Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

BÀI GIẢNG HOA CÂY CẢNH pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN





BÀI GIẢNG
HOA CÂY CẢNH













Người biên soạn: ThS. Đỗ Đình Thục














Huế, 08/2009


1

Phần một
LÝ THUY ẾT


Bài 1

ĐẠI CƯƠNG VỀ HOA, CÂY CẢNH VÀ YÊU CẦU CỦA ĐIỀU KIỆN
NGOẠI CẢNH ĐỐI VỚI HOA, CÂY CẢNH

Mục tiêu
* Về kiến thức:
- Nêu được khái niệm và cách phân loại hoa, cây cảnh. Hiểu giá trị văn hoá
tinh thần và thẩm mỹ của hoa, cây cảnh.
- Nêu được tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa, cây trên thế gới và ở trong nước
- Nêu được các yêu cầu của điều kiện ngoại cảnh đối với hoa, cây cảnh.
* Nội dung tóm tắt:
Bài này trình bày khái niệm và các cách phân loại đối tượng hoa, cây cảnh.
Nêu các giá trị và tóm lược tình hình trồng hoa, cây cảnh, yêu cầu điều kiện ngoại
cảnh chung nhất vì đối tượng hoa, cây cảnh có phạm vi rộng trong giới thực vật.
Nêu các yêu cầu về dinh dưỡng, đất, phân bón và cách sử dụng chất điều hoà sinh

trưởng cho hoa, cây cảnh.

1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI VỀ HOA, CÂY CẢNH
1.1. Khái niệm
Cây hoa cây cảnh còn gọi là cây trang trí. Đó là những cây có hoa đẹp hoặc
thân, lá, cành, củ quả, hấp dẫn hoặc có một dáng vẻ mang ý nghĩa tinh thân, tình
cảm, thẩm mỹ nào đó được trồng lấy hoa cắt hoặc trang trí cả cây để làm đẹp hoặc
cải thiện mỹ quan cảnh trí một không gian giới hạn nào đó như một khu nhà ở,
vườn sân, nội thất.
1.2. Phân loại hoa, cây cảnh
1.2.1 Một số cách phân loại hoa cây cảnh phổ biến
* Phân loại theo kiểu, cỡ cây
- Cây lớn và cây nhỡ: Bách tán, tùng, vạn tuế, mai, đào,
- Cây bụi: Mẫu đơn, trà, trúc, quất, ngâu, nguyệt quế, đinh lăng cảnh,
- Cây thân thảo: Cúc, thược dược, lay ơn, huyết dụ, cẩm tú cầu, cẩm chướng
- Cây ký sinh: phong lan,
- Cây leo: Thiên lý, vạn niên thanh, tigôn, đăng tiêu, bìm bìm, bướm bạc
* Phân loại theo cách trưng bày và mục đích sử dụng
- Cây cắt hoa trưng bày
- Cây trưng bày cả cây: Cây để hoa tự nhiên, cây thế, cây Bonsai
- Cây cảnh kết hợp lấy bóng mát hoặc các tác dụng khác

2

* Phân loại theo môi trường sống
- Cây sống trong môi trường đất cạn
- Cây sống trong môi trường nước: Sen, súng,
* Phân loại theo thời gian thu hoa
- Hoa thời vụ (hoa ngắn ngày)
- Hoa quanh năm, hoa lâu năm

1.2.2. Phân loại theo phân loài thực vật
* Căn cứ vào các nhóm cây làm cảnh trong hệ thực vật làm cảnh
(Trần Hợp - Cây cảnh hoa Việt Nam - 2003)
- Nhóm cây leo, cây hàng rào
- Nhóm cây làm cảnh bằng thân
- Nhóm cây làm cảnh bằng lá
- Nhóm cây làm cảnh bằng hoa
- Nhóm cây làm cảnh bằng quả
- Nhóm cây làm cảnh ở nước
* Phân loại theo phân loại thực vật áp dụng cho từng cây
Cách phân loại này sẽ giới thiệu trong từng cây hoa và cây cảnh cụ thể
1.2.3. Một số loài hoa, cây cảnh phổ biến ở Việt Nam
- Họ lão mai (Ochnaceae): Phổ biến ở miền Nam như cây mai vàng (Ochna
intergerrima).
- Họ hoa hồng (Rosaceae): Phổ biến như cây hoa hồng (Rosa sp.)
- Họ cam quýt (Rutaceae), hay họ phụ cam quýt (Aurantoideae): Phổ biến như:
cam, quýt, quất.
- Họ hoa cúc Asteraceae (Chrysantaceae): Cây hoa cúc (Chrysanthenum
indicum).
- Họ chè (Theaceae): Sơn trà (Camellia Japonica L.). Hải đường.
- Họ phụ mận (Prunoideae) như cây đào (Prunmuspresia).
- Họ long cốt (Cactaceae) như cây thanh long (Hylocereus undulatus).
- Họ trúc đào (Apocynaceae) như cây sứ Thái Lan (Adenium obesum).
- Họ phi lao (Casuarinaceae).
- Họ hoa tím (Violaceae).
- Họ dâu tằm (Moraceae): Si (Ficus benjamina L.), sanh (Ficus retusa), đề
(Ficus reliogia), gừa (Lâm vồ, Sộp miền Trung - Ficus microcarpa Blume), duối,
ôrô.
- Họ Thầu dầu (Euphobiaceae): cây chè trồng làm hàng rào (Acalypha
sianensis), cây liễu đỏ (Excoecaria cochinchinensis), cây sơn liễu (Phillantus

Fasciculatus), cây kim mộc (Securinega spirei).
- Họ hoà thảo (Poaceae): Tre, trúc (vàng, đen), trúc Nhật.
- Họ nhài (Oleaceae): Cây nhài (Jasminum), cây mộc (Osmanthus Fragrans).

2. GIÁ TRỊ CỦA HOA, CÂY CẢNH
2.1. Giá trị thẩm mỹ tinh thần

3

- Hoa là biểu tượng của cái đẹp, hoa có nhiều màu sắc hài hòa và hương thơm
mật ngọt, hình thái đa dạng hấp dẫn cả con người và động vật.
- Hoa làm đẹp cảm xúc của con người, tạo cho con người cảm giác yêu thương
thanh thản.
- Hoa là biểu tượng của tình cảm, hoa đem lại giá trị tinh thần, tình cảm mà
không vật chất nào có thể so sánh được. Hoa là biểu tượng của tình yêu đôi lứa, tình
bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò.
- Hoa thể hiện sự trang trọng, kính yêu, sự huy hoàng, dùng trong hội nghị, lễ,
tết.
2.2. Giá trị kinh tế
Tùy theo từng năm, từng thời điểm, tùng loại hoa cây cảnh có những giá trị
khác nhau mà hoa cây cảnh có những giá trị khác nhau. Giá trị kinh tế của hoa cao
khi nhu cầu mua hoa nhiều. Tương ứng với nhu cầu có các loại hình trồng hoa cây
cảnh theo mục đích về thời gian sử dụng như:
- Hoa thời vụ: Hoa trồng để bán vào dịp tết Nguyên đán và các ngày lễ lớn 8/3,
30/4, 1/5, 1/6, 2/9, 20/10, 20/11, 22/12,
- Hoa quanh năm: Cung cấp hoa cho nhu cầu hàng ngày và các hội nghị và bán
vào ngày mùng một và ngày rằm các tháng âm lịch.
- Cây cảnh lâu năm: Cung cấp cho các biệt thự, nhà hàng nhằm tôn tạo vẻ đẹp
cho các công trình kiến trúc, khu nghỉ mát sinh thái.
Theo PGS. PTS. Nguyên Xuân Linh (1998) thì chi phí cho 1ha hoa 28 triệu

đồng/ha/năm, lợi nhuận thu được 90 triệu đồng/1năm so với đất trồng 2 lúa một
màu chi phí là 11,4 triệu đồng/ha/năm lợi nhuận đạt 7,6 triệu đồng/ha.
Theo TS. Đặng Văn Đông, PGS. PTS Đinh Thế Lộc trồng hoa lyli trong nhà
lưới đơn giản, sau khi trồng 1vụ (90-115ngày) 1 sào Bắc bộ chi phí 88.700.000
đồng, cho thu nhập 133.770.000 đồng, lãi thuần thu được 47.300.000 đồng và củ
giống cho vụ sau (Công nghệ mới trồng hoa cho thu nhập cao - Cây hoa lyli. NXB
Lao động - Xã hội, 2004). Đối với cây hoa hồng ngay năm đầu trồng hoa hồng đã
cho lãi hơn 5 triệu đồng/sào.
Theo ông Hà Út (chủ nhiệm HTX Phú Mậu 2, Phú Vang, Thừa Thiên Huế,
trồng hoa cúc theo Dự Án "Kỹ thuật trồng hoa cúc áp dụng công nghệ mới cho thu
nhập cao" ở địa phương đã tăng thu nhập và góp phần xóa đói giảm nghèo cho
người trồng hoa. Cứ 1 sào, hộ cho thu nhập trung bình đạt 7-10 triệu đồng/năm, các
hộ cho thu nhập cao lên tới 12-15 triệu đồng/năm.
2.3. Các giá trị khác của hoa cây cảnh
- Hoa cây cảnh thường được trồng ở những vùng đất khô cằn, nơi không trồng
được các cây lương thực thực phẩm khác. Đất hạn trồng cây cảnh chịu hạn, đất
ngập úng trồng sen, đất ô nhiễm thì trồng hoa do đó tận dụng được đất đai, tạo việc
làm,
- Hoa cây cảnh trồng làm đẹp cảnh quan môi trường, cải tạo khí hậu, ngăn bụi,
giảm tiếng ồn, thanh lọc không khí,

4

- Hoa cây cảnh là những vị thuốc chữa bệnh và bồi bổ cơ thể: Hoa hồng, đinh
lăng, mai, ngũ gia bì chân chim
- Hoa là nguồn mật cho nghề nuôi ong
- Làm hương liệu trong thực phẩm, mỹ phẩm, nước hoa,

3. TÌNH HÌNH TRỒNG HOA CÂY CẢNH
3.1. Tình hình trồng hoa, cây cảnh trên thế giới

Diện tích trồng hoa, cây cảnh thế giới ngày càng tăng. Chỉ tính riêng giá trị sản
lượng hoa thế giới đã đạt trên 20 tỷ USD (1995). Các nước có giá trị sản lượng hoa
lớn nhất là Nhật Bản 3,731 tỷ USD, Mỹ khoảng 3,270 tỷ USD, riêng Hà Lan là
nước trồng hoa hàng đầu thế giới với khoảng 1.500 trang trại trồng hoa có tổng diện
tích gần 10 nghìn ha, trồng gần 4.000 loài hoa khác nhau, sản xuất khoảng 1,7 tỷ
bông hoa và 600 triệu chậu hoa cảnh mỗi năm, trong đó khoảng 70% là để xuất
khẩu.
Giá trị xuất khẩu hoa cây cảnh của thế giới hàng năm đều tăng lên. Năm 1996
là 7,5 tỷ USD. Trong đó thị trường hoa cây cảnh Hà Lan chiếm gần 50%. Các nước
như Colombia, Tây Ban Nha, Kênia, Ecuado, Đức, Canada, Pháp, Mỹ, Israel có
doanh thu từ xuất khẩu hoa trên 100 triệu USD mỗi năm. Tỷ lệ tăng hàng năm của
thị trường xuất khẩu hoa thế giới là trên 10%.
Ở châu Á, tuy nghề trồng hoa được quan tâm đẩy mạnh chậm hơn so với các
nước ở châu Âu nhưng do những ưu thế về điều kiện tự nhiên như có nguồn gen
phong phú, có khí hậu thời tiết thuận lợi nên diện tích hoa cây cảnh cũng tương đối
lớn.
Hiện tại châu Á có tổng diện tích trồng hoa cây cảnh trên 134.000ha, chiếm
khoảng 60% diện tích hoa cây cảnh toàn thế giới, tham gia thị trường xuất khẩu
chiếm khoảng 20%.
Trung Quốc (3.000ha, đạt sản lượng 2 tỷ cành/năm 2000). Ấn Độ (65.000ha,
đạt giá trị 2050 triệu R.S/năm), Thái Lan (5.452ha, đạt sản lượng 1.667 triệu
cành/1994), Malaysia (1.218ha, đạt giá trị 3.370 triệu R.M/năm 1995),

Bảng 1: Sản lượng hoa cắt cành xuất khẩu của các nước từ năm 1991-2000
(Đơn vị tính: 1000 tấn)
Quốc gia 1991 1994 1997 2000
Toàn thế giới 1240,0 1689,3 2151,6 2316,5
Các nước phát triển 1055,7 1421,8 1827,1 1889,6
Isxaren 642,0 946,5 1321,6 1 365,4
Hà Lan 355,5 381,8 376,7 346,3

Tây Ban Nha 16,2 24,2 49,9 51,2
Niu Di Lân 15,3 28,9 29,0 25,5
Italia 12,5 13,4 14,6 13,9
Ôtxtrâylia 3,2 3,4 3,8 54,9
Luxambua 1,4 7,0 8,3 10,4

5

Đức 3,5 3,4 5,1 3,6
Anh 2,4 3,1 3,5 4,9
Nam Phi 0,0 5,3 7,6 6,3
Các nước khác 3,7 4,8 7,0 7,3
Các nước đang phát triển 184,3 267,5 324,5 426,9
Colombia 108,0 138,1 147,0 170,1
Ecuado 9,9 22,8 43,9 60,2
Kênya 15,1 34,6 35,7 34,8
Mê Hi Cô 15,5 9,4 16,1 76,4
Thái Lan 13,1 12,5 11,3 12,9
ấn Độ 1,4 3,8 10,2 10,5
Trung Quốc 0,0 3,9 3,0 4,3
Malaysia 4,1 5,5 2,4 4,4
Các nước khác 6,0 7,2 14,1 19,1
Nguồn: faostat.com, 2006
3.2. Tình hình trồng hoa cây cảnh và phân vùng hoa cây cảnh ở Việt Nam
3.2.1. Tình hình trồng hoa cây cảnh ở Việt Nam
Việt Nam có diện tích lãnh thổ 33.099.093ha, diện tích đất nông nghiệp
khoảng 7.348.449ha, trong đó diện tích trồng hoa chỉ khoảng hơn 4.000ha, chiếm
khoảng 0,5%.
Hoa cây cảnh được trồng ở nước ta từ rất sớm. Hiện nay diện tích hoa cây cảnh
tập trung ở các vùng trồng hoa truyền thống như Ngọc Hà, Quảng An, Nhật Tân,

Tây Tựu (Hà Nội), Đằng Hải, Đằng Lâm (Hải Phòng), Hoành Bồ, Hạ Long (Quảng
Ninh), Nam Điền (Nam Định), Hội An (Quảng Nam), Gò Vấp, Hoóc Môn (TP. Hồ
Chí Minh), Sa Đéc, Tân Qui Đông (Đồng Tháp). Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh
Bến Tre.
Các quận 11, 12 thành phố Đà Lạt, cũng tại nơi đây đã hình thành các Làng
Hoa và 12 nghệ nhân trong 6 làng hoa đã được đã được tôn vinh trong Festival Đà
Lạt năm 15/12/2007 đó là: Xuân Thành, Xuân Thọ, Hà Đông (phường 8), Đa Thiện
3 (phường 8), Vạn Thành (phường 5), An Sơn (phường 4), Thái Phiên (phường 12).
Hiện nay, nhà nước ta đang khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hoa cây
cảnh thành một thành phần quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt đầu tư phát triển các
trang trại trồng hoa xuất khẩu.
Bảng 2: Các địa phương có diện tích trồng hoa lớn của nước ta
Tên tỉnh Diện tích (ha)
Hà Nội 1.200
Hải Phòng 300
Lâm Đồng 2.027
TP Hồ Chí Minh 700
Miền núi trung du phía Bắc 136
Nguồn: website: vietnamnet; rauhoaquavietnam.vn, 2007.

6

Hiện tại Việt Nam chúng ta sản xuất khoảng 3 tỷ bông hoa mỗi năm. Riêng Đà
Lạt có diện tích chiếm khoảng 40% diện tích và 50% sản lượng hoa cây cảnh của
tỉnh Lâm Đồng đã sản xuất và cung ứng cho thị trường trong năm 2007 khoảng 880
triệu cành (khoảng 88 triệu cành dành cho xuất khẩu). Thành phố Hồ Chí Minh mỗi
năm xuất khẩu khoảng 2,5 triệu USD hoa cây cảnh ra thị trường thế giới.
Trong các năm từ 2004-2010, Hà Nội sẽ phát triển 500ha hoa cây cảnh tập
trung trong nhà có mái che, thành phố Hồ Chí Minh tăng diện tích lên khoảng 700-
1000ha, Lâm Đồng 1500ha (đến cuối năm 2007 Đà Lạt có 2415ha). Các tỉnh thành

khác tiến hành sản xuất 20-30ha phục vụ nhu cầu trong tỉnh và có thể tham gia thị
trường xuất khẩu. Đến năm 2010, Việt Nam có khoảng 8.000ha trồng hoa, sản xuất
khoảng 4,5 tỷ bông hoa và xuất khẩu 1 tỷ bông, thu về 60 triệu USD. Các vùng
chuyên canh sản xuất hoa cây cảnh công nghệ cao có sự đầu tư của nước ngoài
đang từng bước được hình thành ở Đà Lạt, Hà Nội và một số nơi khác phục vụ nhu
cầu nội địa và xuất khẩu. Nghề trồng hoa cây cảnh ở Việt Nam đã tìm được hướng
đi tốt để phát triển mạnh trong thời gian tới.
Hiện nay các loại hoa cây cảnh chính được trồng ở Việt Nam bao gồm hoa
hồng (Rosa sp.) chiếm 29,3%, hoa cúc (Chrysanthemum sp.) chiếm 42%, hoa cẩm
chướng (Dianthus Caryofullus), hoa lay ơn (Gladiolus communis), họ hoa lan
(Orchidaceae), cây sanh (Ficus viens Ait), cây si (Ficus benjamia Linn), cây sung
(Ficus Racenmosa Linn). Cùng với việc phát triển những loại cây truyền thống,
chúng ta đang không ngừng tìm kiếm, du nhập thêm các loại mới có giá trị để làm
phong phú thêm nguồn hoa cây cảnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng
trong nước và thị trường xuất khẩu.
Kỹ thuật trồng hoa cây cảnh ngày càng tiên tiến: Những kỹ thuật trồng trọt, cắt
tỉa tạo hình cây cảnh bí quyết lâu năm được duy trì và phổ biến. Những công nghệ
kỹ thuật mới tiên tiên được chuyển giao về cho nông dân và người trồng hoa như:
Công nghệ sinh học nuôi cấy mô, sử dụng các phương pháp điều tiết hoa nở trái vụ.
Việc tạo môi trường ánh sáng, nhiệt độ thích hợp với giống hoa mới nhập nội được
vận dụng sáng tạo và có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của người
nông dân hiện nay.
3.2.1. Phân vùng trồng hoa cây cảnh
(Nguyễn Xuân Linh - Hoa và Kỹ thuật trồng hoa  NXB NN, Hà Nội - 1998)
Hiện nay theo định hướng phát triển Nông nghiệp Việt Nam thì các khu vực
trọng tâm phát triển hoa cây cảnh ở Việt Nam là:
- Cao nguyên Mộc Châu và Sapa
- Vùng đồng bằng Bắc Bộ
- Cao nguyên Đà Lạt
- Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long


4. YÊU CẦU CỦA HOA CÂY CẢNH ĐỐI VỚI ĐIỀU KIỆN NGOẠI
CẢNH
4.1. Yêu cầu nhiệt độ

7

* Phân nhóm cây theo yêu cầu nhiệt độ
Mỗi loài hoa cây cảnh thích hợp với nhiệt độ khác nhau và theo nhóm như sau:
- Nhóm hoa nhiệt đới như hoa lan (Orchidaceae), hoa trà (Camelia), hoa hồng
môn, hoa đồng tiền,
- Nhóm hoa ôn đới như: Hoa hồng, hoa cúc, hoa cẩm chướng, hoa huệ, hoa lay
ơn, hoa phong lan ôn đới,
* Yêu cầu nhiệt độ của một số loại hoa
Nhiệt độ quyết định đến sinh trưởng, phát triển của cây hoa, chất lượng hoa.
- Nhiệt độ tác động đến cây qua con đường quang hợp của cây.
- Nhiệt độ ảnh hưởng đến sự ra hoa và nở hoa của cây hoa.
+ Hoa hồng: Tổng tích ôn của hoa hồng trên 1.700
0
C, ở Việt Nam, hoa hồng
sinh trưởng phát triển và ra hoa quanh năm, nhưng tốt nhất là mùa thu, đông.
+ Hoa cúc: Hoa cúc yêu cầu nhiệt độ thích hợp từ 20-25
0
C. Trong điều kiện
Việt Nam, các giống hoa cúc sinh trưởng và phát triển hầu như quanh năm.
+ Hoa lay ơn: Thích nhiệt độ 20-25
0
C, nhiệt độ thấp khi lay ơn có 6-7lá sẽ làm
giảm tỷ lệ nở hoa và giảm số hạt trên bông.
+ Hoa cẩm chướng: Thích nhiệt độ 17-25

0
C, ở miền Bắc, hoa cẩm chướng
sinh trưởng thích hợp từ tháng 9-5. Mùa hè nóng ẩm, cây hoa cẩm chướng khó phát
triển.
+ Hoa lan: Yêu cầu nhiệt độ ban đêm thấp hơn nhiệt độ ban ngày 3-5
0
C.
Nhóm lan nhiệt đới, nhóm lan cận nhiệt đới và nhóm lan ôn đới.
Nhóm lan nhiệt đới: phân bố từ vĩ độ 12-15
0
. Yêu cầu nhiệt độ ban ngày thích
hợp từ 21-30
0
C. Ban đêm từ 18-22
0
C. Điển hình của nhóm này là các loài thuộc
giống Vanda, Phalaenopsis.
Nhóm lan cận nhiệt đới: Phân bố từ vĩ độ 16-28
0
. Yêu cầu nhiệt độ ban ngày từ
18-24
0
C. Ban đêm từ 16-18
0
C. Như các giống Cattleya, Dendrobium, Oncidium.
Nhóm lan ôn đới: Phân bố từ vĩ độ 28
0
-40
0
. Yêu cầu nhiệt độ của nhóm này về

mùa hè từ 16-21
0
C. Yêu cầu nhiệt độ ban đêm khoảng 13
0
C. Mùa đông ban ngày từ
13-18
0
C. Ban đêm khoảng 10
0
C. Điển hình là các loài nhóm ôn đới như
Cymbidium, Paphiopecdilum.
4.2. Yêu cầu ẩm độ
Nước là điều kiện cần thiết để cho cây sinh trưởng phát triển, mỗi loại hoa cây
cảnh yêu cầu độ ẩm phù hợp khác nhau. Quá ẩm ướt sâu bệnh phát triển mạnh, hoa
cho năng suất thấp, chất lượng hoa kém. Các loại ôn đới như hoa hồng, hoa cúc,
cẩm chướng yêu cầu độ ẩm đất thường khoảng 70-80%. Các loại hoa như hoa sen,
hoa súng yêu cầu luôn có mực nước ngập.
4.3. Yêu cầu ánh sáng
Ánh sáng là một yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây hoa.
Ánh sáng cung cấp năng lượng cho phản ứng quang hợp xảy ra theo phương trình:
6O
2
+ 6H
2
O + Q (calo) = C
6
H
12
O
6

+ 6O
2

Quang hợp phụ thuộc vào thành phần quang phổ của ánh sáng và cường độ
chiếu sáng. Cường độ quang hợp của cây hoa tăng khi cường độ ánh sáng tăng

8

(trong khoảng nhiệt độ giới hạn). Trên cơ sở độ chiếu sáng, các cây trồng được chia
thành nhóm cây ngày dài và nhóm cây ngày ngắn.
- Cây ngày dài: Yêu cầu thời gian chiếu sáng dài trong ngày. Thời gian tối từ
8-10giờ/ngày như hoa tulip (Curcuma alismatifolia).
- Cây ngày ngắn: Yêu cầu thời gian chiếu sáng ngắn trong ngày. Thời gian tối
từ 10-14giờ/ngày, như cây hoa cúc (Chrysanthemum sp.).
- Cây trung tính: Cây không phản ứng chặt chẽ với thời gian chiếu sáng, như
cây cúc vạn thọ (Tagestes).
Nếu cây ngày dài được trồng trong điều kiện ngày ngắn thì sự tích luỹ Hydrat
cacbua giảm, protein trong giai đoạn sinh trưởng sinh thực giảm. Do đó cây không
ra hoa. Trường hợp cây ngắn ngày trồng trong điều kiện ngày dài, lượng
Hydratcacbua tăng nhanh dẫn đến sinh trưởng mạnh, cây cũng không ra hoa.
Vùng nhiệt đới, ánh sáng hàng ngày thường có từ 7-17giờ. Cường độ ánh sáng
tăng dần và đạt cực đại lúc 12-14giờ, sau đó giảm dần. Các loại hoa như hoa hồng,
hoa cúc, hoa lay ơn, hoa cẩm chướng thích hợp với ánh sáng trực xạ. Một số loài
hoa như hoa lan, hoa trà, hồng môn, không ưa sáng trực xạ. Đặc biệt vào lúc giữa
trưa nắng gắt do đó cần phải che nắng.
Trong một họ, các loài cũng yêu cầu ánh sáng không giống nhau. Đối với họ
lan, Sullen Costiptin dựa theo yêu cầu ánh sáng đã chia ra các nhóm:
- Nhóm ưa ánh sáng: Nhóm này có thể phát triển tốt với ánh sáng tự nhiên. Các
loài Angannisia, Arpophyllum, Giganterum, Cattleya Citrina, Epidendrum,
Oncidium.

- Nhóm trung gian: Nhóm yêu cầu ánh sáng trung bình. Các loài Acineta,
Calenthe vestita, Dendrobium, Cymbidium, Cattleya aciandiea, Vanda.
- Nhóm ưa bóng: Nhóm này không thích hợp với ánh sáng mạnh. Như loài lan
Phalaenopsis, Rhynchotylis, Paphiopedilum, Doristis
Nếu thiếu ánh sáng, thì cây chậm lớn, lá xanh thẫm lại, mềm yếu. Nếu cây thừa
ánh sáng, lá chuyển sang màu vàng cây kém phát triển.
Theo Nishico J.(1987), ngày dài có ảnh hưởng đến sự ra hoa của hoa cúc. Thời
gian chiếu sáng thời kỳ ra búp tốt nhất là 10giờ, với nhiệt độ thích hợp là 18
0
C.
Thời gian chiếu sáng kéo dài, sinh trưởng hoa cúc kéo dài hơn, thân cây cao, lá to,
hoa ra muộn, chất lượng hoa tăng. Thời gian chiếu sáng 11giờ, chất lượng hoa cúc
tốt nhất. Đối với hoa cẩm chướng, ánh sáng ngày dài lại hầu như không có ảnh
hưởng. Đối với hoa hồng, nếu bị giảm ánh sáng, năng suất và chất lượng hoa bị
giảm.
Hoa lay ơn nếu bị giảm mức chiếu sáng lúc cây 3-4lá, dẫn đến tỷ lệ hoa nở và
số hoa trên bông bị giảm. Ngày dài làm chậm quá trình ra hoa, thân cây kéo dài và
làm tăng chất lượng hoa lay ơn.
4.4. Yêu cầu về đất và dinh dưỡng
4.4.1. Đất trồng hoa cây cảnh
Mội trường trồng (đất, giá thể) của cây hoa rất quan trọng. Nó cung cấp nước,
dinh dưỡng và không khí cho sự sống của cây hoa.

9

* Đất trồng hoa cây cảnh
Đất vườn, đất đen, đất sét pha cát, đất đỏ bazan, đất phù sa đều có thể trồng
được hoa cây cảnh
Các loại hoa như hoa hồng, hoa cúc, hoa lay ơn, hoa cẩm chướng, yêu cầu
đất cao, xốp, tốt và thoát nước. Đất nặng, úng thấp, cây sinh trưởng kém, và lúc

ngập úng cây hoa sinh trương, phát triển khó khăn có thể dẫn đến úa vàng, chết. Độ
dẫn điện EC của đất có ảnh hưởng đến chất lượng hoa trồng trên đó.
* Hợp chất phân, đất
- Hợp chất trồng cây cảnh thường được phối trộn theo tỷ lệ sau:
+ Đất vườn hoặc đất đen 70% hoặc 50%
+ Phân rác mục 50% hoặc 30%
+ Tro, trấu 20%
- Hợp chất trồng hoa ở các vùng miền khác nhau thì có sự khác nhau theo tập
quán, kinh nghiệm truyền thống. Tổng hợp kết kinh nghiệm được thể hiện qua bảng
5.1:
* Chuẩn bị đất khi trồng hoa ngoài đồng ruộng và trồng chậu
Muốn đạt được một vụ hoa tốt, trước hết cần chuẩn bị dất trồng tốt
- Chuẩn bị đất ngoài đồng ruộng
+ Cày lật, phơi đất trước khi trồng hoa 10-15ngày.
+ Rải phân rác mục đều khắp (3000kg/1000m
2
), sau đó bừa đất tơi nhuyễn.
+ Lên luống theo hướng Đông - Tây chiều dài luống 10m, chiều rộng luống
1m, chiều cao luống tuỳ thuộc mạch nước ngầm của ruộng trồng hoa cao hay thấp
có thể từ 15-20cm.
- Chuẩn bị đất trồng trong chậu
+ Đất phải được chuẩn bị trước ít nhất là 3 tháng. Phơi nắng, loại hết tàn dư
thực vật, giun, sau 3-4ngày đất khô đóng bao, bảo quản không để nơi ẩm ướt,
ngoài trời.
Bảng 3: Tỷ lệ các hợp chất trồng hoa trong chậu của một số vùng
Tỷ lệ %
Miền Bắc Miền Trung TP.HCM Đồng Tháp
Đất thịt (đen) 60 40 30 0
Cát mịn 10 30 10 0
Phân chuồng 10 10 10 0

Phân rác mục 20 20 20 0
Tro trấu 0 0 30 50
Đất phù sa 0 0 0 50
Tổng 100 100 100 100
* Giá thể trồng hoa cây cảnh
Giá thể đối với hoa lan cũng hết sức quan trọng. Giá thể có thể là cành cây,
than củi, gỗ, gạch, xơ dừa, vỏ cây, Giá thể giữ cho cây đứng vững và là nơi giữ,
cung cấp dinh dưỡng, nước cho cây hoa lan trong quá trình tưới, bón phân cho hoa
lan.

10
4.4.2. Các yếu tố dinh dưỡng
Các yếu tố dinh dưỡng N, P, K, vi lượng, vitamin, có ý nghĩa quan trọng đối
với sinh trưởng, phát triển, năng suất, phẩm chất của các loài hoa cây cảnh.
- N: Đạm có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây hoa. Thiếu N, cây
yếu ớt, lá vàng, sinh trưởng còi cọc, hoa bé, xấu. Thừa N, cây hoa sinh trưởng
mạnh, cây yếu, vóng, mềm, yếu, dễ bị lốp, đổ. Thừa N, sâu bệnh phát triển, phá
hoại hoa nặng, hoa chất lượng kém.
- P: Lân có tác dụng làm cho bộ rễ cây hoa phát triển. P có tác dụng trong qúa
trình tạo thành và vận chuyển hợp chất hữu cơ trong cây hoa. Thiếu P, cây hoa sinh
trưởng chậm, cây yếu, ra hoa muộn. Có đủ P cây hoa ra búp, ra hoa sớm hơn.
- K: Kali có vai trò vận chuyển và tích luỹ chất hữu cơ trong cây hoa. Kali còn
có tác dụng làm tăng tính chống chịu của cây hoa. Biểu hiện của cây thiếu K bị
xoắn lá, đốm nâu phát triển, cây phát triển chậm.
Bón phân N, P, K đầy đủ theo tỷ lệ thích hợp có tác dụng giúp cây hoa sinh
trưởng phát triển cân đối để đạt năng suất hoa cao và phẩm chất hoa tốt. Bón phân
N, P, K ảnh hưởng đến phát triển chiều cao cây, đường kính hoa và trọng lượng hoa
cây hoa cúc. Đối với hoa hồng, bón phân N, P, K có tác dụng tốt hơn so với bón N,
N + P, P + K. Bón đủ N, P, K làm tăng năng suất và chất lượng của hoa hồng. Đối
với hoa lay ơn, bón phân P và K không làm thay đổi phẩm chất hoa. Tỷ lệ bón phân

có ảnh hưởng lớn đến củ giống hoa lay ơn. Tỷ lệ thích hợp là 200kg P
2
O
5
/ha +
100kg K
2
O/ha.
- Bo: Bo có tác dụng đến sinh trưởng của cây hoa. Khi thiếu bo, lá non bị xoăn,
những lá khác bị vàng hoặc nâu bên mép lá.
- Ca: Ca tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cây hoa. Ca có tác dụng
ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ rễ. Thiếu Ca cây hoa bị vàng lá, lá có nhiều vết
thối. Thiếu Ca ảnh hưởng đến quá trình hút nước của cây, cây hoa còi cọc, năng
suất hoa bị giảm. Ca làm tăng sự nở hoa và tăng độ bền của hoa.
- Cu: Thiếu Cu lá hoa dài, vàng, mềm, cây sinh trưởng chậm.
- Mg: Thiếu Mg lá già bị đốm vàng lan rộng ra toàn bộ diện tích với các đốm
đen trên mép lá. Thiếu Mg, cây hoa thường nhỏ, giòn, dễ gãy. Theo Lya Khop V.M
(1986), phân bón Mg làm tăng năng suất, tăng số nhánh hoa, tăng tính chống chịu ở
hoa cẩm chướng.
- Mn: Thiếu Mn lá cây nhỏ, đỉnh sinh trưởng bị vàng. Cây yếu, sinh trưởng
giảm, năng suất hoa bị giảm.
- Co: Co có tác dụng làm tăng tính giữ nước trong hoa, làm cho hoa bền lâu
hơn.
- Vitamin: Vitamin cần thiết cho cây hoa. Đặc biệt là hoa lan, cần vitamin B
1
,
vitamin B
6
trong suốt quá trình sinh trưởng của cây.
4.5. Các loại phân bón và phương pháp bón phân

4.5.1. Các loại phân bón
Phân bón là một trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định năng suất,
phẩm chất của hoa cây cảnh

11
* Phân hữu cơ
Phân hữu cơ chủ yếu là phân chuồng, phân xanh, phụ phế phẩm trong chăn
nuôi trồng trọt được sử dụng để bón cho hoa cây cảnh.
Phân hữu cơ có ưu điểm là có tương đối đầy đủ các chất dinh dưỡng đa lượng,
trung lượng và vi lượng, ngoài ra còn có một số chât điều hòa sinh trưởng. Nhược
điểm của phân chuồng là có thành phần dinh dưỡng không cân đối, hàm lượng các
chất dinh dưỡng thấp nên tốn công vận chuyển và sử dụng, dễ gây ô nhiễm môi
trường nếu chế biến và sử dụng không đúng kỹ thuật.
Phân hữu cơ bón cho hoa cây cảnh hiện nay chủ yếu được dùng ở dạng phân
chuồng để bón lót và phân ngâm để tưới bón thúc. Phân ngâm là hỗn hợp của phân
chuồng, khô dầu, các loại phân vi sinh, xác bã động thực vật, vôi…được ngâm ở
các bể kín cho tới khi hoai mục thì pha 1 phần phân với 3 phần nước và bổ sung
thêm đạm rồi tưới vào gốc cho cây. Giai đoạn đầu 10-15ngày tưới 1 lần, giai đoạn
sau 15-20ngày tưới 1 lần và giảm bớt lượng đạm để cây tập trung phát triển nụ, hoa.
Khi tưới xong phân chú ý tưới nhẹ nước trên thân lá để rửa sạch lá, tránh phân dính
làm cháy lá. [3]
* Phân sinh hóa
Phân sinh hóa là loại phân bao gồm các chế phẩm có chứa các hợp chất vô cơ
hoặc hữu cơ mà vai trò chính là tác động vào các quá trình trao đổi chất trong cây
làm tăng sự hấp thụ các chất dinh dưỡng và sử dụng các chất dinh dưỡng để hình
thành sản phẩm, các chất đó gọi là chất điều hòa sinh trưởng thực vật. Hiện nay chất
điều hòa sinh trưởng khi phun cho cây trồng làm tăng năng suất trung bình từ 10-
15%, có trường hợp còn có thể tăng tới 50% vì thế rất được quan tâm sử dụng.
Phân sinh hóa sử dụng cho cây trồng trên thị trường chủ yếu chứa các chất
điều hòa sinh trưởng như GA

3
,

-NAA, IBA, Ethrel, CCC…Các chất điều hòa sinh
trưởng được sản xuất bằng ba con đường chủ yếu là chiết xuất từ thực vật, từ lên
men vi sinh vật và bằng con đường tổng hợp hóa học. Hiện nay chất điều hòa sinh
trưởng được sản xuất dưới dạng đơn chất ở dạng chế phẩm điều hòa sinh trưởng
hoặc kết hợp với các chất đa lượng, vi lượng thành các loại phân bón lá chuyên
dụng, phân bón lá đa chức năng.
Bản chất của các chất điều hòa sinh trưởng là chứa các nội tiết tố thực vật, các
nội tiết tố này chỉ cần một lượng rất nhỏ cũng có tác động rất lớn đến quá trình trao
đổi chất dẫn đến làm thay đổi sự sinh trưởng phát triển của cây trồng. Cụ thể các
chất này tác động vào quá trình giãn nở của tế bào sau khi phân bào, auxin làm tế
bào giãn nở theo chiều ngang còn giberelin làm giãn nở theo chiều dọc. Các chất
này khi sử dụng ở nồng độ thấp khoảng vài chục ppm thì có tác dụng kích thích
sinh trưởng, làm cho cây sinh trưởng phát triển mạnh hơn, tuy thế khi sử dụng ở
nồng độ cao khoảng vài nghìn ppm lại có tác dụng kìm hãm sinh trưởng phát triển,
thậm chí hủy diệt cây trồng. Trong thực tiễn sản xuất hoa - cây cảnh cũng như các
loại cây trồng khác, tùy mục đích mà chúng ta có thể sử dụng chúng ở các nồng độ
khác nhau cho phù hợp. Chất điều hòa sinh trưởng cho cây trồng có thể sử dụng
theo nhiều cách như phun lên lá, dùng để ngâm cành, hạt khi nhân giống, bôi lên

12
cây, tiêm trực tiếp lên cây, riêng với cây hoa Cúc chủ yếu áp dụng phương pháp
phun lên cây và ngâm nhúng cành lúc giâm cành.
Mục đích của việc sử dụng chất điều hòa sinh trưởng cho cây hoa cây cảnh chủ
yếu là để điều khiển cho cây trổ hoa đúng vào thời điểm nhu cầu thị trường cao
hoặc điều khiển một số đặc điểm của cây theo thị hiếu người tiêu dùng như làm cây
cao lên, cho đường kính hoa lớn hơn, cho nhiều hoa… Ngoài ra chất điều hòa sinh
trưởng còn được dùng để kích thích ra rễ cho cành giâm làm cây giống.

* Phân bón lá
Phân qua lá là hỗn hợp một số đa lượng, vi lượng, một số chất điều hòa sinh
trưởng và có thể có thêm các chất hỗ trợ kết dính, loại phân này dùng để bón qua lá,
qua quả và qua thân cây.
Hiện nay trên thị trường có khá nhiều loại phân bón lá với thành phần và công
dụng khác nhau, có những loại chỉ có một hoặc một số các nguyên tố dinh dưỡng đa
lượng hay vi lượng như Granubo (chỉ chứa Bo), Vi lượng P
333
(chứa Ca, Mg,
Zn…), có những loại có cả đa lượng và vi lượng như Growmore, Agriconik, có loại
bao gồm đa lượng, vi lượng và cả chất điều hòa sinh trưởng như Diệp lục tố,
Atonik. Các nhà nghiên cứu cũng nghiên cứu khá kỹ và đã sản xuất các loại phân
đặc hiệu cho từng loại cây trồng tùy theo mục đích sử dụng, đặc tính của cây và đặc
điểm giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây. Mỗi loại thực vật có nhu cầu dinh
dưỡng khác nhau nên các loại phân bón lá đa chức năng dùng cho nhiều loại cây
thường đem lại hiệu quả không cao bằng các loại phân đặc hiệu.
* Phân vi sinh
Phân vi sinh là các chế phẩm có chứa vi sinh vật sống có ích như vi sinh vật cố
định đạm, vi sinh vật phân giải lân, vi sinh vật phân giải kali, các loại vi sinh vật
kháng sinh,… Các vi sinh vật được chọn lọc từ các chủng có trong tự nhiên, nuôi
cấy và đóng gói cùng với các chất làm môi trường để chúng tồn tại, thường là các
chất hữu cơ có sẵn trong tự nhiên hoặc các chất phối trộn. Số lượng vi sinh vật
trong phân thường phải đạt trên 10
6
/g phân thì mới đảm bảo tiêu chuẩn và có hiệu
quả khi bón cho cây.
Phân vi sinh hiện nay dùng bón cho cây hoa cây cảnh chủ yếu là lân vi sinh,
loại phân chứa các sinh vật phân giải lân hữu cơ (Bacillus megatherium
phosphaticum) để phân giải lân hữu cơ khó tiêu trong đất thành lân dễ tiêu mà cây
có thể sử dụng được. Phân lân vi sinh vó thể dùng ngâm ủ với các loại phân khác để

bón thúc hoặc bón lót trực tiếp vào đất. Lân vi sinh không chỉ giúp cây hấp thụ
được lân mà còn giúp cây sử dụng các yếu tố dinh dưỡng khác tốt hơn, do đó khi
bón phân lân vi sinh thì phải cung cấp đủ các thành phần dinh dưỡng khác cho cây.
* Phân khoáng
Đạm: Trong các loại phân hóa học thì phân đạm là yếu tố đầu tiên được chú ý
bón cho cây trồng vì cây cần nhiều mà đất lại không cung cấp đủ đạm dễ tiêu. Đạm
trong đất phần lớn ở dạng hữu cơ. Đất nước ta có lượng đạm tổng số khoảng 0,2%,
sự chênh lệch về khả năng tự cung cấp đạm cho cây của đất nghèo và đất giàu

13
không vượt quá 30 kgN/ha mỗi năm nên không cần phân tích đất để định lượng
đạm cần bón.
Khi lượng đạm bón chưa đủ thì bón các yếu tố khác đều kém hiệu quả. Đạm
giúp cây tăng sinh khối mạnh và sớm, làm cho sinh khối tạo ra chuyển thành các
sản phẩm thu hoạch. Khi bón đạm cho các loại hoa cây cảnh nên bón sớm vào thời
kỳ sinh trưởng phát triển mạnh, thận trọng khi xem xét bón vào thời kỳ sau lúc cây
sắp ra hoa. Ngoài ra bón đạm nên kết hợp bón các yếu tố khác như K, P, Mg,…vì
các yếu tố này cùng với N tham gia cấu tạo nên vật chất trong cây, khi có đủ các
yếu tố này thì cây sẽ sinh trưởng phát triển nhanh và đồng đều hơn, ít bị sâu bênh, ít
đổ ngã. Sử dụng phối hợp P, K, Ca, Mg, Si và các chất vi lượng khác trên nền đạm
cao một cách hợp lý là con đường phát huy tốt tiềm năng năng suất cây trồng để đạt
năng suất cao, phẩm chất tốt, tuy thế không nên bón đạm đến ngưỡng tối đa năng
suất vì sẽ giảm hiệu quả kinh tế.
Đạm có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh trưởng phát triển của cây. Đạm tham
gia tạo nên nguyên sinh chất của tế bào, tham gia cấu tạo diệp lục của lá, là thành
phần chính cho quang hợp. Thiếu đạm cây yếu ớt, lá vàng hoặc xanh nhạt, sinh
trưởng phát triển chậm, còi cọc, hoa bé, chậm nở hoa, màu sắc không đẹp. Thừa
đạm cây sinh trưởng thân, lá mạnh nhưng vống, dễ bị đổ ngã, dễ bị sâu bệnh, ra hoa
muộn hoặc không ra hoa. Đạm bón cho cây ở dạng amôn sufat (NH
4

)
2
SO
4
, urê
(NH
2
)
2
CO,
Lân: Lân là yếu tố của chất lượng sản phẩm. Lân khi bón vào đất thường bị
giữ chặt bởi keo đất làm cho cây khó hấp thu được nên hiệu lực sử dụng phân lân
thường rất thấp, chỉ khoảng 30%, vì vậy khi bón lân cho hoa cây cảnh cần bón
lượng lớn hơn nhu cầu của cây. Ngoài ra lân khi bón vào đất thường ít bị rửa trôi và
phân giải chậm vì vậy nên tập trung phần lớn lượng lân bón thúc cho cây khi trồng.
Các loại đất quá kiềm, giàu sét hoặc quá chua thường giữ chặt lân mạnh. Khi trồng
hoa trên các loại đất này nên dùng lân ở dạng viên và trộn với phân chuồng bón
theo rãnh nhằm giảm sự hòa tan lân vào đất để hạn chế sự giữ chặt lân của đất.
Cây hút lân mạnh hơn đạm và kali. Thông thường hàm lượng đạm và kali
trong dung dịch đất phải đạt 20-30ppm thì cây mới có thể hút được nhưng lân chỉ
cần khoảng 10-15ppm là cây đã hút được.
Lân là yếu tố chính tham gia vào sự hình thành nucleoproteit của nhân tế bào,
do vậy các bộ phận trên cây hoa Cúc đều cần lân. Lân giúp cho bộ rễ sinh trưởng
phát triển mạnh, cây khỏe, thân cứng, hoa bền, màu sắc đẹp. Hoạt động của các
enzym phụ thuộc rất lớn vào sự có mặt của phốt pho. Cùng với các vitamin, phốt
pho đã tham gia tạo thành một số enzym quan trọng trong trao đổi chất. Khi thiếu
lân, bộ rễ phát triển kém, cành nhánh khẳng khiu, các đốt gốc có thể chuyển sang
màu tím đậm, hoa ít, mau tàn, màu sắc không tươi, dễ bị sâu bệnh. Trong quá trình
sinh trưởng, hoa, cây cảnh cần nhiều lân hơn ở giai đoạn hình thành nụ và hoa. Lân
khi bón vào đất thường phân giải chậm nên tác dụng chậm, do đó chủ yếu được bón

lót vào thời kỳ trồng. Tùy theo tính chất đất mà sử dụng các loại phân lân khác

14
nhau, nếu là đất trung tính giàu mùn thì nên dùng supe lân, đất chua nên sử dụng
phân lân nung chảy còn đất chua mặn nên bón apatit.
Kali: Kali là yếu tố cây cần thứ ba sau đạm và lân, tuy thế cây lại hút nhiều
kali hơn đạm và lân. Kali là yếu tố có khá nhiều trong đất, tỷ lệ kali trong đất trung
bình từ 0,2-0,4%, thời gian hồi phục của kali trong thời gian đất nghỉ cũng khá
nhanh. Bón phân kali cho đất trồng hoa cây cảnh không phải là vấn đề quan trọng
như đạm và lân, tuy thế cũng cần bón thúc kali cho cây để tránh hiện tượng cây bị
thiếu kali ở giai đoạn cuối khi cây làm nụ và ra hoa.
Kali có rất nhiều trong hoa cây cảnh lúc còn non, trước lúc ra hoa. Trong cây,
kali (K) có mối quan hệ chặt chẽ về nồng độ với canxi (Ca) và natri (Na) ở mức
tương đối ổn định. Kali xâm nhập vào tế bào làm tăng tính thấm của màng đối với
nhiều chất, ảnh hưởng tới quá trình trao đổi gluxit và trạng thái nguyên sinh chất
của tế bào, từ đó giúp cho quá trình tổng hợp và vận chuyển các chất đường bột cho
cây. Hoa cây cảnh cần kali nhiều nhất vào thời kỳ hình thành nụ và nở hoa. Nếu
thiếu kali thì thân cây yếu, màu sắc hoa sẽ kém tươi, cánh hoa mềm, chóng tàn. Kali
giúp tăng tính chịu rét, chịu hạn và khả năng chống chịu sâu bệnh cho cây. Kali bón
cho cây ở các dạng phân hóa học như kali sunphat (K
2
SO
4
), kali clorua (KCl).
Khi bón phân cho các loại hoa, cây cảnh trồng trong chậu cần chú ý:
1 kg đất: Không nên bón quá 0,5-1,0g N; 1,5-2,5g P
2
O
5
; 0,3-0,5g K

2
O cho 1 lần
bón.
* Phân vi lượng và trung lượng
Phân vi lượng là các loại phân chứa các nguyên tố vi lượng cung cấp cho cây
trồng. Một số ít các vi lượng là chất cấu tạo, còn lại là các ion tự do trong dịch bào
hoặc ở trạng thái kết hợp với các chất hữu cơ tạo thành các men, các vitamin và các
chất điều hòa sinh trưởng từ đó ảnh hưởng chi phối đến các qua trình chuyển hóa
vật chất chính và sự hình thành các chất trong sản phẩm thu hoạch.
Theo hiệp hội phân bón quốc tế trong cây trồng có chứa hơn 92 nguyên tố tự
nhiên nhưng chỉ cần 16 nguyên tố để tăng trưởng tốt, 13 nguyên tố trong số này là
những nguyên tố dinh dưỡng vô cơ chủ yếu mà thường gọi là những chất dinh
dưỡng bao gồm các nguyên tố đa lượng, các nguyên tố trung lượng và các nguyên
tố vi lượng. 6 nguyên tố đa - trung lượng có hàm lượng 2-30g/kg chất khô, trong số
đó 3 nguyên tố đa lượng N, P, K được bón cho tất cả các loại cây và các loại đất, 3
nguyên tố trung lượng gồm S, Ca, Mg được bón cho một số loại cây và một số loại
đất. Các nguyên tố vi lượng gồm 7 nguyên tố Fe, Mn, Zn, Cu, Mo, Cl, Bo có hàm
lượng trong cây 0,3-50mg/kg chất khô. Ngoài ra có một số chất như Na, Si,
Co,…cũng rất có lợi cho cây.
Đất nông nghiệp ở Việt Nam đa số đều thiếu vi lượng. Kết quả phân tích hơn
3000 mẫu đất cho thấy hầu hết các nguyên tố vi lượng đều có mặt, riêng B và Mo ở
trong khoảng nghèo đến rất nghèo, Cu và Zn ở trong khoảng nghèo đến trung bình
nghèo.
Cũng như các vi lượng, các yếu tố trung lượng rất quan trọng đối với cây
trồng, tuy vậy hiện nay hầu như rất ít sản xuất riêng phân trung lượng để cung cấp

15
cho cây trồng. Các yếu tố trung lượng được cung cấp cho cây chủ yếu từ nguồn
phân khoáng phân vi sinh và chất cải tạo đất. Mg, Ca, S luôn có mặt trong các loại
phân đơn cũng như phân hỗn hợp ở dạng các hợp chất với tỷ lệ tương đối lớn, vì

vậy cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu cho cây trồng. hiện nay trên thị trường có một số
loại phân có trung lượng như N - P - K - S, N - P - K - Mg, tuy thế vẫn ít được dùng
rộng rãi.
Theo Raulston (1972), triệu chứng thiếu các yếu tố dinh dưỡng trung lượng và
vi lượng ở cây hoa Cúc biểu hiện rõ như sau: thiếu Ca lá cuộn nhỏ, dày, rễ bị cuộn
lại và hóa nâu. Thiếu Mg xuất hiện sự mất màu ở các vùng giữa gân lá, các lá phía
dưới cuộn lại; thiếu Fe gây ra sự mất màu ở vùng giữa các gân của lá non và mất
màu hoàn toàn ở các lá bị thiếu hụt nghiêm trọng; thiếu Mn, trên lá xuất hiện màu
đốm nhỏ màu xám, các đốm lớn dần cà lá bị khô. Thiếu Zn làm xuất hiện các đốm
trắng ở giữa mặt trên của lá, các đốm này phát triển dần thành các điểm chết ở giữa
lá, thiếu Cu là cho lá có màu xanh nhạt, gân lá mất màu, lá bị bệnh héo trong ngày.
Thiếu Bo làm cho gân lá có màu đỏ, vùng giữa các gân lá bị mất màu, rễ có màu
nâu và cuộn lại.
4.5.2. Phương pháp bón
* Phân chuồng
Các loại phân gia súc, gia cầm, da lông lợn, có thể dùng tươi hoặc ủ
- Phân hoai mục: Bón vào đất trước khi trồng cùng với phân lân, kali, hoặc
NPK.
- Ngâm hoai mục sau đó pha loãng với nước trước khi tưới.
- Hỗn hợp ngâm: 5kg cá + 2 bánh dầu + 0,5-1,0kg lân + 0,5kg kali + 0,5kg
đạm
Sau khi ngâm hoai mục hết hôi thối đem pha với nước theo tỉ lệ 1:10 hay 1:5 để
tưới cho cây theo từng giai đoạn sinh trưởng.
* Phân vô cơ
- Bón vào đất theo từng thời kỳ sinh trưởng của cây với lượng phù hợp theo
các qui trình hướng dẫn cho từng chủng loại hoa.
- Hòa loãng tưới cho cây theo định kỳ với liều lượng phù hợp.
* Phân bón qua lá
Sử dụng theo hướng dẫn trên bao bì. Chú ý với những loại cây mẫn cảm với
phân thì chỉ nên bón bằng 2/3 lượng chỉ dẫn để đảm bảo an toàn cho cây

4.6. Các chất điều hòa sinh trưởng, phân bón lá và cách sử dụng
4.6.1. Một số chất điều tiết sinh trưởng thông dụng
Ngày nay người ta đã biết khoảng 5000 chất hoá học có tác dụng rõ rệt đến
sinh trưởng phát triển của thực vật, chúng được gọi chung là chất điều hoà sinh
trưởng (growth regulators). Có nguồn gốc chiết xuất từ thực vật, bằng con đường
lên men VSV và bằng con đường tổng hợp hóa học.
Các chất điều hòa sinh trưởng là các chất hữu cơ với lượng rất nhỏ làm hạn chế
hoặc thay đổi bất kỳ một quá trình sinh lý nào trong cây được chỉ định như là một
hoóc môn thực vật (phytohormol). Các chất điều hòa sinh trưởng thực vật được

16
phân vào các nhóm: Auxin, Gibberellin, Cytokinin, axít Absizic, Etylen chất ức
chế hoặc làm chậm trễ các quá trình xảy ra trong cây trồng.
Tác dụng của chất điều hòa sinh trưởng được thể hiện ở những điểm sau:
- Kích thích sự phát triển rễ của cây, cành giâm, cành chiết.
- Kích thích sự phát triển của các đỉnh sinh trưởng, làm cho nẩy mầm sớm,
phát lộc sớm, ra nhiều cành, nhiều lá.
- Làm tăng và kéo dài sự hình thành các đốt, hoặc làm ngắn các đốt, làm dày
các bó mạch, tăng đường kính của thân cây.
- Ảnh hưởng đến sự phát triển của mầm hoa, làm kéo dài thời gian hoặc rút
ngắn thời gian ra hoa, làm tăng số hoa, số quả và thay đổi thời vụ thu hoạch.
- Ảnh hưởng đến sự thụ tinh và hình thành hạt, có thể làm giảm sự thụ tinh.
- Làm tăng tính chống chịu lạnh, nóng, khô hạn của cây.
- Làm tăng tốc độ phân giải và tổng hợp các chất, làm thay đổi chất lượng sản
phẩm (bảo quản hoa, quả trên cây và trong kho).
- Gây các hiện tượng dị hình, thay đổi màu sắc, già hóa các bộ phận của cây
thường được áp dụng trong nghề trồng hoa cây cảnh.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của từng chất, có thể phun trực tiếp lên từng bộ phận
của cây trồng các chất riêng biệt ở những nồng độ khác nhau. Có thể phun lên cây,
ngâm củ, cành vào dung dịch, bôi hay đắp và tiêm trực tiếp lên cây. Các chất điều

hoà sinh trưởng thông dụng được ghi ở bảng sau
* Gibberellin
- Tác dụng kéo dài tế bào và tăng tốc độ phân bào (xử lý GA
3
kéo dài tế bào
gấp 4-5 lần bình thường). Dùng để xử lý hạt, tăng tỷ lệ nảy mầm, cây sinh trưởng
nhanh.
- GA
3
làm giảm sự nở hoa của cây ngày dài, cây mùa lạnh, nó làm tăng sự nở
hoa của cây ngày ngắn khi trồng dưới điều kiện cảm ứng. Trong rất nhiều cây ngày
ngắn và trung tính, GA
3
thường làm chậm sự nở hoa và thậm chí làm ngừng sự nở
hoa.
- Nồng độ xử lý phụ thuộc loại cây, gai đoạn sinh trưởng của các cây, thường
từ 20-100 mg/lít. Đối với xử lý hạt ngâm hạt trong 24 giờ với nồng độ 5-20ppm
Trong thành phần thuốc tăng trưởng thực vật cao cấp loại "Lục Diệp Tố 1%".
Thành phần gồm Giberelic Acid + NPK + Vi lượng. Có khả năng kích thích sinh
trưởng nhanh, làm tăng khả năng đậu hoa, đậu quả, chống nghẹt rễ và bệnh vàng lá
lúa, tăng năng suất cây trồng,
Bảng 4: Một số chất điều hoà sinh trưởng thông dụng

Tên thông dụng Tên hoá học Công dụng
2,4,5 - T (nhiều
nước)
2,4,5 - Triclorphenoxy acetic
acid
Chất kích thích sinh
trưởng (ở nồng độ thấp)

TIBA Trijodobenzoic acid Chất kích thích sinh
trưởng
Gibberellin thông dụng từ GA
1
-GA
5
Chất kích thích sinh

17
trưởng
NAA
 -Naphty acetic acid
Chất kích thích sinh
trưởng
IBA
 -Indolbutyric acid
Chất kích thích sinh
trưởng
NOA
 -Naphtoxy acetic xcid
Chất kích thích sinh
trưởng
6 -BA
Alar (Mỹ), B-9
6 -Benzylaminopurine
N, N -Dimethylamid- Succinic
acid
Chất kích thích sinh
trưởng
Ethrel, Ethephon

CCC
2 -Clorethylphosphonic acid
Clorethyl trimethylamonium
clorid
Chất kìm hãm sinh trưởng
* Auxin (IAA, IBA,

NOA, 2,4D)
- Auxin có khi thúc đẩy, có khi hạn chế sự sinh trưởng, vai trò của nó trong cơ
chế này chưa được rõ
- Tác dụng của auxin kích thích sư ra rễ ở thực vật nên thường dùng trong
giâm, chiết cành. Nồng độ xử lý hạt NOA (20-50ppm), 2,4D (1-2ppm)
- Nồng độ xử lý phụ thuộc loài cây, giai đoạn sinh trưởng, vị trí của cành trên
cây, thường từ 5-10 mg/lít trong chiết cành.
* Etylen
- Tác dụng của Etylen kìm hãm sự sinh trưởng của cây, kích thích quả mau
chín, tăng số lượng hoa cái. Có thể khắc phục được phần nào hiện tượng ra hoa, quả
cách năm bằng cách phun vào cây lúc cây tắt hoa.
- Nông độ xử lý phụ thuộc loài cây, giai đoạn sinh trưởng của cây, thường MH
(100 mg/lít), CCC (0,1-0,6%) và Alar (0,15-0,25%).
* Cytokinin
- Tác dụng của Cytokinin là kích thích phát triển chồi, ngọn, rễ. Ngăn cản sự
lão hoá, (Kinetin, BA-Benzyl-6-Aminopurine) hoa cắt sẽ tươi lâu hơn trong môi
trường có Cytokinin. Thúc đẩy sự nẩy mầm của một số hạt, làm xuất hiện hoa chùm
ở một số loài hoa trong điều kiện thuận lợi.
- Nồng độ xử lý phụ thuộc loại cây, giai đoạn sinh trưởng của cây, thường ở
nồng độ 5-10ppm.
4.6.2. Một số ứng dụng chất điều hòa sinh trưởng cho nghề trồng hoa
* Kích thích ra hoa nhiều và đẹp (cúc, hồng, cẩm chướng, thược dược )
Hỗn hợp Gibberellin và các chất vi lượng (LHXN liên doanh

FITOHOOCMON) làm cho cuống hoa to và dài ra, làm cho cây nhiều nụ, hoa và ra
hoa tập trung. 1gói chế phẩm pha với 8lít nước hay 4-5lít nước được sử dụng đối
với cây hoa thân mềm hay cây hoa thân cứng. Dùng chế phẩm kích thích ra lá phát
chồi (phun vào thời kỳ cây non và thời kỳ trước khi cắt bán 5-7ngày).
* Xử lý cho hoa loa kèn ra hoa trái vụ

18
Hoa loa kèn trồng tháng 9-10 âm lịch cho hoa tháng 4 năm sau, để tăng giá trị
của hoa cần thực hiện các bước như sau:
- Phá bỏ tính ngủ nghỉ để rút ngắn thời gian nằm trong đất (từ trồng đến lúc
mọc 45-50ngày). Dùng dung dịch Gibberellin 10-15mg/lít, phun ướt đẫm hoặc
ngâm củ hoa, sau đó cho vào sọt đem xử lý lạnh trong một thời gian nhất định.
- Khi cây hoa phát triển cao 10cm thì phun chế phẩm ra lá phát chồi, cứ ngày
phun một lần.
- Khi cây chuẩn bị ra hoa có thể phun chê phẩm kích thích ra hoa.


Câu hỏi và bài tập
1. Tìm hiểu yêu cầu về khí hậu, đất đai và dinh dưỡng một số loài hoa, cây
cảnh phổ biến hoặc chủng loại hoa cây cảnh mới trong sản xuất hiện nay.
2. Điều tra tình hình trồng hoa cây cảnh và nhu cầu về hoa cây cảnh ở một
phường hay một xã.

19
Bài 2

VƯỜN ƯƠM VÀ PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG HOA, CÂY CẢNH

1. VƯỜN ƯƠM HOA VÀ CÂY CẢNH
1.1. Mục đích và ý nghĩa của việc xây dựng vườn ươm

Vườn ươm là một bộ phận không thể thiếu được của ngành trồng hoa cây cảnh,
là cơ sở cho vườn hoa cây cảnh phát triển, là một trong những khâu quan trọng bậc
nhất trong sự phát triển của ngành trồng hoa cây cảnh.
Muốn có những vườn hoa cây cảnh sinh trưởng, phát triển khỏe, năng suất chất
lượng cao, tính chống chịu cao phải có giống tốt và những cây giống tốt nhằm đáp
ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, điều đó phải bắt đầu từ
vườn ươm giống.
Do nhu cầu ngày càng cao trong sản xuất hoa cây cảnh đòi hỏi người sản xuất
và kinh doanh loại sản phẩm này phải tổ chức xây dựng những loại hình vườn ươm
phù hợp, đáp ứng những nhiệm vụ chủ yếu của vườn ươm là:
- Chọn lọc, bồi dưỡng giống tốt.
- Sử dụng các phương pháp nhân giống để sản xuất nhiều cây giống chất lượng
cao cho sản xuất.
1.2. Chọn địa điểm để xây dựng vườn ươm
Khi chọn địa điểm xây dựng vườn ươm cần chú ý một số yêu cầu sau đây:
- Điều kiện khí hậu: Khí hậu phải thích hợp thỏa mãn những yêu cầu của các
giống hoa cây cảnh định phát triển.
- Đất đai: Đất có kết cấu tốt, tầng đất dày 40-50cm trở lên, đất có khả năng giữ
nước. Nên chọn đất phù sa, cát pha, thịt nhẹ (tuyệt đối không chọn đất cát hay sét
quá). Nếu là vùng đất đồi thì đất có cấu tượng. Độ pH 5-7 và mực nước ngầm sâu
0,8-1,0m. Vùng đất ít có mầm mống sâu bệnh hại cây trồng trong vườn ươm.
- Đất xây dựng vườn ươm nên có địa hình hơi dốc 3-4
0
, bằng phẳng có đầy đủ
ánh sáng, thoáng gió và tốt nhất có đai rừng chắn gió.
- Gần đường giao thông và ở vị trí trung tâm các vùng trồng hoa cây cảnh để
tiện lợi cho việc chăm sóc, bảo vệ và cung cấp cây giống.
- Gần nguồn nước tưới: điều này cần đặc biệt chú ý đối với những vườn ươm
đặt ở vùng đất đồi.
2. CẤU TẠO VƯỜN ƯƠM

2.1. Các loại vườn ươm
Tùy nhiệm vụ, thời gian sử dụng mà có thể chia thành 2 loại vườn ươm
* Vườn ươm cố định: Là loại vườn ươm có thời gian sử dụng lâu dài thực hiện
cả 2 nhiệm vụ cơ bản của vườn ươm là chọn lọc, bồi dưỡng giống tốt và nhân nhanh
nhiều cây giống chất lượng cao phục vụ sản xuất. Loại vườn này thường được xây
dựng quy mô, ở đây có đầy đủ các cán bộ KHKT có trình độ, có các công trình kiến
thiết cơ bản phục vụ cho công tác nghiên cứu và sản xuất. loại vườn này thường

20
được xây dựng để phục vụ cho nhu cầu trên quy mô lớn mang tính chất quốc gia,
liên vùng, liên tỉnh.
* Vườn ươm tạm thời: Là loại vườn ươm thực hiện nhân giống là chủ yếu. Loại
vườn này chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ
cung cấp đủ giống cho sản xuất.
2.2. Bố trí vườn ươm
Một vườn ươm hoàn chỉnh với quy mô lớn thì quy hoạch nên chia thành 3 khu
vực lớn: khu cây giống, khu nhân giống và khu luân canh.
* Khu cây giống: Khu này được chia thành 2 khu:
- Khu thứ nhất: Trồng những giống hoa cây cảnh đã được xác định làm gốc
ghép để lấy hạt gieo, lấy cành để giâm cành làm gốc ghép
- Khu thứ hai: Tùy theo qui mô và nhiệm vụ được giao, trong khu này trồng tập
đoàn và giống hoa cây cảnh quý có chủ trương nghiên cứu. Hàng năm tiến hành
chọn lọc, bình tuyển những cây đầu dòng của các giống để lấy cành ghép, mắt ghép,
cành giâm, cành chiết, củ giống và lấy hạt để sản xuất cây giống đối với những cây
giống phải nhân giống bằng hạt. Các biện pháp kỹ thuật chăm sóc trong khu vực
này đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của cây để thúc đẩy nó biểu hiện đầy đủ những đặc
tính, tiềm năng, năng suất, chất lượng, của giống giúp chúng ta chọn lọc, bình
tuyển các giống tốt. Lấy được những vật liệu có chất lượng cao trong công tác
giông.
* Khu nhân giống: Tùy theo qui mô, nhiệm vụ và khả năng sử dụng các

phương pháp nhân giống của cơ sở, có thể chia khu này thành 5 tiểu khu:
- Khu gieo hạt, ra ngôi cây gốc ghép
- Khu giâm cành, ra ngôi cành giâm làm gốc ghép.
Hạt và cành giâm dùng ở 2 tiểu khu này được lấy trên những cây đã được chọn
lọc ở khu vực 1 của khu cây giống.
- Khu ra ngôi chăm sóc cành giâm để sản xuất cây giống bằng phương pháp
giâm cành.
- Khu gơ cành chiết để sản xuất cây giống bằng phương pháp chiết cành.
- Khu gieo hạt để sản xuất cây giống bằng phương pháp gieo hạt.
Vật liệu để thực hiện 3 phương pháp nhân giống (giâm cành, chiết cành, gieo
hạt) được lấy trên những cây đầu dòng của các giống đã bình tuyển ở khu vực 2 của
khu cây giống.
* Khu luân canh: Trong vườn ươm cần thiết phải có một khu đất hàng năm
trồng rau, cây họ đậu, thường xuên được cải tạo bồi dưỡng nâng cao độ phì để sau
vài năm luân phiên đổi chỗ cho một số tiểu khu của khu nhân giống, bởi sau khi
ghép, giâm cành sản xuất chúng ta đã đào đi một lớp đất mặt làm cho khu vườn này
thấp dần và độ màu mỡ của đất bị giảm nên cần được bổ sung cải tạo.
Như vậy, tùy theo quy mô, nhiệm vụ và khả năng sử dụng các phương pháp
nhân giống mà qui hoạch phân chia các tiểu khu trong vườn ươm cho hợp lý. Nếu
nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào cần có những loại vườn phù hợp với công nghệ

21
sản xuất giống theo loại hình nhân giống này như vườn cấy chuyển cây từ ống
nghiệm ra, vườn ra ngôi,
3. NHÀ ƯƠM CÂY, GIÁ THỂ VÀ PHƯƠNG PHÁP CANH TÁC
Có hai loại nhà ươm cây trong sản xuất hoa và cây cảnh
* Nhà ươm cây hiện đại
- Nhà ươm cây hiện đại được thiết kế theo kiểu nhà kính, nhà lưới, có điều
khiển tự động hoặc bán tự động, có điều kiện để áp dụng công nghệ cao mang tính
chất công nghiệp được trang bị đồng bộ và đầy đủ.

- Thiết bị sử dụng trong nhà kính hiện đại được chế tạo tự động hoá: Tưới phun
mù tự động nếu độ ẩm nhà giâm thấp, rơ le cảm ứng sẽ tự bật.
- Hệ thống điều khiển ánh sáng và quạt thông gió cũng được lắp đặt tự động,
điều chỉnh ánh sáng tán xạ xuống nền vườn ươm phù hợp cho từng chủng loại cây.
* Nhà ươm cây đơn giản
Nhà che bằng lưới PE phản quang, dễ áp dụng, chi phí đầu tư phù hợp với khả
năng kinh tế của hộ nông dân và các cơ sở sản xuất nhỏ, hiệu quả tương đối cao.
- Kết cấu đơn giản dễ làm, khung nhà làm bằng sắt, được gắn vào các trụ cột
bê tông, kích thước thông thường là: 8 x 40 m (hoặc 10 x 50 m), cao 2,5 m, mái lợp
bằng ni lông trắng hoặc nhựa trắng. Có thể làm mái vòm hoặc mái vát nhọn, dưới
mái được che bằng 1 lớp ni lông phản quang để hạn chế cường độ ánh sáng vào
mùa hè. Sau đây là một số thông số kỹ thuật nhà lưới
- Diện tích nhà lưới: 500 m
2
/đơn nguyên
- Kích thước: 50 x 10 m
- Chiều cao nhà lưới điểm thấp nhất là 2,5 m, điểm cao nhất (đỉnh mái) là 3,5 m
- Độ dốc mái 30
o

- Cột thép F 34, xà gồ thép F 18
- Mái lợp: Màng IZOZAI có tác dụng ngăn tia tử ngoại, chống mưa
- Lưới đen có tác dụng giảm cường độ ánh sáng, giảm nhiệt độ
- Xung quanh che lưới chắn côn trùng
* Giá thể dùng trong vườn ươm
Có rất nhiều loại giá thể được sử dụng cho vườn ươm hoa cây cảnh
- Sử dụng hỗn hợp mà thành phần chủ yếu là đất (nham thạch) ở miệng núi lửa
và vụn sơ dừa và các chất hữu cơ khác (compost)
- Sử dụng hỗn hợp 2 loại giá thể là: 2/3 trấu hun + 1/3 đất phù sa hoặc đất bùn
ao phơi khô đập nhỏ.

- Các loại giá thể trên sàng lọc, loại bỏ tạp chất, phơi khô và khử trùng bằng
VibenC 10% trứớc khi giâm.
4. PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG
Nhiệm vụ chủ yếu của công tác nhân giống là sử dụng các biện pháp kỹ thuật
khác để tăng nhanh số lượng cây giống và đảm bảo duy trì, nâng cao những đặc tính
quý của giống nhằm cung cấp cho sản xuất nhiều giống có chất lượng tôt.
Trong kỹ thuật nhân giống hoa cây cảnh có 2 phương pháp chính: nhân giống
hữu tính và nhân giống vô tính.

22
4.1. Gieo hạt
Là phương pháp nhân giống cổ truyền dựa trên quá trình thụ phấn, thụ tinh của
thực vật. Có nhiều loại hoa ngắn ngày và trong kỹ thuật bonsai sử dụng phương
pháp nhân giống này để tạo ra cây con cơ bản (nguyên liệu).
* Ưu điểm:
- Nhân nhanh các giống, cây con có sức sống mạnh mẽ, thoả mãn số lượng lớn.
- Có khả năng duy trì các đặc trưng, đặc tính tốt của các thế hệ lai.
- Là phương tiện không thể thiếu được để tạo ra các giống mới.
- Giải quyết vấn đề nhân giống mà các phương pháp khác không thể tiến hành
được.
* Nhược điểm:
- Dễ xẩy ra hiện tượng lẫn giống (lẫn sinh học, lẫn giống cơ giới).
- Thời gian ra hoa, ra quả dài.
* Một số chú ý khi tiến hành nhân giống bằng hạt
- Thời gian ngủ nghỉ của hạt cây ôn đới, cây á nhiệt đới, cây nhiệt đới.
- Phản ứng khác nhau của các loài với điều kiện nhiệt độ, đặc biệt là giai đoạn
nảy mầm: Cây nhiệt đới yêu cầu nhiệt độ cao hơn cây á nhiệt đới và cây á nhiệt đới
yêu cầu nhiệt độ cao hơn cây ôn đới.
- Các đặc tính vật lý của hạt: Độ dày, mỏng, cứng, mềm của vỏ hạt.
- Các đặc tính hoá học: Thành phần dinh dưỡng chứa trong lá mầm và phôi hạt,

hạt có dầu không nên dùng biện pháp xử lý bằng nhiệt độ.
- Một số đặc tính sinh học đặc biệt của hạt: Vỏ hạt Phong Lan cần nấm cộng
sinh tiết ta chất phá bỏ vỏ hạt mới nảy mầm được.
- Trong sản xuất hạt giống: Đầu tư khoa học kỹ thuật, phân bón phải tối ưu và
tiến hành phương pháp 5 chọn:
+ Chọn vị trí cây mẹ.
+ Loại bỏ cây xấu, cây bị sâu bệnh và chọn cây tốt.
+ Chọn hoa: Loại bỏ hoa xấu, hoa nở không đúng vụ và có màu sắc khác thì
trồng riêng ra để tiếp tục theo dõi.
+ Chọn quả chắc mẩy, tốt, không bị sâu bệnh.
+ Chọn hạt chắc, mẩy, không sâu bệnh.
Trong quá trình chăm sóc cây con cần tiến hành loại bỏ những cây sinh trưởng
không bình thường.
- Hạt của những cây ôn đới được bảo quản trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ
thấp. Khi không được bảo quản lạnh thì trước gieo phải xử lý lạnh và ẩm.
Một số hoa, cây cảnh thường sử dụng phương pháp nhân giống hữu tính: Cần
thăng (Limona acidissma) họ Cam quýt (Rutaceae). Trắc bách diệp (Biota
orientalis), họ Bách tán (Cupressaceae). Cau dẻ (Cau vàng - Chrysalidocarpus
lutescens), họ Cau (Arecaceae). Cọ dầu, Lá nón, Trà là cảnh,
QUI TRÌNH XỬ LÝ VÀ GIEO HẠT HOA VIOLET
Xử lý hạt

23
- Ngâm nước lạnh 2-4giờ, ngâm hạt trong nước 40
o
C sau 24giờ vớt rửa 3 lần
bằng nước lạnh và để ráo hạt.
- Ủ vào thùng và bao tải 24giờ sau đem rửa sạch chua và ngâm trong nước lạnh
24 giờ, sau đó vớt hạt đem ra ủ lại, cứ như vậy 10-12ngày sau hạt nứt nanh và đem
gieo.

Gieo hạt
Nên gieo hạt nứt nanh trên cát được xử lý bằng Formol 40% pha với nồng độ
2-3% phun vào cát và đậy kín bằng nilon 3-5ngày. Sau đó 10ngày thì tiến hành gieo
hạt nứt nanh, sau đó tưới bằng bình phun thật nhẹ nhàng, sau 30ngày thì ra ngôi cây
con.
4.2. Giâm, chiết, tách chồi
* Chiết cành
Là một biện pháp nhân giống vô tính áp dụng lâu đời trong dân gian. Cành
được đắp đất sau khi khoanh vỏ, ra rễ trở thành một cơ thể sống độc lập. Cưa cắt
khỏi cây mẹ đem trồng và trở thành cây trồng mới.
Uu điểm
- Nhân giống nhanh (có thể tạo ra cây Bonsai tự nhiên).
- Cơ bản duy trì được đặc tính các tính trạng của mẹ.
- Cây chiết nhanh ra hoa kết quả.
Nhược điểm
- Làm cho cây mẹ bị suy yếu và thoái hoá dần theo thời gian
- Cây mẹ dễ bị nhiễm bệnh, đặc biệt là các bệnh virus, nấm.
Kỹ thuật chiết
- Chọn cây mẹ tốt: Cây mẹ phải được chăm sóc chu đáo, bón phân và phòng
trừ sâu bệnh, bón một lần phân thúc trước khi chiết cành ít nhất 1-1,5 tháng đối với
cây lâu năm và khoảng 20ngày đối với cây ngắn ngày.
- Chọn cành để chiết: Cành phải tốt và chọn trên cây mẹ tốt.
+ Chọn những cành non, bánh tẻ có tuổi từ 6-12 tháng tuổi.
+ Chọn những cành ở ngoài bìa và lưng chừng tán, cấp cành từ 3-4 là tốt.
+ Chọn những cành màu sắc xanh, tốt, ít sâu bệnh, có các cành nhánh theo ý
muốn tạo dáng thế sau này và tán cây cân đối.
+ Kích thước gốc và cành phụ thuộc vào mục đích chiết. Thông thường đường
kính cành 0,4-0,6cm, dài cành không quá 25-40cm đối với cây làm giống ngắn
ngày.
- Nguyên liệu bó bầu:

+ Mùn cưa ngâm trong nước vôi trong thời gian 24giờ rửa sạch, phơi khô đem
dùng dần.
+ Rễ bèo tây phơi khô, sau đó nhúng ẩm quấn hai vòng.
+ Dùng đất bột sạch ở độ sâu trên 10cm ngay dưới gốc cây mẹ, ít mùn, đất nhẹ,
đem trộn với rơm sạch băm nhỏ làm ẩm 60-70%.
+ Mảnh Polyetylen (P.E) và giây buộc nilon hoặc lạt tre mềm.

24
- Khoanh vỏ: Dùng dao sắc khoanh đến gỗ khoanh thứ nhất sau đó chuyển vị
trí khoanh vỏ thứ hai có khoảng cách bằng 1,5-2,0 lần đường kính cành.
- Bó bầu chiết: Sau khi có vật liệu bó ta tiến hành bó nguyên vật liệu bằng giấy
PE, bầu to hoặc nhỏ tuỳ thuộc vào độ lớn cành chiết, dùng lạt tre mềm hay dây buộc
nilon cột chặt hai đầu.
- Chăm sóc cây mẹ sau khi chiết: Cây mẹ cần phải được chăm sóc tốt.
- Cắt cành đem ươm: Khi thấy rễ trong bầu chiết từ màu trắng đục chuyển sang
màu ngà thì cắt bầu chiết nhẹ nhàng, sau đó chuyển cành chiết vào vuờn ươm (kéo
dài 2-10 tháng) thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào đặc điểm sinh thái của cây và
điều kiện thời tiết của thời gian hạ cành chiết.
- Xử lý chất điều tiết sinh trưởng: Có thể xử lý các loại chất sau để kích thích
cành chiết ra nhiều rễ.
+ [α NAA (Naptilen axetic) + IβA (βindol axetic)] tạo C
2
H
2
.
+ Sử dụng α NAA có nồng độ từ 2000-8000ppm.
+ Cây nhựa mủ nhiều như Ngọc Lan, bạch Lan, Lan Tiêu, nên sử dụng hỗn
hợp 1/2 α NAA + 2/3 IβA ở nồng độ đã pha.
- AIA (Acidindolitaxtic) = IA (0,1-10 mg/lit).
- Một số sản phẩm chất kích thích sinh trưởng ngoại nhập: Đặc đa thu, Diệp

diện Bảo (TQ), Atonik (Hồng Kông) NPK Thái Lan, Complexsalt,
- Một số sản phẩm chất kích thích sản xuất trong nước: Komix, Vikika,
Biofact, Bitonic, Biofe, Humat, vi lượng Biomix, Biofact, HVP, TOBA, Bioted,
CSF, kích phát tố Thiên Nông, Supe Địa nông, Agritonic,
- Thời vụ chiết cành: Có thể chiết quanh năm như các cây họ phụ cam, quýt.
hoa hồng chiết vào các tháng 4, 5, 6. Các loại cây khác như: Mai, đào, quất, nên
chiết vào giai đoạn chuyển nhựa của cây và chú ý tránh các thời kỳ cây ra hoa, quả.
* Giâm cành
Là phương pháp nhân giống vô tính. Người ta cắt rời một đoạn cành, một đoạn
thân hay một đoạn rễ tác động một số biện pháp kỹ thuật (như điều khiển nhiệt độ,
ẩm độ, hoá chất) đoạn cành, ra rễ mọc mầm thành một cá thể riêng biệt sống độc
lập với cơ thể mẹ, sinh trưởng và phát triển ra hoa bình thường. Dưới tác động của
các biện pháp kỹ thuật phần vết cắt của đoạn cành cắm trong giá thể. Dưới ảnh
hưởng của các chất điều tiết sinh trưởng nội sinh hoặc ngoại sinh, phần vết cắt tiến
hành hai quá trình phân chia tế bào song song với nhau.
Quá trình một: Là giai đoạn phân chia tế bào phản phân hoá tạo thành mô sẹo
(callus).
Quá trình hai: Dưới tác động của một số chất điều tiết sinh trưởng tác động
như một tín hiệu di truyền, truyền thông tin từ đỉnh sinh trưởng xuống tác động vào
callus phân chia hình thành rễ, đó là giai đoạn phân hóa (song song với quá trình
phân hoá rễ là quá trình phân hoá mầm).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×