ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Đại học khoa học xã hội và nhân văn
----------
Khoa Văn học
Nghành Hán Nôm
Niên luận
Đề Tài : Khái quát đánh giá sơ lược về tình hình sáng tác, sưu tầm
câu đối, đại tự đặt tại nhà Thái học, di tích Văn Miếu –
Quốc Tử Giám.
HƯỚNG DẪN ĐỀ TÀI : PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh
SINH VIÊN THỰC HIỆN : Trần Mạnh Quang
Lớp Hán Nôm k48
Hà Nội, 12/2005
ĐỀ TỪ
Cuộc vận động sáng tác, sưu tầm câu đối đại tự đặt tại nhà Thái
học, di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám đến nay đã kết thúc, thành quả
của nó thật là to lớn. Nó đã thu hút được sự tham gia của đông đảo các
tầng lớp trong xã hội, từ các bậc túc nho, các chuyên gia hán nôm, đến
những bạn trẻ quan tâm đến di sản văn hoá ông cha… Những câu đối,
đại tự được đặt ra trong cuộc vận động này tập trung vào tôn vinh các
vị hoàng đế Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Tư
Nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Hàng trăm câu đối, đại tự đã được
gửi đến Ban tổ chức, không khí thật là náo nhiệt, cơ hồ làm ta thấy lại
một màu sắc Hán Nôm mà lâu nay có lẽ đã bị quên lãng. Hoà chung
vào không khí đó, tôi – một sinh viên Hán Nôm muốn được góp một
phần trí lực của mình cho cuộc vận động đầy tính nhân văn này, nhưng
hiềm nỗi tài hèn sức mọn, chẳng thể nào sáng tác, sưu tầm ra được câu
đối, đại tự để thi thố với các bậc cha anh. Trong lúc đang hổ thẹn tôi đã
may mắn gặp được thầy giáo tôi – PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh – một
bậc túc nho đương thời, thầy đã khuyến khích và giúp tôi tìm ra ý
tưởng làm một bài khái quát đánh giá sơ lược về tình hình sáng tác, sưu
tầm câu đối, đại tự trong cuộc vận động. Có thể ai đó sẽ cho rằng đề tài
này gần với chuyên nghành Báo chí hơn là Hán Nôm, nhưng tôi tự nghĩ
mình học vấn thiển cận, kiến thức Hán Nôm đã học chỉ như giọt nước
giữa đại dương, việc lớn chưa đủ sức thì ta làm việc nhỏ, âu cũng bày
tỏ được cái tâm yêu quý Hán Nôm vậy. Nghĩ thế tôi đã quyết bắt tay
vào thực hiện đề tài, trong quá trình thực hiện tôi đã được sự hướng dẫn
2
giúp đỡ nhiệt tình của thầy tôi – PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh, và các
thầy cô giáo khác trong bộ môn. Tôi xin chân thành cám ơn các thầy
các cô đã giúp tôi hoàn thành đề tài, xin gửi đến thầy tôi – PGS.TS
Nguyễn Văn Thịnh lời cám ơn trân trọng và sâu sắc nhất.
Sinh viên
Trần Mạnh Quang
3
A. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài chỉ làm một số nhiệm vụ như : khái quát qua một số nét
chính về khu di tích Văn miếu – Quốc Tử Giám, về các vị Hoàng đế Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Tư nghiệp Quốc Tử
Giám Chu Văn An … Trong đó nội dung chính là đánh giá sơ lược về
tình hình sáng tác, sưu tầm những câu đối, đại tự tham gia trong cuộc
vận động.
B. PHƯƠNG PHÁP VẬN DỤNG THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
- Phương pháp đối chiếu so sánh
- Phương pháp kết nối theo nội hàm
- Phương pháp sử luận
C. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đưa ra một cái nhìn tổng quan về tình hình sáng tác câu đối, đại
tự trong cuộc vận động này nói riêng và tình hình sáng tác câu đối, đại
tự trong thời điểm hiện nay cả về chất lượng cũng như về số lượng.
D. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Do trong phạm vi của một bài niên luận nên đề tài chưa thể khảo
sát các vấn đề được một cách đầy đủ, trọn vẹn. Quy mô còn nhỏ, chỉ
thể hiện được một phần tầm vóc cũng như giá trị thực tiễn của nó.
4
PHẦN MỘT
GIỚI THIỆU CHUNG
1. VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM
Cụm từ Văn Miếu – Quốc Tử Giám có lẽ đã quá đỗi quen
thuộc với mỗi người dân Việt Nam, nghĩ là thế nhưng quen mà chưa
thực sự hiểu cũng nên. Tôi có hỏi một số người về Văn Miếu – Quốc
Tử Giám, có người thì cho đó là một ngôi miếu lớn (!), có người thì bảo
đó là trường dạy học thời xưa, chỉ có một số ít người nắm được rõ lịch
sử cũng như chức năng đầy đủ của nó. Như vậy thì kỳ thực còn nhiều
người trong chúng ta còn hiểu một cách lơ mơ về di tích văn hoá này
lắm. Để tiện cho việc phân tích sau này tôi xin điểm qua một vài nét
chính về di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Nước ta sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã
thoát khỏi ách nô lệ sau gần 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu quá trình đi
lên của một quốc gia độc lập. Trải qua các triều đại Ngô - Đinh – Tiền
Lê đã hình thành nên một thể chế nhà nước tương đối hoàn chỉnh, Nam
triều đã sánh với Bắc triều (Trung Quốc). Năm 1010, Lý Công Uẩn lên
ngôi, khai cơ cho triều đại nhà Lý. Cũng trong năm đó Lý Thái Tổ (Lý
Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, lập nên kinh đô Thăng
Long - đế đô của muôn đời. Để xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ và
hưng thịnh cần phải có một hệ thống triết học làm nền tảng, một thể
chế tổ chức xã hội vững mạnh và một nền giáo dục tiên tiến để đào tạo
5
nhân tài cho đất nước. Nhận thức được điều đó nhà Lý đã bắt đầu quan
tâm tới học thuyết Nho giáo, nhiều kinh sách Nho học được du nhập và
giảng dạy, tầng lớp Nho sĩ dần được coi trọng. Mốc son đánh dấu cho
sự chiếm lĩnh Nho thuật là việc năm 1070 nhà Lý cho dựng Văn Miếu,
sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ : “ Năm Canh Tuất, niên hiệu
Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu, tháng tám,
dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ
tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến học
ở đó ”. Như vậy ngay từ ngày đầu thành lập Văn Miếu Thăng Long
ngoài chức năng của một nơi thờ cúng các vị Tổ đạo Nho giáo còn có
thêm chức năng của một nhà Quốc học - đây là điểm riêng biệt chỉ Văn
Miếu ta mới có. Năm 1075 mở ra khoa thi Minh kinh bác học, đánh
dấu cho sự hình thành của khoa cử Việt Nam - đây thường được cho
là khoa thi đầu tiên trong lịch sử nước nhà, nhưng PGS.TS Nguyễn
Văn Thịnh đã chứng minh một cách thuyết phục là chính khoa thi
Bác sĩ khoa mới là khoa thi đầu tiên, dù rằng so với Minh kinh bác
học thì quy mô của nó nhỏ hơn, khoa thi này đến nay tuy chưa xác
định rõ được thời gian cụ thể nhưng chắc chắn nó đã được tổ chức
vào thời Lý và trước Minh kinh bác học. Năm 1076 vua Lý Nhân
Tông lại cho lập Quốc Tử Giám, lấy làm nơi dạy học cho các Hoàng
tử, Công hầu và con em quan lại. Về sau nơi đây còn đón nhận cả một
số con nhà thường dân tuấn tú.
Từ đó Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã phát triển không ngừng,
trở thành trường Đại học đầu tiên của nước nhà, chức năng giáo dục
của nó đã trở nên rõ rệt, đóng vai trò là trung tâm văn hoá giáo dục
6
hàng đầu, cao cấp nhất của đất nước trong hơn 700 năm lịch sử. Tên
gọi của nó tuy có thay đổi qua từng triều đại như vào đời Trần nó được
cải thành Quốc học viện, đời Lê được trùng tu lại dưới tên Thái học
viện, ngày nay thì được gọi là di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám
nhưng thời nào cũng thế nó luôn thể hiện được bản sắc văn hoá dân tộc,
mãi mãi là cái tinh của quốc hồn Việt Nam.
2. VUA LÝ THÁNH TÔNG
Vua Lý Thánh Tông sinh năm 1023 mất năm 1072, ở ngôi được
17 năm (1054-1072), là con trưởng của vua Lý Thái Tổ, tên huý là Nhật
Tôn. Ngài là một vị vua sáng, có tinh thần tự lập, tự cường, có hoài bão
lớn. Ngài đã đổi quốc hiệu nước ta từ Đại Cồ Việt sang Đại Việt –
Quốc hiệu sau đó đã gắn với bao chiến tích anh hùng của dân tộc. Lê
Thánh Tông cũng là một vị vua nhân từ, có lòng thương yêu dân chúng.
Tương truyền, có một lần trời rất rét ngài nói với quan hầu cận rằng : “
Trẫm ở trong cung ăn mặc như thế này còn rét, nghĩ những tù phạm
giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà
mặc, vả lại có người còn xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét
quá mà chết thì thật là thương lắm”. Rồi ngài truyền lấy chăn chiếu cho
tù nhân nằm, lệnh bếp tù cho tù nhân ăn một ngày hai bữa. Lần khác
khi đang ngự án ở điện Thiên Khánh, ngài trỏ vào công chúa Động
Thiên và nói :”Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì
trăm họ còn ngu dại, làm càn mà phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ
nay về sau tội gì cũng giảm bớt nhẹ đi”. Ngoài việc thi hành nền chính
trị thân dân, Lê Thánh Tông còn là một vị vua quan tâm tới sự nghiệp
giáo dục, chính ngài đã có công khai sáng cho nền giáo dục Nho học
Việt Nam khi vào năm 1070 đã cho xây dựng Văn Miếu thờ Khổng
7
Tử, Chu Công và Tứ phối. Bên cạnh đó vua Lê Thánh Tông còn có võ
nghiệp hiển hách, Nam bình Chiêm, Bắc phạt Tống, uy vũ trùm thiên
hạ. Thật là một bậc vua anh minh thần võ của đất nước.
Hiện nay sau khi xây dựng xong khu Thái Học, ngài đã được
đưa lên thờ tự ở tầng hai - nhà Hậu đường cùng với các vị vua Lý Nhân
Tông và Lê Thánh Tông.
3. VUA LÝ NHÂN TÔNG
Vua Lý Nhân Tông sinh năm 1066 mất năm 1127, ở ngôi được
56 năm (1072-1127), là con trưởng của vua Lý Thánh Tông, tên huý là
Càn Đức. Ngài là một vị vua anh minh, đã đặt ra nhiều chính sách chấn
hưng đất nước, định quan chế, mở khoa thi, đắp đê chống lụt. Theo ý
kiến của PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh thì kỳ thi Bác sỹ khoa là
nhằm để chọn thầy dạy cho ngài ở Văn Miếu lúc ngài còn ở ngôi
Hoàng thái tử. Như vậy có thể coi Lý Nhân Tông là người đầu tiên
vào học ở Văn Miếu. Lý Nhân Tông là vị vua đầu tiên ban hành lệ dân
chủ với chiếu cầu lời nói thẳng vào tháng tư năm Bính Thìn-1076,
định ra quan chế văn võ phân làm chín phẩm từ trung ương xuống địa
phương. Ngài cũng là vị vua đầu tiên khởi xướng việc đắp đê phòng lũ,
tương truyền ngài đã huy động dân chúng đắp đê ở phường Cơ Xá(?)
mà nay là một đoạn đê sông Hồng ở gần cầu Long Biên. Nhưng có lẽ
công lao lớn nhất của Lý Nhân Tông là đã mở đầu cho việc thi cử và
nền giáo dục cao cấp của nước nhà. Tháng hai năm Ất Mão-1075 Lý
Nhân Tông cho mở khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam
trường, tháng hai năm Đinh Tỵ-1077 tổ chức:” thi lại viên bằng
8
phép viết chữ, phép tính và hình luật”, đến tháng tám năm Bính
Dần-1086 lại mở khoa thi chọn người có tài văn học trong nước để
sung vào Hàn lâm viện, Mạc Hiển Tích đã đỗ đầu trong khoa thi này.
Đặc biệt năm Bính Thìn-1076 Lý Nhân Tông đã cho lập Quốc Tử
Giám ở kế sau Văn Miếu với mục đích làm nơi dạy học cho các Hoàng
tử, Công hầu, con em quan lại và sau cho phép cả con nhà thường dân
tuấn tú vào học. Đúng như Phan Huy Chú đã đánh giá Lý Nhân Tông là
vị vua : “học thức cao minh, hiểu sâu đạo lý” xứng đáng là bậc đế
vương tài giỏi trong lịch sử nước nhà.
4. VUA LÊ THÁNH TÔNG
Vua Lê Thánh Tông sinh năm 1442 mất năm 1497, ở ngôi được
38 năm (1460-1497), là con thứ tư của vua Lê Thái Tông, tên huý là
Hạo, tự là Tư Thành, đạo hiệu Thiên nam động chủ. Ngài là vị vua anh
tài quyết đoán, văn vũ kiêm toàn vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến
nước ta. Trong 38 năm tại vị, Lê Thánh Tông đã sửa sang được nhiều
việc chính trị, phát triển giáo dục, mở mang bờ cõi khiến cho đất nước
đựơc văn minh thêm ra, thanh thế lẫy lừng một phương. Năm 1460, sau
khi lên nắm quyền, Lê Thánh Tông đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng
phe phái trong triều, kiện toàn bộ máy nhà nước tập quyền từ trung
ương tới tận địa phương. Ngài bỏ chế định chia nước ra làm 5 đạo có từ
thời vua Thái Tổ (Lê Lợi), phân lại thành 12 đạo. Ban bố các chiếu
khuyến nông, chiếu lập đồn điền, chiếu định quan chế... nhằm
khuyến khích phát triển nông nghiệp, mở điền địa, khai khẩn đất hoang
tăng thêm tiềm lực kinh tế cho đất nước. Một trong những thành tựu
9
nổi bật nhất của ngài về phương diện chính trị là ngài đã ban hành ra bộ
luật Hồng Đức, là bộ luật được đánh giá hoàn chỉnh nhất và có nhiều
điểm tiến bộ nhất trong lịch sử luật pháp phong kiến Việt Nam mà mãi
cho đến ngày nay nhiều điều khoản của nó vẫn còn được xã hội hiện
đại ghi nhận. Về phương diện văn hoá, Lê Thánh Tông đã tạo lập cho
thời đại mình một nền văn hoá với diện mạo vô cùng rực rỡ. Ngài đã
đẩy mạnh phát triển giáo dục- thi cử đến đỉnh cao nhất, kẻ sĩ được
trọng vọng, người người nhà nhà nô nức đua nhau học hành. Nho giáo
đựơc đề cao, chiếm vị trí chủ đạo trong tam giáo Nho-Phật-Đạo, việc
thi cử được tổ chức định kỳ 3 năm một, nội dung thi lấy học thuyết
Nho học làm chính. Năm 1483, Lê Thánh Tông cho trùng tu lại Văn
Miếu, mở rộng quy mô Quốc Tử Giám, nhận cả con nhà thường dân
tuấn tú vào học, phân Giám sinh Quốc Tủ Giám ra làm tam xá
( thượng xá, trung xá, hạ xá). Đồng thời cho xây dựng kho bí thư
chứa sách, đặc biệt còn lập ra hội Tao Đàn mà ngài là chủ soái, minh
oan cho Ức Trai Nguyễn Trãi và ban lệnh thu thập trong dân gian
những di cảo của người. Ngài còn là người khởi xướng nên lệ dựng
bia tiến sĩ ở Văn Miếu lấy từ khoa thi 1442 để con cháu đời sau noi
theo. Cho đến tận ngày nay, những dấu ấn văn hoá trong thời đại Lê
Thánh Tông vẫn còn nguyên giá trị, những bộ sách Đại Việt sử ký
toàn thư, Hồng Đức Quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ,
Thiên nam dư hạ... mãi mãi được đời sau trân trọng kính ngưỡng.
Lê Thánh Tông-một vị vua kiệt xuất, một thi sĩ hào hoa, một
chiến tướng hùng đảm, thật đúng như sử thần Ngô Sỹ Liên đã ca ngợi:
10
“Là vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi rộng lớn, văn vật
tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược”.
5. TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM CHU VĂN AN
Chu Văn An sinh năm (?) mất năm 1370, là người làng Văn
Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là xã Thanh Liệt, huyện
Thanh Trì, Hà Nội), hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thuỵ là
Văn Trinh. Đỗ Thái học sinh vào đời Trần Minh Tông (?) nhưng
không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Học trò theo học rất đông, trong
đó có những người sau đỗ đạt cao như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát...
Truyền thuyết dân gian kể ràng trong số học trò của ông có cả con trai
của Thuỷ thần(!) vì mộ danh mà đến học, vào một năm hạn hán thấy
thầy xót xa cho nỗi cực khổ của người dân, đã bất chấp phép Trời hô
mưa xuống cứu nạn, sau bị Trời bắt tội vong thân, trước khi tiêu vào
cõi hư đã rập đầu lạy dưới chân ông: “Con không ân hận gì cả, chỉ tiếc
con được học với thầy (Chu Văn An) quá ít mà thôi ! ”.
Năm Khai Thái (1324-1329) đời vua Trần Minh Tông, Chu
Văn An được vời ra làm Tư nghiệp-là chức đứng đầu trông coi việc
dạy dỗ, học tập của sĩ tử ở Quốc học viện ( Quốc Tử Giám). Tại đây
ông đã đào tạo hàng trăm nhân tài cho đất nước, góp phần làm nên nền
thái bình thịnh trị đương thời. Đến đời Trần Dụ Tông, triều chính bại
hoại, trên thì vua quan phè phỡn, dưới thì dân tình đói khổ. Là người
cương trực, thẳng thắn, thương dân Chu Văn An đã dâng Thất trảm sớ
xin chém bảy tên nịnh thần để lập lại kỷ cương đất nước. Nhưng tiếc
thay Trần Dụ Tông ngu muội, không nghe theo lời can gián của bậc
11
trung thần khiến cho ông phẫn chí mà cáo quan lui về ẩn nơi thảo dã.
Thất trảm sớ đã bộc lộ rõ thái độ của kẻ sĩ trí thức trước thời cuộc, nó
là biểu tượng sáng chói cho bản lĩnh Chu Văn An, đáng tiếc hiện nay
nó đã không còn được ghi chép lại. Theo Phan Huy Chú Chu Văn An
ngoài Thất trảm sớ còn có một tập thơ chữ Hán là Tiều ẩn thi tập,
một tập thơ chữ Nôm là Tiều ẩn Quốc ngữ thi tập và bộ Tứ thư
thuyết ước, nhưng ngày nay chỉ tìm thấy 12 bài thơ của ông trong
Toàn Việt thi lục, còn lại thì thất lạc cả. Đó quả là điều rất đáng tiếc
cho nền giáo dục nước ta. Với học vấn uyên thâm, đạo cao đức cả,
tải kinh chuyển đạo giáo hoá cho bao lớp kẻ sĩ, Chu Văn An xứng
đáng được muôn đời sau tôn sùng như một mẫu mực cho bậc gia sư hết
lòng tận tuỵ vì sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước.
Hiện nay, danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An đã
được đưa vào tôn vinh thờ tự tại tầng một-nhà Hậu đường-khu Thái
Học nằm trong quần thể khu di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội.
12
13
PHẦN HAI
NỘI DUNG CHÍNH
Nhìn một cách toàn thể, cuộc vận động lần này đã thu hút được
một lượng lớn người tham dự. Hơn thế nữa, không chỉ có những
chuyên gia trong nghành Hán Nôm, những bậc cựu Nho tiền bối mà
đặc biệt còn có sự đóng góp của rất nhiều bạn trẻ yêu thích Hán Nôm
học. Với quy mô là một cuộc vận động có tính chất chọn lọc ( bắt buộc
người tham gia phải có vốn kiến thức Hán Nôm nhất định) , trong thời
điểm Hán Nôm còn rất khó khăn như hiện nay mà quy tụ được hàng
trăm anh tài đề danh góp mặt, điều đó tự nó đã cho thấy sự thành công
về mặt tổ chức là rất lớn. Đáng nói nhất là chất lượng ở đây rất cao,
những câu đối, đại tự được sưu tầm và sáng tác rất công phu, hoàn
chỉnh. Những thể đối, những con chữ được dùng rất chuẩn mực và tài
hoa. Chứng tỏ văn hoá Hán Nôm ngày nay không hề bị mất đi mà trái
lại vẫn đang còn phát triển mạnh mẽ. Đó là sự thực không thể phủ
nhận, báo hiệu cho sự khởi sắc trở lại của một nền di sản vốn đã có
hàng ngìn năm lịch sử gắn bó chặt chẽ với nền văn hoá dân tộc.
1. ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẠI TỰ
14
Tôi đã thực sự bị ấn tượng bởi những đại tự được sáng tác, sưu
tầm ra trong cuộc vận động. Về dạng thể, đây đều là đại tự bốn chữ
rất được phổ biến từ trước đến nay. So với đại tự một, hai hay ba chữ
cái khó của đại tự bốn chữ là phải được tổ chức một cách rõ ràng, đầy
đủ về âm, ý, thể cách đặc biệt là phải tạo được tính gắn kết, biểu trưng
thần tình nhất của chủ thể sở hữu. Tính quy chuẩn của nó là rất cao,
yêu cầu trình độ văn hoá Hán Nôm của người sáng tác phải đến độ chín
nhất định và phải có sự năng văn trong cách biểu hiện, sắp xếp đơn tự
để tạo ra được sự hoà kết trong tổng thể câu. Những tưởng với các rào
cản như vậy thì hiện nay những người có thể sáng tác được đại tự loại
đó không nhiều, thậm chí là rất hiếm nhưng những đại tự tham gia
trong cuộc vận động đã chứng minh ngược lại.
Thứ nhất, về tính mẫu mực trong cấu trúc, các đại tự đều chủ
yếu kết cấu theo ba kiểu: kiểu kết cấu định ngữ, kiểu kết cấu chủ vị
và kiểu kết cấu động-bổ.
Kết cấu định ngữ là kiểu kết cấu B + A , trong đó A là thành
phần chính ( thường là danh từ), B là thành phần phụ có vai trò bổ
nghĩa, làm rõ ý cho A ( thường là tính từ, động từ hoặc danh từ). Các
đại tự ở cuộc vận động theo kiểu kết cấu này rất nhiều:
Đại Việt quốc học
Có nghĩa là Quốc học Đại Việt. Trong đó Quốc học (nền học
của đất nước) là thành phần chính, đóng vai trò trung tâm ngữ, còn Đại
Việt ( một niên hiệu nước ta) là một danh từ, đóng vai trò định ngữ làm
rõ cho ý của Quốc học ( Quốc học của ai ?).
15
Càn khôn anh khí
Có nghĩa là Khí tinh anh của trời đất. Thì Anh khí (khí tinh
anh) là danh từ làm thành phần trung tâm, còn Càn khôn (trời đất) là
định ngữ cho Anh khí.
Thái bình thịnh chủ
Nghĩa là Vị vua hưng thịnh thời thái bình. Trung tâm ngữ ở
đây là Thịnh chủ (vị vua hưng thịnh), định ngữ là tính từ Thái bình.
Đường Ngu vũ trụ
Dịch là (Như) trời đất thời đại Đường Ngu. Vũ trụ là trung tâm
ngữ, Đường Ngu là định ngữ bổ nghĩa cho Vũ trụ. Đường Ngu là hai
triều vua lý tưởng thời Thượng cổ Trung Quốc Đường Nghiêu và Ngu
Thuấn. Vũ trụ theo định nghĩa trong Từ điển Hán Việt của Đào Duy
Anh là :” bốn phương và trên dưới là vũ, xưa qua nay lại là trụ=không
gian và thời gian=thế giới”.
Thiên Nam sư biểu
Nghĩa Bậc thầy mẫu mực của trời Nam . Đại tự này thì Sư biểu
(bậc thầy mẫu mực) làm thành phần chính, Thiên Nam (trời Nam) làm
thành phần phụ tức định ngữ...
16
Kết cấu chủ vị là kiểu kết cấu C+V hoặc C-V+C-V, trong đó
C là chủ ngữ, V là vị ngữ. Trong cuộc vận động, đại từ dạng này cũng
thường hay gặp:
Hà nhạc chung anh
Nghĩa Non sông chung đúc nên bậc anh tài. Đây là theo hình
thức C+V, Hà nhạc (non sông) làm chủ ngữ còn Chung anh làm vị ngữ.
Bích Ung đỉnh lập
Nghĩa là Nhà Bích Ung dựng sừng sững. Tương tự, Bích Ung
là chủ ngữ, Đỉnh lập (dựng sừng sững) là vị ngữ.
Văn hùng vũ lược
Dịch nghĩa Văn hùng hồn, võ tài giỏi. Ở đây câu đại tự được
xác lập theo hình thức C-V+C-V, trong đó vế trước Văn hùng (văn
hùng hồn) thì danh từ Văn đóng vai trò chủ ngữ, tính từ Hùng đóng vai
trò vị ngữ. Còn vế sau Vũ lược (võ tài giỏi) thì Vũ là thành phần chủ
ngữ, Lược là thành phần vị ngữ. Từ hai vế đã tạo ra được một kết cấu
hoàn chỉnh, chặt chẽ như vậy.
Văn trạch vũ quang
17
Có nghĩa là Văn để ân trạch đến muôn dân, võ làm rạng rỡ
cho đất nước. Đại tự này cũng xác lập theo hình thức C-V+C-V, ở vế
trước thì Văn là chủ, Trạch (để ân trạch) là vị. Vế tiếp thì Vũ là chủ
ngữ, Quang (làm rạng rỡ) làm vị ngữ.
Thái Sơn cao nghật
Núi Thái Sơn cao vòi vọi. Tiếp theo hình thức C+V, chủ ngữ là
Thái Sơn (tên một ngọn núi trong Ngũ nhạc ở tỉnh Sơn Đông Trung
Quốc, thường được ví với người có học thuật cao siêu trong thiên hạ),
vị ngữ là Cao nghật nghĩa là cao vòi vọi...
Kết cấu động-bổ là kiểu kết cấu Đ+B hoặc Đ-B+Đ-B, trong
đó Đ theo quy ước là động từ, B là bổ ngữ. Một số đại tự lần này cũng
được thiết lập theo khuyng hướng ấy:
Đại triển hồng đồ
Dịch là Phát triển mạnh mẽ cơ đồ. Ở đây thì theo hình thức
Đ+B, Đại triển (phát triển mạnh mẽ) là thành phần động từ, Hồng đồ
(cơ nghiệp lớn lao) đóng vai trò là bổ ngữ cho Đại triển.
Chấn bạt anh tài
Nghĩa là Cất nhắc, tiến dùng bậc anh tài. Tương tự, ở đây vẫn
theo hình thức Đ+B, với Chấn bạt (cất nhắc, tiến dùng) là động từ của
câu, còn Anh tài (bậc tinh anh, tài giỏi) làm bổ ngữ.
18
Ái dân cần chính
Dịch nghĩa Thương yêu dân, chăm việc nước. Đại tự này được
thiết lập theo hình thức Đ-B+Đ-B. Vế thứ nhất Ái dân (thương yêu dân)
thì Ái là động từ, dân là bổ ngữ. Sang vế hai Cần chính (chăm chỉ việc
nước) thì Cần làm động từ, bổ ngữ cho cần là Chính.
Sùng Nho mẫn chính
Có nghĩa là Sùng thượng đạo Nho, chăm lo việc chính sự. Đại
tự này cũng được lập theo hình thức Đ-B+Đ-B. Trong vế đầu, Sùng là
động từ, Nho là bổ ngữ. Trong vế sau, động từ là Mẫn và Chính là bổ
ngữ.
Về Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An có câu đại tự:
Tạo tựu nhân tài
Câu này có nghĩa Tác thành nhân tài. Được thiết lập theo hình
thức Đ+B. Tạo tựu (tác thành) làm thành phần động từ chính, Nhân tài
(người tài giỏi) làm thành phần phụ bổ ngữ. Mối hoà kết giữa các từ
trong các câu này là rất mẫu mực...
Từ một vài khảo nghiệm trên, có thể nói những đại tự trong cuộc
vận động đã đi đúng theo quy tắc truyền thống, kết cấu chặt chẽ, cân
xứng cấu trúc hài hoà, hợp lý. Bước đầu cho thấy trình độ của giới học
19
thuật Hán Nôm hiện nay về cơ bàn là rất chắc chắn, vững vàng, có
chiều sâu về phương cách sử dụng, tạo lập. Đây là điều rất đáng quý
trọng, ghi nhận sự kế thừa và bảo tồn
cho tri thức Hán Nôm trong thời đại hiện nay.
Xét sang tiêu chí thứ hai, các đại tự cần phải tạo được sự biểu
trưng trong âm ý, sao cho ngôn đã tận mà ý vẫn dư, câu hết mà âm
chưa hết, tức đạt tới sự dư âm vượt ra ngoài hạn chế từ ngữ. Đây là yêu
cầu rất khó đặt ra cho những người làm đại tự xưa nay, thiết nghĩ nếu
không có khả năng thẩm thấu, cảm âm tinh tế thì khó mà vượt qua được
rào cản này. Đáng mừng thay, những kẻ sĩ thời nay (tôi xin được kính
cẩn gọi họ-những con người tài hoa đã tham gia trong cuộc vận động
này như vậy) đều có thừa những tố chất đó.
Viết về vua Lý Thánh Tông-người có công dựng nên Văn
Miếu, khởi đầu cho nền giáo dục nước nhà thì các đại tự thường để lại
những dư âm trầm hùng mà chan chứa lòng tự hào :
Quốc học triệu cơ
( Mở nền Quốc học)
Tư văn triệu khải
( Bắt đầu nền tư văn)
Văn cơ triệu tạo
( Đặt nền móng cho nền văn hiến đất nước)
20
......
Hoặc tạo ra dư âm cảm khái, đầy kính nghưỡng :
Càn khôn anh khí
( Khí tinh anh của trời đất)
Thạc đức nan danh
( Đức lớn khó nói )
Thiện ư kế thừa
( Giỏi việc kế thừa)
...
Viết về vua Lý Nhân Tông anh minh đảm lược, lập Quốc Tử
Giám, khai Minh Kinh khoa thì âm vọng hứng khởi, ca vang:
Thái bình thịnh chủ
( Vị vua hưng thịnh thời thái bình)
Khuê Bích tư lãng
( Văn chương sáng tỏ từ đây)
Trác nhĩ nguy công
( Công cao vòi vọi )
21
......
Hay hào sảng, tươi tắn :
Hưng học nhậm hiền
( Phát triển việc học, dùng bậc hiền tài)
Kiến học di mưu
( Dựng nhà học-Quốc Tử Giám, mưu tính cho đời sau)
Bích Ung đỉnh lập
( Bích Ung dựng sừng sững)
......
Ca ngợi Lê Thánh Tông, một ông vua Nho giáo nhất trong thời
đại phong kiến Việt Nam với đầy đủ đức, nhân, trí, dũng thì hừng lên
âm hưởng chói ngời, sáng rỡ :
Hoán hồ hữu văn
( Có văn rực rỡ thay)
Chấn cổ hữu quang
( Rạng rỡ vượt đời xưa )
Hàm hoằng quang đại
22
( Bao dung, rộng rãi, sáng láng, lớn lao )
......
Có lúc lại trầm mặc, sâu xa :
Văn giáo đản phu
( Nền văn giáo đã mở mang khắp chốn)
Học tháo uyên nguyên
( Việc học đạt đến uyên nguyên)
Thiện chính thiện giáo
( Nền chính sự yên, nền giáo dục đẹp )
......
Ngợi ca về Chu Văn An, vị Tư nghiệp Quốc Tử Giám triều Trần
đức cao vọng trọng, bác học danh thơm, tiết tháo trung liệt, dâng Thất
trảm sớ, tác Tứ thư thuyết ước thì âm hưởng các đại tự trang
nghiêm, kính cẩn :
Trực tiết cao phong
( Cương trực, phong cách cao cả)
Văn Trinh nghạnh trực
23
( Văn Trinh cứng thẳng)
Nghiêm sư thuỳ phạm
( Nghiêm sư, mẫu mực lư để )
......
Hoặc thán phục, tôn sùng:
Truyền kinh chính học
( Chính học được thể hiện qua việc truyền thụ kinh điền)
Thượng tường Sơn Đẩu
( Thái Sơn, Bắc Đẩu nơi nhà Thái học)
Cực mục viễn sơn
( Non cao vút mắt )
Chu thiên sư biểu
( Bậc thầy mẫu mực ở Chu thiên-cõi Nam )
......
Như vậy, với việc xét riêng hai tiêu chí đó, các đại tự tham gia
trong cuộc vận động đã thể hiện được sự hoàn chỉnh trong cách thể
cũng như âm vọng.
24
Tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế cần được khắc phục như :
Đại tự có ý nghĩa quá chung chung, chưa bật được rõ mục
đích cụ thể. Ví dụ:
Minh tâm hằng đức
Có nghĩa : Lòng trong sáng, giữ lâu được đức mình. Đây là đại
tự nói về đức độ của vua Lý Thánh Tông, nhưng rõ ràng, ý này có thể
áp dụng cho mọi bậc minh vương cũng như hiền sĩ, chưa thể làm thành
nét đặc trưng cho một nhân vật nào đó.
Hoặc như câu:
Văn tứ thuỳ phong
Nghĩa là: Văn tứ để lại dấu ấn trong văn hoá và phong tục đất
nước. Thực sự thì hầu hết những triều đại phong kiến nào cũng đều để
lại dấu ấn văn hoá của mình cả, nếu dùng ý đó cho triều đại Lý Thánh
Tông, e chưa tạo được sự di ấn trong tâm khảm người tiếp nhận...
Có những đại tự thì qúa mông lung, ý nghĩa mờ nhạt, như :
Triệu văn môn cách
Nghĩa là: Mở lối văn chương. Mở lối gì ? và mở lối như thế
nào? Thật là khó giải thích.
Hay :
Văn hiển miếu tôn
25