Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Đề tài nghiên cứu: Văn miếu quốc tử giám ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 47 trang )

Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
Đề tài nghiên cứu: Văn miếu
Đề tài nghiên cứu: Văn miếu
quốc tử giám
quốc tử giám
SVTH: Phạm Bá Tuân
1
1
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Quốc Tử Giám của thời phong kiến, chúng ta luôn xem là sản phẩm sáng
tạo của nền nho học Trung Hoa. Ở Việt Nam, cách đây gần 10 thế kỷ Quốc Tử
Giám đã được thành lập vào đầu triều Lý. Các triều đại về sau vẫn kế tục và
quan tâm nhiều hơn về ngôi trường này. Tuy nhiên, cho tới nay diện mạo một
Quốc Tử Giám như thế nào thì chỉ đến cố đô Huế người ta mới có thể “tận mục
sở thị”. Đó chính là lý do để Quốc Tử Giám Huế trở thành một công trình kiến
trúc lịch sử độc hiếm ở nước ta.
Trải qua bao thời kỳ lịch sử, chế độ phong kiến sụp đổ, sự xâm lược của
thực dân phương Tây,… Quốc Tử Giám vẫn giữ được nét đặc trưng rất riêng
của một “trường Đại học”, một trung tâm giáo dục phong kiến triều Nguyễn.
Nếu ai đã từng đến Huế, đến với sông Hương, núi Ngự Bình thơ mộng mà chưa
bước chân vào Quốc Tử Giám Huế, người ấy đã quên đi một chân chứng lịch
sử về một nền giáo dục trung – cận đại của nước nhà. Còn những ai chưa một
lần đến với Huế mộng, Huế mơ và có ý nghĩ sẽ một lần ghé Huế thì hãy vào
Quốc Tử Giám Huế, nơi gợi lại cảnh đèn sách, học hành truyền thống của tổ
tiên. Quốc Tử Giám Huế với bao điều bí ẩn của lịch sử. Các sử gia tại Huế đã
SVTH: Phạm Bá Tuân
2
2


Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
dày công tìm hiểu và nghiên cứu. Xin được mượn phép sử dụng tài liệu nghiên
cứu của một số nhà sử học Đại học Huế về vấn đề Quốc Tử Giám Huế.
2. Lịch sử đề tài nghiên cứu
Quốc Tử Giám là vấn đề lịch sử được các nhà sử học từ xưa đến nay hết
sức quan tâm nghiên cứu. Trong khoảng hơn một thập niên trở lại đây, Quốc
Tử Giám Huế đã được các nhà sử học Huế chú trọng nghiên cứu. Nhiều bài
viết về Quốc Tử Giám được đăng trên báo nghiên cứu lịch sử : Huế xưa và nay
trong các số 55, 63, 77, 79 hay trong cuốn : Kỷ yếu hội thảo khoa học “700
năm Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế” do Hội khoa học lịch sử tỉnh
Thừa Thiên Huế biên tập.
Nói chung, Quốc Tử Giám Huế từ xưa đến nay luôn nhận được sự quan
tâm không chỉ của các nhà nghiên cứu lịch sử ở Huế và khắp cả nước mà còn
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nước ngoài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính trong đề tài là tìm hiểu về Quốc Tử Giám Huế.
Phạm vi nghiên cứu đề tài là tìm hiểu lịch sử hình thành, kiến trúc, hệ
thống văn bia tiến sĩ, những giá trị và hiện trạng của văn miếu Quốc Tử Giám.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu về Quốc Tử Giám Huế tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu lịch sử như điền giả, tìm hiểu tài liệu… về Quốc Tử Giám.
5. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương :
Chương 1 : Chính sách văn hóa giáo dục dưới triều Nguyễn
Chương 2 : Văn miếu Quốc Tử Giám dưới triều Nguyễn ở Huế
Chương 3 : Hiện trạng Văn miếu Quốc Tử Giám và một số đề xuất giải pháp
SVTH: Phạm Bá Tuân
3
3
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CHÍNH SÁCH VĂN HÓA GIÁO DỤC
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
1.1 Không gian văn hóa Huế
Xứ Thuận Hóa được diễn rộng ra từ nam đèo Ngang đến bắc sông Thu
Bồn, một dải đất mênh mông quá ư là rộng – Nay hẹp lại, nói gọn hơn về một
xứ Huế sâu lắng, đẹp và thơ. Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử, chữ
Huế âm Huế trong ngôn ngữ Chàm có nghĩa là thơm, hương thơm, được gắn
với con sông thơm chảy qua giữa lòng thành phố. Cuộc địa Huế xa xưa vốn chỉ
là mảnh đất biên viễn, từng là tiền phương của Đàng Ngoài khi chúa Trịnh vượt
sông Gianh, rồi lại là hậu phương của Đàng Trong khi chúa Nguyễn tiến xuống
sông Tiền, sông Hậu. Dưới thời Pháp thuộc, theo thiết chế đô thị Tây phương
Huế trở thành thị xã; rồi lên thành phố đô thị loại 3, sau là đô thị loại 2; mới
đây vào ngày 03 tháng 08 năm 2004, tỉnh ủy Thừa Thiên Huế ra nghị quyết
nâng cấp đô thị, giao cho ủy ban nhân dân tỉnh hoàn chỉnh hồ sơ trình chính
phủ, đưa Huế vượt lên tầm vóc của thành phố loại 01 trực thuộc tỉnh và trở
thành hiện thực vào ngày 24 tháng 8 năm 2005 bằng quyết định số 209 của Thủ
tướng Chính phủ. Điều này hoàn toàn hợp lý khi Huế đã ở vào vị trí tương
đồng, bởi có những mặt vượt xa qua các thành phố loại 01 khác. Vị thế ấy, mà
từ lâu đã khiến cho nhiều người Việt Nam vẫn xem Huế là một trong sáu thành
phố lớn của đất nước.
Huế là thành phố có nhiều sông ngòi, chùa chiền, am điện với nhiều loại
hình lễ hội dân gian. Huế có cảng cổ Thanh Hà, phố cổ Bao Vinh thời các chúa;
lại có khu phố cổ Gia Hội, Chi Lăng thời các vua. Phố xưa ấy là phố buôn với
những dãy phố chạy dài theo sông Hương thường gọi là các hàng. Là thành phố
nhưng bản chất Huế gần thôn quê, có nhiều phủ đệ, nhà thờ xen giữa những
SVTH: Phạm Bá Tuân
4
4
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng

ngôi làng. Huế chất chứa trong mình sức sống mãnh liệt từ cội nguồn của nhiều
thành tố văn hóa, để làm nên một diện mạo đặc sắc của một tiểu vùng được gọi
bằng cái tên : Văn hóa Huế !
Huế được thiên nhiên biệt đãi về cảnh quan, phong thủy; đồi núi nối nhau
như rồng cuộn hổ ngồi chầu về tận đồng bằng. Sông Hương, con sông biên
viễn, con sông tình yêu, con sông định mệnh, con sông thi ca, hội họa uốn mình
qua ghềnh thác mà vẫn tải nặng phù sa văn hóa tâm linh dòng sông chảy vào
lòng thành phố. Chính nhờ chiều sâu ấy mà khuôn mặt vốn đã diệu kỳ của kiến
trúc kinh thành Huế lại càng kỳ diệu hơn.
Huế mang trên mình cố đô Đại Việt đồng thời cũng cõng luôn vị trí kinh
đô Phật giáo Việt Nam thứ 2 sau Yên Tử. Huế gánh trên đôi vai gầy sứ mệnh
một khối lượng di sản văn hóa dân tộc, trước khi nhân lọa xếp thêm cho Huế là
di sản văn hóa thế giới. Huế đã, đang và sẽ là thành phố đặc trưng của lễ hội –
thành phố Festival văn hóa của Việt Nam. Mà đã như thế, hiển nhiên Huế phải
được hưởng một quy chế đặc biệt, của một thành phố đặc biệt, như kiểu Kyôtô
của Nhật Bản, Chiềng Mai của Thái Lan. Nói cách khác, muốn khai thác, phát
triển Huế trong hướng bảo tồn thì rất cần có một chính sách quy hoạch đặc biệt,
xuất phát từ cách nhìn đặc biệt.
Chiến tranh đã lùi xa và Huế cũng đã trải qua thời kỳ “thành phố quan lại,
thành phố hoang tàn”. Huế đang chuyển mình hội nhập rướn sức vươn lên để
kịp trở thành một đô thị văn hóa đặc trưng, một thành phố đặc biệt và thật sự
hiện đại của Việt Nam.
1.2 Lịch sử triều Nguyễn
Sau khi đánh thắng quân Tây Sơn, ngày 2 tháng 5 năm 1802 Nguyễn Ánh
lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long lập ra triều Nguyễn tồn tại được 143
năm, trải qua 13 đời vua.
SVTH: Phạm Bá Tuân
5
5
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng

Các vua nhà Nguyễn
Các vua nhà Nguyễn


:
:
Miếu hiệu
Miếu hiệu
Thụy hiệu
Thụy hiệu Tên Năm
Niên hiệu
Niên hiệu Lăng
Thế Tổ Cao Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ánh
1802
1802-
1820
1820
嘉隆
Gia Long
Gia Long
Thiên Thọ
Lăng
Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế Nguyễn Phúc Đảm
1820
1820-
1841
1841
明命
Minh
Minh

Mạng
Mạng
Hiếu Lăng
Hiếu Lăng
Hiến Tổ
Chương Hoàng
Đế
Nguyễn Phúc Miên Tông
1841
1841-
1847
1847
紹治
Thiệu Trị
Thiệu Trị
Xương Lăng
Dực Tông Anh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Hồng Nhậm
1847
1847-
1883
1883
嗣德
Tự Đức
Tự Đức
Khiêm Lăng
Cung
Tông
Huệ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ưng Ái
1883
1883

育德
Dục Đức
Dục Đức
An Lăng
An Lăng
Nguyễn Phúc Hồng Dật
1883
1883
協和
Hiệp Hòa
Hiệp Hòa
Giản Tông Nghị Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ưng Đăng
1883
1883-
1884
1884
建福
Kiến Phúc
Kiến Phúc
Nguyễn Phúc Ưng Lịch
1884
1884-
1885
1885
咸宜
Hàm Nghi
Hàm Nghi
Cảnh
Tông
Thuần Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ưng Kỷ

1885
1885-
1889
1889
同慶
Đồng
Đồng
Khánh
Khánh
Tư Lăng
Nguyễn Phúc Bửu Lân
1889
1889-
1907
1907
成泰
Thành Thái
Thành Thái
An Lăng
An Lăng
Nguyễn Phúc Vĩnh San
1907
1907-
1916
1916
維新
Duy Tân
Duy Tân
An Lăng
An Lăng

Hoằng
Tông
Tuyên Hoàng Đế Nguyễn Phúc Bửu Đảo
1916
1916-
1925
1925
啟定
Khải Định
Khải Định
Ứng Lăng
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
1926
1926-
1945
1945
保大
Bảo Đại
Bảo Đại
SVTH: Phạm Bá Tuân
6
6
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
Vua Gia Long (
1762
1762-
1820
1820) là con trai thứ ba của
Nguyễn Phúc Luân
Nguyễn Phúc Luân, lên

ngôi năm
1802
1802, có 13 con trai và 18 con gái. Vua Gia Long cũng là người đặt
tên nước là Việt Nam.
Vua Minh Mạng (
1791
1791-
1841
1841) là con trai thứ tư của vua Gia Long, lên ngôi
năm
1820
1820 (ngày 1 tháng giêng âm lịch) vì người anh cả là hoàng tử
Nguyễn
Nguyễn
Phúc Cảnh
Phúc Cảnh lúc đó đã chết (các anh thứ hai và thứ ba chết lúc còn nhỏ), có 78
con trai và 64 con gái. Vua Minh Mạng cũng là người đặt tên nước là Đại Nam.
Vua Thiệu Trị (
1807
1807-
1847
1847) là con trai lớn của vua Minh Mạng, lên ngôi
năm
1841
1841 (ngày 1 tháng giêng âm lịch), có 29 con trai và 35 con gái.
Vua Tự Đức (
1829
1829-
1883
1883) là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị, lên ngôi

năm
1847
1847, vì không có con nên nuôi 3 người cháu. Cả ba sau đều lên làm vua:
Dục Đức, Đồng Khánh và Kiến Phúc.
Vua Dục Đức (
1852
1852-
1883
1883) là con trai trưởng (con nuôi) của vua Tự Đức,
lên ngôi ngày 20 tháng 7 năm
1883
1883 nhưng 3 ngày sau bị
Nguyễn Văn Tường
Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết
Tôn Thất Thuyết truất phế rồi giết chết, có 11 con trai và 8 con gái. Dục Đức,
vì ở trên ngôi có 3 ngày, không có thời giờ chọn niên hiệu; Dục Đức là tên của
dinh thự của vị vua này. Miếu hiệu và thụy hiệu về sau mới được tôn xưng.
Vua Hiệp Hòa (
1847
1847-
1883
1883) là con trai thứ 29 của vua Thiệu Trị (tức là em
của vua Tự Đức), lên ngôi ngày 30 tháng 7 năm
1883
1883 nhưng 4 tháng sau bị
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết chết, không có con.
Vua Kiến Phúc (
1869
1869-

1884
1884) là con trai thứ ba (con nuôi) của vua Tự Đức,
lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm
1883
1883 nhưng 8 tháng sau thì bị bệnh rồi chết, mọi
việc đều được lo bởi Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, không có con.
Vua Hàm Nghi (
1872
1872-
1943
1943) là cháu gọi vua Tự Đức là chú (có cùng cha
với vua Đồng Khánh nhưng vua Đồng Khánh là con nuôi của vua Tự Đức), lên
ngôi năm
1884
1884 nhưng bị Pháp truất phế 1 năm sau đó vì mưu lược chống họ, có
1 con trai và 2 con gái. Sau khi bị truất phế vua Hàm Nghi tiếp tục việc chống
Pháp nhưng bị bắt vào năm
1888
1888 và bị Pháp đày sang
Algérie
Algérie.
SVTH: Phạm Bá Tuân
7
7
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
Vua Đồng Khánh (
1864
1864-
1889
1889) là con trai thứ hai (con nuôi) của vua Tự

Đức, lên ngôi năm
1885
1885 nhưng sau 3 năm thì bị bệnh rồi chết, có 6 con trai và
3 con gái.
Vua Thành Thái (
1879
1879-
1955
1955) là con trai thứ bảy của vua Dục Đức (người
làm vua chỉ trong 3 ngày), lên ngôi năm
1889
1889 nhưng bị Pháp truất phế vào năm
1907
1907 vì chống lại họ, có 16 con trai và nhiều con gái. Vào năm 1916 vua Thành
Thái (cùng con là vua Duy Tân) bị Pháp đày sang đảo Réunion, nhưng được
đón trở lại Việt Nam vào năm
1947
1947.
Vua Duy Tân (
1899
1899-
1945
1945) là con trai thứ năm của vua Thành Thái, lên
ngôi năm 1907 nhưng chỉ lo việc chống Pháp nên bị họ truất phế và đày sang
đảo
Réunion
Réunion (cùng với cha là vua Thành Thái) vào năm
1916
1916, có 3 con trai và
1 con gái.

Vua Khải Định (
1885
1885-
1925
1925) là con trai trưởng của vua Đồng Khánh, lên
ngôi năm
1916
1916 với ý định hòa hoãn với Pháp, chỉ có 1 con trai.
Vua
Bảo Đại
Bảo Đại (
1913
1913-
1997
1997) là con trai độc nhất của vua Khải Định, lên ngôi
năm
1926
1926 trong khi đang du học tại Pháp nên về Việt Nam 6 năm sau đó, có 2
con trai và 3 con gái. Ngày
11 tháng 3
11 tháng 3 năm
1945
1945, triều đình hoàng đế Bảo Đại
tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm
1884
1884, khôi phục chủ
quyền Việt Nam. Nhà sử học Trần Trọng Kim được bổ làm
Nội các Tổng
Nội các Tổng
trưởng

trưởng, giao nhiệm vụ thành lập
nội các
nội các vào ngày 17 tháng 4 và đặt quốc hiệu

Đế quốc Việt Nam
Đế quốc Việt Nam. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30 tháng 8 năm
1945
1945 và giữ
chức "Cố vấn tối cao" cho chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành
lập, nhưng chẳng bao lâu lại từ chức đi sống tại các nước ngoài. Bảo Đại trở lại
Việt Nam
Việt Nam với chức vụ Quốc trưởng
Quốc gia Việt Nam
Quốc gia Việt Nam vào năm
1948
1948 nhưng
lại bị mất quyền sau một cuộc trưng cầu dân ý trong năm
1956
1956.
SVTH: Phạm Bá Tuân
8
8
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
1.3 Những tư tưởng văn hóa, chính sách giáo dục của triều Nguyễn
* Tư tưởng văn hóa:
* Tư tưởng văn hóa:
Giáo dục là bộ phận quan trọng nhất làm nên cái gọi là sự di truyền xã hội.
Trong đời sống sinh học ngoài sự di truyền qua cơ chế mã hóa vào bên trong cơ

thể, sự truyền thụ kinh nghiệm sống và phát triển giữa các thế hệ trong một
quần thể thường chỉ diễn ra giữa những cá thể có quan hệ gần gũi về mặt huyết
thống, chỉ có thể là sự truyền thụ trực tiếp và sự truyền thụ ấy chỉ đóng một vai
trò thứ yếu đối với sự tồn tại tiếp tục của các cá thể hay thế hệ tiếp theo. Con
người và xã hội không như vậy.
Giữa rất nhiều định nghĩa nhằm tới sự khu biệt giữa loài /con người và các
loài / các cá thể sinh học khác, giữa xã hội loài người với các quần thể sống
khác, sự trở thành người nhờ vào những thiết chế và những nguyên lý của nền
giáo dục xã hội đóng vai trò nổi bật. Kinh nghiệm sống ở con người đã từng
bước được gián tiếp hóa trở thành tri thức, đến lượt nó tri thức lại được phân
tầng chia lớp trở nên phức tạp, phong phú và trừu tượng nhờ vào sự phát triển
vượt bậc của trước hết là lời nói và tiếp theo là chữ viết. Sự phát triển của khả
năng nói đã là một trong những nguyên động lực đẩy con người vượt xa khỏi
tồn tại đậm đặc hay thuần túy mang tính tự nhiên, tiến thêm bước nữa, chữ viết
là một chỉ dấu đặc trưng của một xã hội thoát ra khỏi tình trạng dã man đi về
phía xã hội văn minh và cũng là thuộc tính của một / những cá thể được coi là
“có giáo dục”, “có văn hóa”.
Căn cứ vào những thành tựu khảo cổ học những di chỉ có niên đại các thế
kỷ IX -X cùng những sử liệu thành văn tản mạn, những mảnh vụn của “ký ức
tập thể” tồn tại trong folklore, có thể khẳng định rằng vào đầu thế kỷ thứ X ở
các địa điểm mang tính chất phủ lỵ trên đất Giao Châu đã xuất hiện các cơ sở
giáo dục và đào tạo. Ngoài những loại trường lớp tạo nên bởi bộ phận cư dân
gốc Hán và cũng được sử dụng chủ yếu để phục vụ cho việc đào tạo con em
của bộ phận cư dân này, cư dân gốc Việt nhất là những người thuộc tầng lớp
SVTH: Phạm Bá Tuân
9
9
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
trên hẳn đã coi nhà chùa như là một môi trường quan trọng hàng đầu để tìm
kiếm chữ nghĩa, tri thức và học vấn.Sau một khoảng thời gian trên dưới một thế

kỷ liên tục biến động về tổ chức và cơ cấu quyền lực chính trị, kể từ sau thời
điểm giành lại được độc lập (938), nhu cầu xây dựng một xã hội có bản sắc
riêng về mọi phương diện và khẳng định cho được sự độc lập, ổn định lâu dài
cả về lãnh thổ lẫn ý thức quốc gia đã tất yếu làm nảy sinh một loại hoạt động ở
quy mô nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Văn Miếu và Quốc tử giám là hai “cơ quan” khác nhau tuy có quan hệ mật
thiết với nhau. Chính vì có mối quan hệ mật thiết, lại được tạo lập nên gần như
đồng thời và có vị trí ngay bên cạnh nhau làm thành một quần thể kiến trúc liên
hoàn nên không chỉ trong cách định vị dân gian mà cả trong sự hình dung của
giới quan chức, của các bậc “cao khoa hiển hoạn” nữa, không phải chỉ đối với
người ngày nay mà cả đối với người đương thời, khi những “cơ quan” này còn
thực thi đúng chức năng của chúng, dường như đó chỉ là “một địa chỉ”.
Triều Nguyễn đã để lại cho lịch sử một di sản văn hóa khổng lồ. Riêng số
sách do triều Nguyễn viết ra trong 2/3 thế kỷ XIX còn nhiều hơn toàn bộ số
sách của 300 năm trước đó gộp lại.
* Chính sách giáo dục:
Về quy trình và chương trình giảng dạy vào những thập niên đầu thế kỷ
XIX tại Quốc Tử Giám, Nội các triều Nguyễn cho biết khái quát như sau:
“Hằng năm cứ đầu xuân sau ngày khai ấn một ngày thì Quốc Tử Giám khai
giảng. Cuối năm sau ngày xếp ấn một ngày thì nghỉ giảng. Đến ngày khai giảng
thì đặt bài vị Tiên sư [Khổng T] ở Di Luân Đường, quan Quốc Tử Giám đem
học trò làm lễ yết cáo… Quan Quốc Tử Giám làm lễ yết cáo xong, vẫn mặc áo
mũ ngồi bày hàng ở giảng đường, các sinh viên đều mặc áo đội khăn cùng lạy.
Làm lễ xong thì lên trường nghe giảng”.
“Chương trình dạy học thì chia theo ngày lẽ ngày chẵn, trước giảng kinh
truyện, sau giảng sách tử, sử, tính lý. Tháng nào cũng cứ các ngày mồng 3,
SVTH: Phạm Bá Tuân
10
10
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng

mồng 9, 17, 25 chiểu theo phép thi ra đầu bài cho học trò tập làm văn. Kỳ nào
cũng đem quyển sách văn ra bình duyệt…”.
Quốc Sử Quán cũng đã ghi chép như vậy về “phép giảng dạy” và “phép
khảo thi” của thầy trò Quốc Tử Giám. Nhưng các tác giả trong sách “Đại Nam
Thực Lục” cho biết thêm một chi tiết là việc học hằng ngày và làm bài tập hàng
tháng như thế đã được áp dụng từ năm 1826 dưới thời Minh Mạng.
Tất nhiên các quan giáo bây giờ không bị bắt buộc phải biên soạn một
giáo trình riêng rẽ cho từng cấp học hoặc phải theo một thời khóa biểu cụ thể
và chặt chẽ nào cả. Như bao thế hệ đi trước trong lịch sử giáo dục nhà nước,
các thầy vẫn tiếp tục truyền thụ cho sinh viên trong trường những nội dung
mang tính chất nhân văn và đạo lý phương Đông thông qua các sách giáo khoa
truyền thống có từ hàng ngàn năm trước. Chủ yếu là những sử sách sau đây:
- Tứ thư: Đại học, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung.
- Ngũ kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu.
- Lịch sử: gồm Bắc sử qua bộ “Sử ký” của Tư Mã Thiên và “Đại Việt Sử
ký Toàn thư” của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên…
- Luật học: bộ “Hoàng Việt luật lệ”, còn gọi là bộ luật Gia Long.
Ngoài ra, sinh viên còn phải nghiền ngẫm các học thuyết của “Bách gia
chư tử”, phải học Đường thi, Tống thi…
Các thầy cũng phải dạy cho họ quy cách hành văn theo thể thơ, phú, đối,
chiếu, chế, biểu, văn sách… để đáp ứng cho nhu cầu cao nhất là đi thi Hương,
thi Hội. Các thể văn mang tính trường thi ấy được đặt nặng trong trường thi
giáo dục ngày xưa.
Riêng hai thành phần Tôn sinh và Ấm sinh đã được nhà trường quan tâm
chu đáo hơn trong việc dạy dỗ. Vào năm 1852, các quan ở Quốc Tử Giám có
dâng lên cho vua Tự Đức trong một số vấn đề liên quan đến việc học tập của
các sinh viên thuộc hai thành phần này:
SVTH: Phạm Bá Tuân
11
11

Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
- Về Tôn sinh: Trong thời gian đầu, hàng ngày họ nghe giảng kinh, truyện,
rồi học lịch sử. Sau đó một thời gian, tùy theo khả năng chuyên môn và trình độ
học vấn, họ được chia làm ba hạng. Hạng thứ nhất là những người chuyên trị
một sách kinh, hoặc một sách truyện, hặc một sách sử. Hạng thứ hai là những
người sinh viên kiêm trị một sách kinh và một sách sử, hoặc một sách truyện,
hoặc một sách sử. Hạng thứ ba là những Tôn sinh mới vào học, mỗi buổi sáng
lên lớp hỏi han ý nghĩa từng chữ từng câu, rồi sau đó mới nghe giảng sách. Dù
thuộc hạng nào, họ cũng phải hiểu rõ ý nghĩa từng chữ từng câu, rồi sau đó
“mới tiện họp nhau cùng học”. Hằng tháng, họ phải trải qua hai lần kiểm tra
vào ngày mồng 3 và ngày 18. Các quan Tế tửu và Tư nghiệp cùng họp mặt để
xét hỏi họ về những nội dung đã học trong tháng. Ai trả lời “mạch lạc thông
suốt, nghĩa lí rõ ràng, thì ghi tên làm trạng chăm học. Nếu tên nào không thuộc
đọc được chữ và câu,không thông hiểu nghĩa lí, thì đánh roi để làm răn…”
- Về Ấm sinh : Hằng ngày, các Ấm sinh nghe giảng về kinh truyện và sử
theo quy đinh ngày chẵn ngày lẻ. Người nào tự tiện vắng mặt 5 ngày thì bị
đánh roi “để quở trách”;nếu bỏ học 10 ngày thì bị ngưng ấp học bổng 1
tháng.”Mỗi tháng 6 kì làm văn,không bỏ thiếu kỳ nào, văn lí hơi thông thoát là
hạng chăm học; nếu chỉ làm văn 1,2 kỳ, thì đánh roi quở trách. Rồi đến cuối
năm hội tất cả các Ấm sinh chua qua hội đồng xét, đem hạch 1 lần để sự tiện
ích thế nào”.
Sau khi đọc những lời đề nghị vừa nêu, vua Tự Đức nói ràng nên phân
biệt độ tuổi và thời gian học tập tại trường Giám của Tôn sinh và Ấm sinh để
định mức kiểm tra bài vở. Nhà vua “chuẩn bị cho người nào tuổi từ 20 trở lên,
đã học trường Giám đầy 3 năm, có thể làm đủ thể văn 4 kỳ mà dự được ưu bình
luôn, đều tâu lên để thưởg. Nếu chưa làm được…, đều đuổi về; còn ngoài ra
theo như lời bàn mà thi hành”
Về tuổi tác và thời lượng học tập của sinh viên trường Giám, họ không
hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn như vào năm 1829, khi một số Ấm sinh (bấy
SVTH: Phạm Bá Tuân

12
12
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
giờ còn là Học sinh) bắt đầu vào học “thì tuổi tác có cao có thấp, sức học có
cao có thấp”, các Giám thần phải “xét thật, ai kiêm thông văn thể tứ trường
hoặc tam trường là bực nhất, nhị trường hoặc nhất trường là bực nhì, chưa
thông văn thể là bậc ba…Học sinh bậc nhất, hạn học 2 năm, bực nhì 3 năm,
bực ba 4 năm…Nếu đã mẵn hạn 2,3,4 mà học tập chưa đủ văn thể bốn trường
cùng là chưa thi chưa trúng [thi Hương, thi Hội], mà kỳ thảo trong 3 năm sau
hạn đều không được môt ưu, một bình, thì cách cho ra”.
Như vậy, đã có khi thời lượng tối đa mà sinh viên học tập tại Quốc Tử
Giám là 4 năm. Nhưng, về sau, thời lượng ấy rút bớt xuống còn 3 năm, rồi
cuối cùng, tối đa chỉ còn 2 năm.
Trong thời gian theo đòi bút nghiêng tại trường Giám, nếu sinh viên nào
có đủ trình độ về học vấn thì có thể dự khoa thi Hương, và nếu đậu Cử nhân thì
dự tiếp khoa thi Hội để lấy học vị Tiến sĩ, nhưng, nếu chỉ đậu Tú tài hoặc thi
hỏng thì vẫn tiếp tục học tại cơ sở giáo giục này
Vì đây là nơi mà việc dạy dỗ và việc học hành có qui củ và bài bản nhất
trong nước, cho nên, trong các khoa thi Hương thi Hội, số thí sinh của trường
chiếm tỉ lệ đỗ khả quan. Vừa qua, chúng tôi đươc nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh
cung cấp một số tư liệu mà anh đã sưu tầm được, liên quan đến kết quả một
cuộc thi Hương, trong đó các sinh viên trường Giám dự thi. Đây là một văn bản
viết tay trên tờ giấy hồng điều cỡ 23,3cm *31,5cm, xuất xứ từ Quốc Tử Giám,
nội dung cho biết khoa thi Hương năm Ất Mão, Duy Tân thứ 9, tức là năm
1915, nhà trường có được 14 sinh viên đậu Cử nhân và 10 sinh viên đậu Tú tài.
Họ được nhà trường khen thưởng để khuyến khích những sinh viên đi thi các
khoa sau. Cụ thể là các Cử nhân và Tú tài sau này đây:
- 14 người đậu Cử nhân: 1. Lê Nguyên lượng (người Quảng Trị; sau đậu
phó bảng năm 1919), 2. Tô Tế Mỹ (người Thanh Hóa), 3.Nguyễn Đôn Tín
(người Nghệ An ), 4.Vũ Đức Dương (người Thanh Hóa ), 6. Tôn Thất Huy

(thuộc hệ 9 hoàng phái ), 7. Đinh Nho Khôn (người Hà Tĩnh ), 8. Ưng Mạnh
SVTH: Phạm Bá Tuân
13
13
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
(người thuộc Nguyễn Phước tộc ), 9. Cao Hữu Đàn (người Thừa Thiên ), 10.
Đoàn Đình Chi (người Hải Dương ), 11.Nguyễn Khoa Nghi ( người Thừa
Thiên ), 12. Phạm Nghĩ (người Hà Tĩnh ), 13. Nguyễn Thụ (người Quảng Trị ),
14.Từ Bộ Tư (người Hà Đông ).
- 10 người đậu Tú tài: 1. Lê Mai Đỉnh, Hồ Đắc Cư, Nguyễn Trong Đảng,
Phạm Loan, Lê Thích Thảng, Nguyễn Sử, Tào Ngọc Mai, Đặng Văn Cửu, Tôn
Thất Quang, Thái Văn Chánh.
Vì bấy giờ 24 sinh viên ấy đều học ở trường Giám tại Kinh đô, cho nên,
họ đều ứng thí tại trường thi Thừa Thiên. Ở Trường Thừa Thiên, khoa thi
Hương này (Ất Mão, 1915 ) có tất cả là 32 người đậu Cử nhân, trong đó, riêng
sinh viên Quấc Tử Giám chiếm đến 14 người, đạt được môt tỉ lệ khá cao.
Một nguồn tư liệu khác cho biết rằng “từ năm 1918, sau khi thành lập Hội
đồng hỗn hợp quản lí nhà trường, vua Khải Định cho soạn thỏa một chương
trình mới để dạy sinh viên Quấc Tử Giám. Theo đó thì những môn học có tính
cách từ chương, điển lệ dần dần bị loại bỏ và thay thế bằng những môn học như
Toán, Lí, Hóa, Vạn vật…Cũng từ năm 1918 bỏ thi chữ nho trên toàn cõi Việt
Nam thì một số nhũng giáo quan có tân học được bổ đến Quấc Tử Giám để
đảm nhiệm các môn như Pháp văn và Viêt văn… Nhà trường cũng chia chương
trình thành 3 niên khóa, có các kì nghỉ hè, nghỉ lễ đường hoàng”. Bấy giờ,
muốn thi vào Quấc Tử Giám, chỉ cần 2 điều kiện : một là phải có vưn bàng
Tiểu học ( Primaire ) và hai là phải có trình độ cở bản về chữ Hán. Và tất nhiên
là phải trải qua một khì thi nhập học gồm 2 giai đoạn : thi viết ( écrit ), rồi thi
vấn đáp ( oral ).
Phần thi viết gồm các môn : 1 bài “dictée” (viết chính tả ), 1 bài luận Pháp
văn, 1 bài toán Pháp, 1 bài lý Hóa, 1 bài vạn vật, 1 bài luận bằng chữ Hán, 1 bài

dịch Việt - Hán và 1 bài dịch Hán - Việt.
SVTH: Phạm Bá Tuân
14
14
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
Sau khi đủ điểm trong phần thi viết, thí sinh còn phải dự phần thi vấn đáp
về một số môn nói trên và có thêm cả môn “lecture” (bài tập đọc ) nữa. Tất
nhiên, bài “lecture” và bài “ dictée” đều bằng tiếng Pháp.
Trong mấy năm tại trường, sinh viên vẫn phải học một số môn truyền
thống như Luât, Kinh nghĩa, Thơ, Phú…sau khi đậu kỳ thi tốt nghiệp, họ được
bổ sung làm Thừa phái, Thông lại, Để lại ở Kinh đô Huế hoặc giữ chức Giáo
thụ, Huấn đạo tại các địa phương.
Đến giai đoạn sau cùng của Quốc Tử Giám dưới thời Bảo Đại, còn một số
thay đổi khác nữa về điều kiện nhập học và thời gian học tập của sinh viên.
Điều này có thể được chứng minh bằng hai văn bản cụ thể thuộc loại tư liệu
gốc liên quan đến việc học hành thi cử của Tôn sinh.
Văn bản 1: Bộ Lễ chứng nhận về việc xin dự vào hạng Tôn sinh ở trường Giám.
Phiên âm: Lễ Bộ vi bằng cấp sự. Cứ Miếu lang Ưng Phát bẩm tự phụng
chiếu Nghị định nội nhất khoản: Phàm Công tử tôn, tằng tôn, Tôn thất hạch
trúng Sở học văn bằng giả tưởng vi Tôn sinh hạng. Tư y phòng (Lạc Biên Quận
Công) tằng tôn Bửu Kế ( niên canh thập cửu tuế) ư Tây nhất thiên cửu bách
tam thập nhất niên lục nguyệt nhật hạch trúng giá bằng cấp, cụ sao đính hậu,
khẩn khất tương vi Tôn sinh hạng đẳng ngữ. Bổn Bộ chiếu tự, sức cứu lệ hợp
ứng y hợp hành bằng cấp chấp chiếu. Tu chí bằng cấp giả.
Hữu bằng cấp, Tôn sinh Bửu Kế chấp chiếu.
Bảo Đại thất niên nhị nguyệt thập bát nhật.
Dịch nghĩa: Bộ Lễ cấp giấy Chứng nhận. Căn cứ theo lời Bẩm trình của
Miếu lang Ưng Phát rằng chiếu theo một khoản trong Nghị định: Phàm Công
Tử, Công Tôn, Công tằng tôn, Tôn thất hạch đỗ văn bằng Sơ học sẽ xếp vào
hạng Tôn sinh. Nay Công tằng tôn Bửu Kế (19 tuổi) thuộc phòng đó (Lạc Biên

Quận Công) hạch đỗ bằng này vào ngày tháng sáu năm 1931 theo Dương lịch,
có bản sao đầy đủ đính kèm ở sau, để xin dự vào hạng Tôn sinh. Bộ chiếu theo
SVTH: Phạm Bá Tuân
15
15
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
lời xin, xét thấy hợp lệ, nên cấp giấy Chứng nhận để tiện dụng. Nay cấp giấy
Chứng nhận.
Trên đây là giấy chứng nhận. Tôn sinh Bửu Kế thi hành.
Ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 7 (tức là ngày 24 – 3 – 1932; đóng dấu:
Lễ Bộ chi ấn).
Văn bản 2: Bộ Quốc dân giáo dục cấp cho Giám sinh Bửu Kế văn bằng
thi đậu cuối khóa do Hội đồng Quốc Tử Giám tổ chức.
Phiên âm: Quốc dân Giáo dục Bộ vi bằng cấp sự. Tư tiếp Quốc Tử Giám
đệ trình bổn niên Hội đồng thiêu hạch thủ trúng danh sách cọng tam thập danh,
gian hữu Bửu Kế (Lạc Biên Quận Công phòng tằng tôn, sinh ư Tây nhất thiên
cửu bách thập tam niên nhị nguyệt sơ nhị nhật) dự tại trúng hạng đệ tam danh.
Kinh phụng chỉ chuẩn, lục tuân tại án, trừ án quán sức tuân ngoại, hợp hành
bằng cấp chấp chiếu. Tu chí bằng cấp giả.
Hữu bằng cấp, Giám sinh thiêu trúng Bửu Kế chấp chiếu.
Bảo Đại cửu niên ngũ nguyệt thập nhị nhật.
Dịch nghĩa: Bộ Quốc dân Giáo dục cấp giấy Chứng nhận. Nay tiếp đẹ
trình của Quốc Tử Giám viết rằng năm nay Hội đồng tuyển hạch lấy đỗ danh
sách tất cả 30 tên, trong đó có Bửu Kế (tằng tôn của phòng Lạc Biên Quận
Công; sinh ngày 2 – 2 – 1913 theo Dương lịch) trúng tuyển thứ ba thuộc bảng
hai. Đã được Chỉ chuẩn thuận và ghi chép vào hồ sơ. Ngoài ra, sức cho bằng
cấp hợp lệ cho tiện dụng. Cho nên ban bằng cấp vậy.
Trên đây là bằng cấp. Giám sinh trúng tuyển Bửu Kế thi hành (Đóng dấu:
Giáo dục).
Ngày 12 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 9 (tức là ngày 23 – 6 – 1934; đóng

dấu: Giáo dục Bộ ấn).
Qua nội dung của hai văn bản vừa nêu, chúng ta có thể rút ra một số ý
chính liên quan đến vấn đề đang đề cập:
SVTH: Phạm Bá Tuân
16
16
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
- Về điều kiện xin nhập học Quốc Tử Giám, ít nhất là đối với thành phần
Tôn sinh, nhà trường không còn đòi hỏi phải có bằng Tiểu học nữa, mà chỉ cần
có bằng Sơ học.
- Thời lượng học là 2 năm.
- Bấy giờ, vào những năm đầu thập niên, trong có chế tổ chức quản lý giáo
dục và đào tạo của triều đình, Quốc Tử Giám trực thuộc 2 Bộ: Bộ Lễ có thẩm
quyền chứng nhận cho “đầu vào” và Bộ Quốc dân chứng nhận cho “đầu ra”.
- Qua 2 văn bản trên đây, chúng ta còn biết thêm một thông tin không kém
phần quan trọng liên quan đến thời điểm ngừng hoạt động của Quốc Tử Giám.
Cũng theo nhà nghiên cứu Vĩnh Cao, thân phụ của anh là một sinh viên thuộc
khóa học cuối cùng của ngôi trường lịch sử này. Cùng khóa ấy, còn có 2 sinh
viên Lê Văn Hoàng và Hà Thúc Tấn. Họ đều đã sinh ra, lớn lên, học hành, làm
việc, rồi tạ thế tại cố đô triều Nguyễn. Lúc họ còn tại thế, đã may mắn diện kiến
không ít lần và đã học hỏi ở họ nhiều điều bổ ích. Riêng cụ Hà Thúc Tấn (sinh
năm 1907) là sinh viên Quốc Tử Giám chết sau cùng tại Huế vào năm 2003.
Nói thế để có thể tin rằng trường Quốc Tử Giám đã ngừng hoạt động vào
năm 1934.
Như vậy, kể từ khi thành lập vào năm 1803 dưới thời Gia Long đến thời
điểm đóng cửa vào năm 1934 dưới thời Bảo Đại, trường Quốc Tử Giám đã hoạt
động liên tục liên tục trong suốt 131 năm, trải qua tất cả 13 đời vua nhà
Nguyễn. Mục đích rõ ràng và xuyên suốt từ đầu đến cuối của cơ quan giáo dục
mang tính quốc gia này là đào tạo những quan lại, đặc biệt là những nho sĩ
thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh để phục vụ cho triều đình nói riêng và để làm

những việc ích quốc lợi dân nói chung. Cũng giống như bao triều đại trước đó
tại Trung Hoa và Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn trong ngót thế kỷ XIX đã
lấy những tư tưởng Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc. Tứ thư, Ngũ kinh
vẫn là sách gối đầu giường của bao thế hệ sinh viên đương thời. Việc xây dựng
SVTH: Phạm Bá Tuân
17
17
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
và mở mang Văn miếu sát bên Quốc Tử Giám vào năm 1808 càng cho thấy rõ
khuynh hướng sùng thượng nền triết học tu tề trị bình của đạo Khổng.
Nhưng với cuộc cách mạng kỹ nghệ bấy giờ đang diễn ra trên thế giới,
nhất là tại các nước Âu Mỹ, lối học “ tầm chương trích cú”, “chi hồ giả dã”…
ngày càng bộc lộ nhược điểm của nó. Chính vua Minh Mạng đã nhận ra được
sự yếu kém và lỗi thời của lối văn cử nghiệp trong nền giáo dục nước nhà ngay
từ năm 1823 và bảo các đình thần nên cải cách dần đi. Nhà vua nói rằng:
“Văn cử nghiệp làm lầm người ta đã lâu. Trẫm cho rằng chương vẫn
không nhất định. Nay văn cử nghiệp chỉ sâu nệ sáo cũ, lên mặt với nhau, đứng
riêng pha phái, nhân phẩm lấy đấy làm cao thấp, khoa trường lấy đấy làm đỗ
hỏng, học hành như thế, lạ gì nhân tài mỗi ngày một kém. Nhưng tập tục theo
nhau, khó mà thay đổi. Vài năm nay nên bàn thay đổi”.
Hơn nữa thế kỷ sau, vua Tự Đức lại càng ý thức được điều đó khi cho rằng
đám sĩ tử đang đắm đuối trong “mạt nghệ từ chương” và thơ văn phù phiếm;
nền giáo dục đào tạo thiếu thực dụng và vô bổ ấy cần phải được “cải cách ngay
đi”. Vào năm 1879, nhà vua đã nói với các sĩ tử khi họ tham gia kỳ thi Đình
trong “Ân khoa Kỷ Mão”:
“Ôi! Học là để đem dùng vào việc, há nên chuộng những lời phù phiếm…
Nhưng sao lại nay lần mai lữa, đắm đuối vào mạt nghệ từ chương, mà không
chịu lo nghĩ mưu kế giúp vua cứu dân, như thế thì sự học đối với sự làm, việc
chọn lấy đối với việc dùng, đều trái ngược nhau, và đó không phải là sự Trẫm
thường mong muốn. Trẫm vẫn muốn cải cách ngay đi, nhưng lại e trái với ý

kiến mọi người”.
Bấy giờ, một số sĩ phu tâm huyết cũng đã đề nghị nên cải cách nền giáo
dục nước nhà, và hướng đến cái học thực dụng. Trong bản điều trần “Tế cấp
bát điều” viết vào năm 1867 để dâng lên vua Tự Đức, Nguyễn Trường Tộ
(1830 – 1871) đã “phê phán lối học cũ một cách gay gắt và đề nghị đem vào
chương trình học những khoa học hiện đại”. Sau đó, trong “Thiên hạ đại thế
SVTH: Phạm Bá Tuân
18
18
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
luân”, Nguyễn Lộ Trạch (1853 – 1898) cũng cho rằng “ phải chú trọng thay đổi
nền giáo dục để bắt kịp với thế giới hiện đại”.
Nhưng, những ý muốn cải cách của vua Minh Mạng và vua Tự Đức đều
không phải là những mệnh lệnh bắt buộc thực hiện một cách dứt khoát, nghĩa là
các vua vẫn chưa đưa ra được một quyết sách mang tính pháp lệnh.
Phải đợi đến những thập niên đầu thế kỷ XX, một số môn học hiện đại
mới được đưa vào dạy tại Quốc Tử Giám như chúng ta đã thấy ở trên. Ngoài
ra, kể từ khoa thi Hội năm Canh Tuất (1910) dưới thời Duy Tân đến khoa Kỷ
Mùi (1919) dưới thời Khải Định, một số môn học mới cũng đã được đưa vào
trong các kỳ thi để các sĩ tử làm bài và được tính điểm để lấy đậu Tiến sĩ,
chẳng hạn như chữ quốc ngữ, Pháp văn, địa lý Việt Nam, lịch sử phương Tây,
cách trí, nhân vật, thời sự, toán pháp,…
Tuy đã có một số đổi mới về chương trình và nội dung giáo dục ở Quốc
Tử Giám cũng như các môn học trong những khoa thi như vậy, nhưng xem ra
các cải cách ấy vẫn còn quá nhiều bất cập so với đà tiến hóa chung của ngành
giáo dục của ngành giáo dục đào tạo một số nước trong vùng và trên thế giới
lúc bấy giờ. Đổi thay chậm chạp như thế mà mãi đến năm 1934 triều đình mới
đóng cửa trường Quốc Tử Giám , kể ra cũng muộn màng.
Dù sao đi nữa, trong thời gian hoạt động khá dài của mình (1803 – 1934),
Quốc Tử Giám Huế đã cũng có được 20 sinh viê thi đậu Tiến sĩ và được khắc

ghi tên tuổi trên bia đá dựng Văn Miếu triều Nguyễn. Trong số đó, có những
nhân vật nổi tiếng như Phan Thúc Trực, Nguyễn Khuyến, Đào Nguyên Phổ,
Ngô Đức Kế. Ngôi trường lịch sử này cũng là nơi từng góp phần nuôi dưỡng và
hun đúc tinh thần yêu nước cao cả của Phan Bội Châu trong một thời gian kể từ
khi ông nhập Giám vào năm 1903.
Nhìn chung, Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội và Văn miếu Quốc Tử
Giám mặc dù có một số điểm dị biệt về lịch sử hình thành, quá trình hoạt động,
diện mạo kiến trúc và cải tổ giáo dục, nhưng vẫn có một số mẫu chung về mục
SVTH: Phạm Bá Tuân
19
19
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
tiêu đào tạo ngay từ đầu, và trên thực tế đã sản sinh không ít tài năng hữu dụng
và danh nhân cho đất nước mà hiện nay chúng ta còn đọc được trên bia đá cũng
như trong sử sách. Riêng Văn miếu Quốc Tử Giám ở miền núi Ngự sông
Hương là chứng tích cụ thể nhất về một thời kỳ cực thịnh của lịch sử giáo dục
nho học và của sự sùng thượng tư tưởng tư tưởng Khổng Mạnh của Việt Nam,
nhưng sau đó, nền học thuật ấy lâm dần vào giai đoạn suy tàn, vì không đáp
ứng kịp nhưng yêu cầu thực dụng của thời đại mới.
Tuy nhiên, các công trình kiến trúc ấy vẫn luôn luôn là những chứng tích
sống động và có giá trị đặc biệt về một thời kỳ trong lịch sử giáo dục và trong
kho tàng di sản văn hóa của nước nhà.
1.4 Những dấu ấn các trường học quốc gia trước triều Nguyễn
1.4.1 Trường học thời Hậu Lê
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, lần đầu tiên thời vua Lý Nhân Tông,
tháng 8 năm Canh Tuất (1070), làm văn miếu, đắp tượng Khổng tử, Hoàng thái
tử đến để học. Tháng 4 năm Bính Thìn, Anh Vũ chiêu thắng 1 (1076) lập nhà
Quốc Tử Giám, tuyển trong các quan văn lấy những người “cao” văn bổ vào
đó. Tháng 6 năm Quý Sửu (1253), lập Quốc học viện, tô tượng KHổng Tử, Chu
Công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hầu để thờ. Quốc Tử Giám có khi còn gọi

là Quốc học viện hay Thái học viện, cơ sở đặt ở vị trí đằng sau văn miếu tại
kinh thành Thăng Long. Sau khi thành lập, suốt mấy thế kỷ, trải qua hai triều
đại Trần – Lê, Quốc Tử Giám ở Thăng Long đã phát huy vai trò của mình trong
đào tạo nhân tài giúp nước.
Thời Hậu Lê, Văn Miếu Quốc Tử Giám Thăng Long là trung tâm giáo dục
của cả nước, đầu mối của việc học hành, thi cử từ Bắc vào Nam. Ngoài ra, ở
từng địa phương cũng có văn chỉ và nhà học để truyền bá “Chữ nghĩa thánh
hiền” cho con em đến tận cấp huyện và cấp xã, ngay cả nơi xa xôi nhất như
Thuận Hóa. Đến giữa thế kỷ XVI, trong “Ô châu cận lục” Dương Văn An đã
chép về phủ Tân Bình (hay tỉnh Quảng Bình và phần bắc Quảng Trị) : “Tòa
SVTH: Phạm Bá Tuân
20
20
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
thành ninh viễn gần tiếp ngọn Trường Giang, miếu đức văn Tuyên xa trong về
Lỗ xá” và về phủ Triệu Phong : “Nhịp kèn thay lính chú, chòi thành vệ trấn lấp
loáng dưới trăng thanh, hồi trống gọi nho sinh, trường học phủ đường che khuất
trong mây trắng. Văn phong đã sẵn, vũ vệ càng oai. Tác giả cho biết ở mỗi phủ,
ngoài tại phủ và đồng tại phủ, còn có hai viên nho học vấn đạo và một số huấn
khoa. Đó là chức trong coi việc giáo dục trong phủ. Nơi thấy việc giáo dục
quan tâm và phát triển.
1.4.2. Học cung thời các chúa Nguyễn
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa năm 1558 chỉ với tư cách là
một võ tướng nhà Lê, đặt mục tiêu củng cố binh lực và phát triển kinh tế lên
hàng đầu, chưa hề để ý đến việc lo toan nền giáo dục, học tài muốn thi cử phải
ra Thanh Hóa (trước năm 1592), Thăng Long (sau năm 1592). Từ khi chúa
Nguyễn Phúc Nguyên lên kế vị (1615), là lúc ông dời tại sở vào Phúc An xã
Quảng Thọ - Quảng Điền – Thừa Thiên Huế năm 1626 và đổi gọi chính phủ, tổ
chức bộ máy trung ương nhằm tiến tới tách khỏi sự khống chế của họ Trịnh
nhân danh vua Lê, mới quan tâm đòi chút nền giáo dục. Trong thời gian đầu,

các chúa Nguyễn còn “tận dụng” được nhân tài ngoài Bắc vào theo mình nhưng
rồi thế hệ ấy qua đi. Do nhu cầu cấp thiết của nền hành chính từ trung ương đến
địa phương, các chúa kế tiếp không thể không quan tâm đến giáo dục – nơi đào
tạo những nhân tài giúp sức tại chỗ.
Văn miếu của xứ Đàng Trong được hình thành từ đó, ở khoảng gần bên
cạnh phủ chính. Tuy sử không nói gì tới trường học nhưng chúa Nguyễn đã mở
ngay bên cạnh Văn Miếu, chí ít cũng dạy các con chúa và các con em quý tộc,
quan lại. Vã lại, muốn thành lập chính quyền riêng họ Nguyễn không thể không
lo đào tạo cho mình những con người “có học” để giúp việc, nếu không thì
những người như Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Cư Trinh
chẳng hạn thành đạt và phát triển do đâu ? Có thể nhận thấy hoàn cảnh lịch sử
lúc bấy giờ, họ Nguyễn không thể không mở trường học, phát triển giáo dục.
SVTH: Phạm Bá Tuân
21
21
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
Về sau, năm 1776 Lê Quý Đôn có kể lại mình từng lên “học cung” nhà Nguyễn
xem lễ và giảng học luận văn. Đó là trường học nhà nươc Đàng Trong còn
trong dân gian do nhu cầu sử dụng đến chữ nghĩa như làm đơn, khai trình, gia
phả… nên các lớp học tại gia cùng với quy mô mọc lên khắp nơi. Từ những lớp
học đó đã sản sinh ra những con người ưu tú như Dương Văn An…
Sau thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, phủ chính dời đi đổi lại nhiều lần từ
Phúc An vào Kim Long (1636), xuống Phú Xuân (1687), ra Bác Vọng (1712),
rồi lại vào Phú Xuân (1738) nhưng ta chỉ thấy sách Đại Nam Thực Lục tiền ghi
Văn Miếu đóng tại xã Triều Sơn (huyện Quảng Điền) từ năm 1691 mãi đến
năm 1766 Nguyễn Phúc Thuần mới dời vào làng Lương Quán, đến năm 1770
thì chuyển qua Long Hồ. Văn Miếu Long Hồ nay còn vết tích chiếc cổng vòm.
Có thể nhà học hay học cung cũng tọa lạc bên cạnh văn miếu, năm 1776
Quế đường Lê Quý Đôn vào làm hiệp trấn Thuận Hóa, từng đến đó xem lễ và
giảng luận trước các học trò và kể lại trong bài tựa sách Phủ biên tạp lục:

“Ngày tế Đinh, tôi thân đến học cung xem lễ, học trò đến học có vài trăm
người, tôi cũng cùng họ giảng học luận văn, khuyến khích giảng dạy ân cần
lắm”. Học trò lên đến vài trăm thì nhận thấy quy mô nhà trường và giảng dạy
khá lớn. Nhưng suốt thời gian các chúa Nguyễn, Văn miếu và Học cung chỉ
làm nhiệm vụ giáo dục ở xứ Đàng Trong, đương thời cũng như Văn Miếu và
Quốc Tử Giám Thăng Long chỉ lo đào tạo cho xứ Đàng Ngoài, vì hai bên đi
đến giao tranh và phân lập chính thức từ năm 1726, kéo dài hơn 150 năm.
1.4.3 Văn miếu thời Tây Sơn
Triều đại Tây Sơn được xác lập do vị anh hùng Nguyễn Huệ (1753 –
1792) tức vua Quang Trung (1789 – 1792) đóng đô ở Phú Xuân. Dù phải bận
trăm công ngàn việc của triều đình, vua Quang Trung vẫn cho thành lập Sùng
chính thư viện mời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp làm viện trưởng sai sửa chữa
Văn Miếu là Học cung cũ của chúa Nguyễn ở Long Hồ thành một Quốc Tử
Giám đóng vai trò giáo dục trung tâm của cả nước, thay thế hẳn Văn miếu
SVTH: Phạm Bá Tuân
22
22
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
Quốc Tử Giám ở Thăng Long. Tuy nhiên, nhân tài ra phò vua giúp nước lúc
bấy giờ chủ yếu thông qua tiến cử vì trong suốt 14 năm triều đình chỉ một khoa
hương duy nhất, vì thế kinh đô Phú Xuân là nơi thu hút sĩ phu, quan lại miền
Bắc vào tham gia bộ máy triều đình. Với tài năng và uy tín của bậc đại anh
hùng vua Quang Trung đã mời gọi người tài từ khắp nơi tự nguyện ra làm việc
giúp nước như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích…
SVTH: Phạm Bá Tuân
23
23
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
CHƯƠNG 2: VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM DƯỚI TRIỀU
NGUYỄN Ở HUẾ

2.1 Lịch sử hình thành
Quốc Tử Giám ở Huế, nay là Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế, là di tích
trường đại học duy nhất thời phong kiến còn tồn tại ở Việt Nam. Đây là một di
tích lịch sử, văn hóa có giá trị cao. Ngày 11 tháng 12 năm 1993, Quốc Tử Giám
cùng với hệ thống di tích cung đình triều Nguyễn đã được ghi tên vào danh
mục Di sản thế giới.
Quốc Tử Giám trước đây thuộc địa phận làng An Bình, giáp với làng Long
Hồ Hạ, huyện Hương Trà, thành phố Huế là trường Ðại học quốc gia ngày xưa do
triều đình mở ra để đào tạo nhân tài. Ở nước ta, Quốc Tử Giám đầu tiên đã được
thành lập vào năm 1076 tại Kinh đô Thăng Long dưới thời Lý . Ngay từ đầu nó đã
có tên gọi là Quốc Tử Giám và từ đó về sau nó vẫn giữ nguyên vị trí ở kinh đô
Thăng Long, trong khuôn viên Văn Miếu Hà Nội ngày nay.
Đến đầu triều Nguyễn, sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long đã
quyết định xây dựng kinh đô tại Huế. Năm 1803 , vua Gia Long xây dựng Đốc
Học Đường – đây được xem là trường quốc học đầu tiên được xây dựng dưới
triều Nguyễn. Trường được xây tại địa phận An Ninh Thượng, huyện Hương
Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía Tây, trường nằm cạnh Văn Miếu,
mặt hướng ra sông Hương .
2.2 Kiến trúc
Thời Gia Long, qui mô kiến trúc của trường còn nhỏ, chỉ gồm một tòa
chính ở giữa và hai dãy nhà hai bên, dùng làm chỗ để quan Chánh, Phó Đốc
Học giảng dạy.
Dưới thời Minh Mạng (1820 – 1840), do nhu cầu giáo dục và đào tạo ngày
càng cao, cho nên cơ sở vật chất của trường được xây dựng thêm ngày càng
SVTH: Phạm Bá Tuân
24
24
Văn miếu Quốc Tử Giám Huế- lịch sử và hiện trạng
nhiều. Vào tháng 2 năm Minh Mạng nguyên niên, tức là tháng 3 – 1820, trong
khi bàn định về quy trình giáo dục và đào tạo ở Quốc tử giám, nhà vua nói với

hai đại thần Nguyễn Hữu Thận và Phạm Đăng Hưng rằng: “Học hiệu là quan
hệ đến hiền sĩ, nhà nước dùng người phần nhiều lấy ở đấy… Ta theo chí tiên
đế, muốn sai làm nhà học, lấy thêm sinh viên, hậu cấp lương cho, định rõ
chương trình khiến cho học giả đều được thành tài để đợi xét dùng. Bọn khanh
phải cùng học thần bàn từng điều mà tâu lên”.
Đúng một năm sau, vào tháng 3 năm 1821, công việc mở rộng và nâng
cấp Quốc tử giám bắt đầu được thực hiện. Ở giữa khuôn viên là Giảng Đường 7
gian 2 chái. Đằng trước là Di Luân Đường 5 gian 2 chái. Hai bên tả hữu xây
nhà ở cho Tôn sinh và Giám sinh, mỗi nhà 3 gian. Chung quanh khuôn viên
xây tường bằng gạch, phía trước và phía sau đều trổ một cửa. Việc thi công đợt
này kéo dài hơn 6 tháng, đến tháng 8 âm lịch năm ấy (tức tháng 9 năm 1821)
mới hoàn tất.
Vào năm 1826, vua Minh Mạng cho xây thêm 2 dãy nhà ở 2 bên trong
khuôn viên, mỗi dãy 19 gian dành cho sinh viên ăn ở.
Vua Thiệu Trị (1841 – 1847), đánh giá cao cảnh vật và sinh hoạt của Quốc
tử giám, xếp nó vào trong 20 thắng cảnh của kinh đô Huế và từng làm thơ để ca
ngợi nó.
Đến năm Tự Đức nguyên niên (1848), nhà vua chuẩn y lời tâu, cho mở
một cửa vòm ơ mặt tường bao phía bên phải Quốc tử giám, xây thêm 2 dãy cư
xá cho sinh viên, mỗi dãy 9 gian: 3 ngôi nhà, mỗi nhà một gian, dành làm nơi
ăn ở cho quan Tế tửu (tạm hiểu là hiệu trưởng) và hai quan Tư ngiệp (hai hiệu
phó); 3 nhà học chính, mỗi nhà 3 gian; và một nhà bếp một gian. Bấy giờ, ở
mặt tường bao phía trước khuôn viên, người ta còn mở thêm 2 cửa phụ ở bên
trái và bên phải cửa chính để tiện ra vào.
Như vậy, có thể nói diện mạo kiến trúc của Quốc tử giám đã trở nên khang
trang và hoàn chỉnh nhất từ giữa thời Tự Đức trở đi. Nó tiếp tục hoạt động đều
SVTH: Phạm Bá Tuân
25
25

×