư mở rộng sản xuất. Với nhiều hình thức cho vay khác nhau mà các DNNQD đã
được cấp thêm vốn lưu động, có thể kịp thời chớp lấy các cơ hội kinh doanh,
tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, làm cho quá trình sản xuất kinh
doanh được diễn ra liên tục. Ngoài ra, với các hình thức cho vay trung và dài hạn
còn giúp các doanh nghiệp có vốn để đầu tư dây chuyền sản xuấtvà máy móc
thiết bị. Sự tài trợ này của ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi
nhuận và hiện đại hoá công nghệ của chính mình.
Như vậy, tín dụng ngân hàng chính là nguồn vốn hỗ trợ tốt nhất, quan
trọng nhất, đa dạng nhất để các DNNQD có thể tiến hành sản xuất kinh doanh
một cách thuận lợi, phát triển.
1.3.2. Giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Vai trò này bắt nguồn từ chức năng giám sát của NHTM với tư cách là
nguời cho vay đối với các DNNQD. Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín
dụng, hướng dẫn các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả,
đồng thời đôn đốc chủ doanh nghiệp trả nợ đúng hạn. Trong quá trình giám sát,
kiểm tra, Ngân hàng phát hiện ra những nhược điểm cần khắc phục, giúp các
doanh nghiệp xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh kinh doanh,

nhằm hạn chế khả năng rủi ro có thể xảy ra.
Mặt khác, một trong những điểm cơ bản nhất của tín dụng NHTM là
buộc người vay phải hoàn trả gốc (vốn vay ban đầu) và lãi sau một khoảng thời
gian nhất định. Điều này đã buộc các DNNQD khi sử dụng nguồn vốn tín dụng
NHTM thì phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn để thu hồi được đồng tiền đầu tư
ban đầu, từ đó có thể trả gốc, lãi cho ngân hàng và có được một khoản lợi nhuận.
Các DNNQD phải tính toán các chỉ tiêu thật chính xác để có thể đạt được kết
quả tối ưu.
1.3.3. Kích thích tính năng động, sáng tạo của các DNNQD.
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
17
Muốn đạt được lợi nhuận trong kinh doanh thì các DNNQD phải là
người chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiêp khác trên thị
trường.. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh thì các DNNQD phải phát huy được
tính năng động, sáng tạo của bản thân mình. Các DNNQD phải cạnh tranh với
rất nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường, đặc biệt là các DNNN với tiềm lực
về vốn lớn mạnh. Chính vì thế mà để có thể sử dụng vốn tín dụng NHTM một
cách có hiệu quả, đem lại lơi nhuận cho bản thân doanh nghiệp thì các DNNQD
phải phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của ùinh vào cuộc cạnh tranh trên
thương trường với các doanh nghiệp khác.
1.4. Chất lượng tín dụng NHTM.
1.4.1. Khái niệm.
Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn đứng trước nguy cơ rủi ro rất
cao, trong đó hoạt động tín dụng lại là lĩnh vực chủ đạo, chiếm tỷ trọng gần 90%
doanh thu hiện nay, chính vì thế mà đảm bảo chất lượng tín dụng có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động của NHTM, quyết định trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh của Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng Ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu
của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro về vốn
của ngân hàng, tăng lợi nhuận cho ngân hàng và góp phần phục vụ cho sự phát

triển của nền kinh tế - xã hội.
Với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động
thường xuyên của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Do vậy, chất lượng tín
dụng luôn là một vấn đề quan tâm hàng đầu của các NHTM. Chất lượng tín dụng
được tạo nên bởi các khoản tín dụng nhưng nếu chỉ bó hẹp khái niệm tín dụng
đồng nghĩa với một khoản tín dụng thì rõ ràng là không đầy đủ và không phản
ánh hết tính đa dạng và phức tạp của hoạt động tín dụng. Do đó cần hiểu chất
lượng tín dụng Ngân hàng là bao hàm toàn bộ cả lợi ích của khách hàng, ngân
hàng cũng như của nền kinh tế.
18
18
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
Các món tín dụng của ngân hàng được xem là có chất lượng tốt khi
khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay đúng mục đích vay vốn và trong quá trình
hoạt động đạt được hiệu quả cao, từ đó giúp Ngân hàng thu được gốc và lãi.
1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Hiện nay, với sự thông thoáng về cơ chế thì ngoài NHTM Nhà nước thì
đã xuất hiện thêm các loại hình NHTM khác, đó là Ngân hàng cổ phần, Ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Chính điều này đã làm cho sự
cạnh tranh giữa các ngân hàng càng ngày càng gay gắt. Các ngân hàng buộc phải
tìm ra các giải pháp trong hoạt động để giành được chiến thắng trong cạnh tranh,
đạt được hiệu quả trong kinh doanh, nâng cao vị thế của mình trên thị trường.
Một trong những biện pháp hiệu quả nhất, quan trọng nhất là nâng cao chất
lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng được thể hiện qua các chỉ tiêu có thể định
lượng được như dư nợ tín dụng, nợ quá hạn... đồng thời nó cũng thể hiện qua
việc thu hút được khách hàng, đóng góp vào nền kinh tế... Để nâng cao được
chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả, quan hệ tín dụng
phải được xây dựng dựa trên quan hệ tin tưởng, uy tín. Hiểu đúng bản chất của
chất lượng tín dụng hiện tại cũng như những nguyên nhân của những hạn chế
còn tồn tại sẽ giúp ngân hàng có những biện pháp để nâng cao chất lượng tín

dụng, đạt được hiệu quả trong kinh doanh.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất, lưu thông hàng hoá thì tín
dụng ngân hàng cũng phải không ngừng phát triển, cung cấp các phương tiện để
đáp ứng được các nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội, đòi hỏi chất
lượng tín dụng cũng phải được nâng cao. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ
làm tăng số vòng quay của vốn tín dụng, làm tăng số lượng giao dịch, giảm số
lượng tiền mặt trong lưu thông, kiềm chế tỷ lệ lạm phát, mở rộng phạm vi thanh
toán không dùng tiền mặt, từ đó giảm chi phí lưu thông tiền mặt của xã hội. Như
vậy, chất lượng tín dụng có quan hệ chặt chẽ với việc điều hoà và ổn định tiền tệ
của nền kinh tế.
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
19
Mặt khác, với một chính sách tín dụng đúng đắn, chất lượng tín dụng
được nâng cao sẽ giúp cho các ngành kém phát triển của nền kinh tế có cơ hội
vươn lên, đồng thời thúc đẩy các ngành mũi nhọn tiếp tục phát triển, giảm sự
mất cân đối giữa các vùng kinh tế, giải quyết các vấn đề mang tính xã hội, góp
phần giúp nước ta tiến nhanh trên con đường Công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Thông qua phân tích khả năng của khách hàng để đánh giá chất lượng của từng
khoản tín dụng sẽ giúp đưa ra được các quyết định đầu tư đúng đắn, khai thác tốt
các tiềm năng về lao động, tài nguyên... từ đó tăng sản lượng, cung cấp ngày
càng nhiều sản phẩm chất lượng cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động.
Lý do quan trọng nhất của việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với bản
thân ngân hàng chính là chất lượng tín dụng sẽ quyết định đến việc tồn tại và
phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng có tốt thì khả năng
cung ứng dịch vụ của ngân hàng mới cao, đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối
tượng khách hàng, tạo thêm đuợc nhiều vốn từ việc quay vòng vốn tín dụng tốt,
tạo thêm nhiều sản phẩm để phục vụ được thêm nhiều đối tượng khác nhau. Chất
lượng tín dụng Ngân hàng tốt sẽ giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí thiệt hại, tăng
lợi nhuận cho ngân hàng. Từ đó tạo ra uy tín, thế mạnh và vị thế cho ngân hàng

trong thị trường. Chính vì những lý do trên mà các NHTM luôn luôn phải quan
tâm để làm sao nâng cao được chất lượng tín dụng của mình.
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương
mại.
1.4.3.1. Các chỉ tiêu định tính.
Qua sự phân tích ở trên thì ta có thể thấy chất lượng tín dụng của NHTM
được thể hiện qua khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng vay vốn,
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, đóng góp cho sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế đất nước. Về mặt định tính, để đánh giá chất lượng tín
dụng của ngân hàng thì có một số nội dung sau:
20
20
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
* Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng của ngân hàng phụ thuộc
vào nguồn vốn của ngân hàng, nếu Ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội thì mới có khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các
khách hàng.
* Uy tín của Ngân hàng. Nếu một Ngân hàng có uy tín thì sẽ thu hút
được nhiều khách hàng hơn. Nếu một Ngân hàng có các khách hàng là các doanh
nghiệp làm ăn hiệu qủa, luôn trả được nợ đúng hạn thì chất lượng tín dụng của
Ngân hàng đó là tốt. Chất lượng tín dụng còn thể hiện ở chỗ khả năng đáp ứng
các nhu cầu của các khách hàng, nó biểu hiện ở chỗ nhanh gọn, thuận tiện trong
thủ tục nhưng vẫn bảo đảm khả năng cung cấp vốn đầy đủ, bảo đảm được an
toàn. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được thời gian, tiết kiệm được chi phí
và không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Bên cạnh đó, để đạt được chất lượng tín dụng
cao thì Ngân hàng phải trở thành người bạn thực sự của các doanh nghiệp, sẵn
sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với họ. Chẳng hạn, nếu thấy dự án của doanh
nghiệp có những điểm chưa hợp lý thì Ngân hàng sẽ góp ý, tư vấn cho doanh
nghiệp để doanh nghiệp điều chỉnh lại cho hợp lý. Ngoài ra, Ngân hàng cũng có
thể là người cung cấp những thông tin về thị trường một cách bổ ích cho các

doanh nghiệp.
* Sự đóng góp cho nền kinh tế địa phương cũng như toàn quốc. Nó được
biểu hiện ở sự ổn định của nền tài chính, tiền tệ, giúp nâng cao năng lực sản xuất
của các doanh nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, nâng cao mức sống cho dân cư.
1.4.3.2. Các chỉ tiêu định lượng.
1.4.3.2.1. Tổng vốn huy động:
Tổng vốn huy động cho biết tổng nguồn tiền mà ngân hàng huy động
được trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này cho thấy ngân hàng có hoạt động uy tín, có
được người gửi tin tưởng không, mức giá mà ngân hàng đưa ra có phù hợp
không, có khuyến khích được nhân dân gửi tiền vào không? Đồng thời cho thấy
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
21
ngân hàng đã tham gia vào các hình thức huy động vốn và các dịch vụ ngân hàng
như thế nào?
1.4.3.2.2. Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động:
Thông thường nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm các loại tiền
gửi như: Tiền gửi của các doanh nghiệp (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể
phát hành séc...), tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, có kỳ hạn). Mỗi loại tiền gửi
khác nhau có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này xác định kết cấu của
nguồn vốn huy động, để phát hiện ra mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng trong
kinh doanh từ đó để đưa ra các biện pháp để đáp ứng nhu cầu vay của khách
hàng một cách phù hợp. Trong trường hợp ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không
kỳ hạn cao ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tạo ra lợi nhuận bởi lãi
suất của loại hình tiền gửi này tương đối thấp. Ngược lại nếu tỷ lệ tiền gửi với lãi
suất cao chiếm tỷ trọng lớn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết
đầu ra của nguồn vốn. Song đây mới chỉ xét về một khía cạnh là lãi suất, còn
việc đem lại lợi nhuận cao hay thấp và độ rủi ro ra sao thì còn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố.
1.4.3.2.3. Tổng dư nợ, doanh số cho vay:

Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ
giữa ngân hàng với khách hàng như thế nào? Chỉ tiêu này cao cho thấy ngân
hàng đã tạo được uy tín đối với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng
phong phú thu hút được khách hàng.
1.4.3.2.4. Hiệu suất sử dụng vốn vay:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân
hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng
vốn huy động. Vậy tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể
22
22
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
khẳng định được bởi: Nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì ngân hàng phải tìm
kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay
thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn.
1.4.3.2.5. Doanh số thu nợ :
Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng đã thu được về bao nhiêu tiền khi đến
hạn trả nợ của khách hàng, từ đó có thể xác định được các doanh nghiệp trả nợ
đúng hạn, cũng như xác định được tỷ lệ thu nợ cũng như số nợ quá hạn của
khách hàng.
1.4.3.2.6. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ :
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt
quá một giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín
dụng( Mức giới hạn của mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận

tỷ lệ này là 5%).
- Theo thời gian, nợ quá hạn có thể phân thành các trường hợp:
+ Nợ quá hạn dưới 180 ngày.
+ Nợ quá hạn trên 180 ngày và dưới 360 ngày.
+ Nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Theo đối tượng khách hàng thì nợ quá hạn có thể phân thành các
trường hợp:
- Theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh thì nợ quá hạn có thể phân
thành các trường hợp :
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
23
Qua việc phân loại nợ quá hạn, ta có thể biết rõ các khoản nợ đang gặp
khó khăn hay những khoản nợ không thể thu hồi được từ đó đưa ra các biện pháp
hợp lý rủi ro tới mức thấp nhất.
1.4.3.2.6. Chỉ tiêu lợi nhuận :
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu lợi nhuận =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây
phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra.
1.4.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng của
các NHTM.
1.4.4.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường.
Các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp, đều tồn tại, hoạt động và
phát triển trong một môi trường kinh tế - xã hội nhất định, chính vì vậy mà quan
hệ tín dụng, chất lượng tín dụng của NHTM cũng phải chịu sự tác động của các
thành phần trong môi trường này.
* Môi trường kinh tế:
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân
hàng phát triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

được tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng
hoảng tài chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay không có biến
động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát triển đi lên đòi hỏi nền kinh tế phải có sự
tăng trưởng mà tăng trưởng thì dễ dẫn đến lạm phát. Nếu chúng ta không quản lý
tốt mà lại để lạm phát ở con số cao thì các ngân hàng sẽ là người chịu thiệt thòi
nhất do đồng tiền mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút nghiêm
trọng. Ngoài ra do chính sách vĩ mô của nhà nước ưu tiên hay hạn chế phát triển
24
24
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề tốt nghiệp
một số ngành nghề kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền
kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới chất lượng tín
dụng. Trong thời kỳ sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây
nên tình trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó
hoàn trả. Ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh nghiệp
đua nhau mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn.
Trong một vài trường hợp do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đã gây ra
những bất lợi cho doanh nghiệp làm cho khả năng trả các khoản nợ sẽ gặp nhiều
khó khăn.
* Môi trường pháp lý :
Đây là cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp pháp của thành phần kinh tế. Nó
chính là hệ thống pháp luật chi phối các hoạt động của các thành phần kinh tế để
không bị “vượt rào”. Một yêu cầu được đặt ra là phải có sự đồng bộ thống nhất
và phù hợp giữa các bộ luật, các văn bản pháp quy nhằm tạo được sự chặt chẽ,
hiệu lực của pháp luật. Nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ sẽ tạo lên các kẽ
hở để kẻ xấu có thể lợi dụng khai thác hay tạo nên các mâu thuẫn làm mất đi tính
hiệu lực của pháp luật hoặc gây khó khăn, phiền hà trong quá trình xử lý các vi
phạm pháp luật phát sinh. Đối với nước ta hiện nay thì vấn đề pháp lý đang được
tranh cãi nhiều nhất là về việc cấp chứng nhận sở hữu tài sản và xử lý TSTC tại

ngân hàng. Tuy rằng chính phủ đưa ra nhiều NĐ( 60, 61, 64, 83), quyết định
(217..) nhưng xem ra tình hình vẫn chưa được giải quyết một cách khả quan lắm.
Chính bất cập này là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khó khăn khi xử lý
tài sản thế chấp, cầm cố tại ngân hàng và giải toả “nợ đóng băng” của ngân
hàng..
Nguyễn Việt Hùng Khoa NH - TC
25

×