Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hướng dẫn cách phát triển bảo hiểm trong thời kỳ công nghệ hiện nay phần 6 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.63 KB, 10 trang )


51

Nguồn: Phòng Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Công ty PTI
(1) Doanh thu bảo hiểm
Nhìn vào bảng 9 ta thấy doanh thu bảo hiểm thiết bị điện tử đã tăng đáng
kể cùng với một lượng thời gian như nhau sau 2 năm 1998 và 1999 là 703
(triệu). Để có được kết quả như vậy công ty PTI nói chung và phòng bảo hiểm
tài sản Kĩ thuật nói riêng đã cố gắng hết sức để khai thác được nhiều đơn bảo
hiểm mới, tạo điều kiện tăng doanh thu năm sau cao hơn năm trước.
(2). Chi hoạt động :
Nhìn chung qua bảng 9 ta thấy các khoản chi hầu như có xu hướng tăng
về số tuyệt đối.
- Trong 4 tháng đầu mới triển khai do phải bồi thường 2 vụ tổn thất nên mức
chi bồi thường là 222,605(triệu đồng). Sang đến năm 1998 lại có thêm vụ tổn thất
là phải bồi thường cho bưu điện tỉnh Ninh thuận số tiền là 332,2(triệu đồng).
- Chi hoa hồng xét về số tuyệt đối tăng từ 130,950 (triệu đồng) năm1998,
đến 166,1 (triệu đồng) năm 1999. Nhưng tỉ lệ hoa hồng /tổng chi lại giảm :
4 tháng năm 98: 7,75%
4 tháng năm 99: 6,94%
Đó là do tình trạng hiện nay hầu hết các đơn về bảo hiểm TBĐT mà
công ty cấp đều do cán bộ nhân viên phòng bảo hiểm Tài sản -kĩ thuật trực
tiếp khai thác mà không phải qua môi giới. Đây là một trong những thuận lợi
lớn cho công ty PTI, nhất là những thiết bị có giá trị lớn cần phải tái bảo
hiểm. trong trường hợp mà phải thông qua môi giới thì số hoa hồng phải trả
cho người môi giới đôi khi rất lớn làm giảm số lợi nhuận của công ty.
- Tiếp đến là chi đề phòng hạn chế tổn thất cũng tăng cụ thể là năm
1998: là 52,38(triệu đồng) sang đến năm 1999 tăng lên là 66,44(triệu đồng),
tuy nhiên tỉ lệ chi lại giảm xuống từ năm 1998 là 2,86% đến năm 1999 còn
2,79 %.Điều này công ty PTI cần xem xét lại vì chi phí đề phòng hạn chế tổn


52

thất đóng một vai trò hết sức quan trọng góp phần nâng cao tính hiệu quả kinh
doanh hạn chế bồi thường giảm tổn thất cho người tham gia .
- Nhìn vào bảng 9: Chi dự trữ tổn thất lớn tăng về số tuyệt đối nhưng lại
giảm về tỉ lệ chi. Cụ thể là năm 1998 số tiền chi là 225,234 (triệu đồng)
nhưng đến năm 1999 tăng lên là 285,692 (triệu đồng) và tỉ lệ chi giảm từ
13,33% xuống còn 11,94%. Lí do tỉ lệ chi này giảm xuống là do năm 1999 cơ
cấu chi thay đổi đặc biệt là chi thuế có phần tăng lên do Bộ tài chính áp dụng
luật thuế giá trị gia tăng (VAT).
- Chi tuyên truyền quảng cáo: Đối với nghiệp vụ thiết bị điện tử là
nghiệp vụ mới nhưng có đặc điểm là ở những đơn vị có loại thiết bị này
thường tập trung vào một số khách hàng lớn. Do vậy hình thức quảng cáo
hiện nay ở công ty Bảo hiểm bưu điện là giới thiệu trực tiếp với khách hàng
bằng việc phát hành tài liệu hướng dẫn đồng thời giải thích tỉ mỷ cho khách
hàng về loại hình nghiệp vụ này. Do vậy chi phí quảng cáo so với tổng chi
còn ở mức khiêm tốn. Cụ thể là qua bảng 12 ta thấy năm 1998 về số tuyệt đối
chi quảng cáo là 36,666 triệu đồng. Nhưng đến năm 1999 thì lượng chi này đã
tăng lên 46,508 triệu đồng. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ chi lại có xu hướng giảm từ
2,17% xuống còn 1,95%. Điều này một phần là do ảnh hưởng của thuế VAT
nhưng công ty PTI cũng cần xem xét lại để nâng tỷ lệ chi quảng cáo lên một
tỷ lệ thích hợp nhằm tạo điều kiện cho việc giới thiệu rộng rãi sản phẩm của
công ty cho khách hàng biết. Khi đã có số đông công chúng biết về vai trò và
tác dụng của sản phẩm này thì đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử
chắc chắn sẽ tăng lên không chỉ ở trong cổ đông mà còn cả ngoài cổ đông
nữa.
- Cũng qua bảng 9 ta thấy chi tái bảo hiểm tăng về số tuyệt đối từ
785,7(triệu đồng) năm 1998 lên đến 996,6(triệu đồng) năm 1999. Điều này
chứng tỏ phí bảo hiểm thu được trên mỗi đơn của năm 1999 lớn hơn của năm
1998 nên phần chi phải tăng lên. Nhưng xét về tỉ lệ chi thì lại có phần giảm

xuống, năm 1998 tỉ lệ chi là 46,51% đến năm 1999 giảm xuống còn 41,66%.

53

- Chi quản lí cũng tăng về số tuyệt đối nhưng lại giảm về số tương đối.
Năm 1998 chi cho quản lí là 130,950(triệu đồng) sang đến năm 1999 chi quản
lí là 166,1(triệu đồng) .Tỉ lệ chi giảm từ 7,75% xuống 6,94%.
- Cuối cùng là chi thuế. Khoản chi này tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỉ lệ
chi và đặc biệt là tăng rất nhanh gấp hơn 3 lần năm trước. Cụ thể là ở năm
1998 chi về thuế là 104,76 (triệu đồng) nhưng đến năm 1999 con số này tăng
lên 332,2 (triệu đồng). Về tỉ lệ chi cũng tăng từ 6,2% lên đến 13,89%. Nguyên
nhân là do năm 1998 vẫn áp dụng thuế doanh thu nên mức thuế thấp (4%
doanh thu phí) nhưng từ ngày 01/01 1999 Bộ tài chính đã ban hành luật thuế
giá trị gia tăng (VAT) với mức thuế cao hơnlà 10% tính trên doanh thu phí
điều này làm cho công ty gặp không ít khó khăn trong việc chi phí hợp lí .
(4).Xét về tỉ lệ tổng chi/ doanh thu:
Năm 1998 tỉ lệ tổng chi /doanh thu ở mức 64,49% sang đến năm 1999 tỉ
lệ này tăng lên 72%. Điều này là do áp dụng luật thuế mới, đồng thời là chi
bồi thường cũng tăng cao hơn năm 1998.
(5).Kết quả kinh doanh :
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty là tốt, nhìn vào bảng chỉ tiêu
doanh thu tăng dần năm 1998 là 2619(triệu đồng), năm 1999 là 3322(triệu đồng).
Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận năm 1999 tăng không lớn so với năm 1998
cụ thể là năm 1998 là 929,775 (triệu đồng) đến năm 1999 là 930,160 (triệu
đồng). Điều này có nguyên nhân trực tiếp từ việc chi thuế năm 1999 lớn hơn
nhiều so với chi thuế năm 1998 ( gấp 3,17 lần ).
(6).Hiệu quả kinh doanh :
Nhìn vào chỉ tiêu 6 ở bảng 9 ta thấy hiệu quả kinh doanh không được tốt
lắm và có xu hướng giảm.
Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,55đ doanh thu

Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,388đ doanh thu
Về lợi nhuận:

54

Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,55đ lợi nhuận
Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,388đ lợi nhuận
* Để hiểu được sâu sắc hơn do đâu mà công ty có được kết quả tốt cũng
như những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của mình ở nghiệp
vụ bảo hiểm TBĐT ta đi tìm nguyên nhân của nó :
Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên :
Chúng ta phải khẳng định rằng khai thác là khâu quan trọng hàng đầu
trong mọi loại hình bảo hiểm nói chung và bảo hiểm TBĐT nói riêng .Doanh
thu muốn đạt được ở mức cao tất yếu khai thác phải được nhiều bởi thế ta đi
tìm nguyên nhân cho doanh thu cao cũng chính là tìm nguyên nhân từ khâu
khai thác :
+Bảo hiểm TBĐT là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ và đầy triển vọng
trong tương lai nên các cán bộ nhân viên trong công ty tin tưởng vào sự phát
triển của lĩnh vực này từ đó tạo nên cho họ một động lực thúc đẩy họ hăng
say làm việc, nỗ lực phấn đấu vươn lên .Họ đã làm việc không kể ngày đêm
,đi khai thác vào mọi thời điểm các cán bộ nhân viên công ty luôn cố gắng
tìm ra những phương pháp tiếp cận, khai thác mới nhất để tăng thêm số khách
hàng cho mình.
+Công ty PTI nghiên cứu sản phẩm bảo hiểm TBĐT một cách kĩ lưỡng
có cơ sở khoa học đồng thời tiến hành đánh giá thị trường bảo hiểm TBĐT
theo tổng thể theo từng thành phố, tỉnh và khu vực từ đó nắm lấy thị trường,ở
chỗ nào có nhu cầu lớn nhất hiện tại, hoặc có tiềm năng lớn trong tương lai.
Đồng thời chủ động sáng tạo áp dụng nhiều phương pháp khác nhau và kịp
thời đúc kết kinh nghiệm để tìm ra phương pháp khai thác hợp lí nhất ,điều
này được thể hiện: Hàng tuần công ty luôn họp giao ban vào sáng thứ 2 để

thảo luận kiến nghị đưa ra những cách thức,phương pháp khai thác, tiếp cận
khách hàng phù hợp nhất.
+Công ty PTI đã tuyển chọn và đào tạo đượcmột đội ngũ nhân viên có
trình độ, năng lực hầu hết đã có kinh nghiệm thực tế trong nhiều lĩnh vực

55

khác nhau. Do đó họ rất sáng tạo trong công việc và luôn luôn có ý chí vươn
lên khắc phục mọi khó khăn, vì vậy họ đã tìm ra nhiều phương pháp khai thác
tốt đối với từng đối tượng khách hàng .
+Một điểm rất quan trọng tác động đến kết quả khai thác ở nghiệp vụ
này là ưu thế của công ty kinh doanh trong ngành Bưu điện nên phần lớn các
thiết bị điện tử đều tập chung vào phạm vi khai thác của công ty. Hơn nữa
các cổ đông như Tổng công ty xây dựng, Tổng công ty xuất nhập khẩu, Công
ty tái bảo hiểm Việt nam có mối quan hệ rộng rãi tạo tiền đề vững chắc cho
những mối quan hệ làm ăn lâu dài của công ty .
+Nguyên nhân cuối cùng là có sự chỉ đạo kịp thời của công ty, sự quyết
tâm của ban giám đốc và sự nỗ lực của phòng bảo hiểm Tài sản -Kĩ thuật .
*Những khó khăn đang tồn tại :
+Đối tượng khách hàng tương đối hạn chế trong giai đoạn đầu triển khai
nghiệp vụ (chỉ một số đơn vị có khối lượng tài sản TBĐT cao như Đài phát
thanh và truyền hình ,Bưu điện ,bệnh viện ) Các văn phòng làm việc, các cá
nhân có sử dụng một số TBĐT (như máy vi tính , điện thoại ,các thiết bị văn
phòng khác ) hầu như chưa có nhu cầu bảo hiểm cho thiết bị của họ hoặc họ
chỉ bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy.
+Loại hình bảo hiểm này còn mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp và
thậm chí đây là loại bảo hiểm còn mới mẻ ngay cả với các cán bộ khai thác ở
các địa phương ở vùng sâu vùng xa Hơn nữa loại hình bảo hiểm này tương
đối phức tạp, phạm vi bảo hiểm rất rộng, các cán bộ địa phương cần có thời
gian nghiên cứu kĩ các tài liệu hướng dẫn của công ty. Vì thế họ ít nhiều có

tâm lí ngại khai thác loại hình bảo hiểm này, mà chỉ thích khai thác các
nghiệp vụ đã quen thuộc như bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu Một lí do khác nữa là, việc điều tra rủi ro trước khi chấp nhận bảo
hiểm và điều tra đánh giá tổn thất khi có khiếu nại theo đơn bảo hiểm TBĐT
phức tạp hơn rất nhiều so với đơn bảo hiểm cháy vì thế bản thân công ty PTI
cũng rất thận trọng khi cho phép các địa phương cấp đơn bảo hiểm này .

56

+Vì đơn bảo hiểm này bảo hiểm rất nhiều rủi ro nên đương nhiên phí bảo
hiểm phải cao hơn đơn bảo hiểm cháy .Ví dụ cùng một đối tượng rủi ro thì
đơn bảo hiểm cháy có thể từ 0.2% đến 0,3% nhưng theo đơn bảo hiểm TBĐT
có thể lên đến 0,4%đến 0,6% hoặc có thể cao hơn .Từ đó mà một số cơ quan,
doanh nghiệp chưa nhận thức được chính xác những rủi ro điển hình đối với
bảo hiểm TBĐT của họ cộng với những nhận thức về bảo hiểm còn hạn chế
khiến họ quyết định mua những loại bảo hiểm khác với số phí ít hơn nhằm
"tiết kiệm" được chi phí .
+ Phần lớn các đơn vị có khối lượng tài sản lớn đều là đơn vị nhà nước,
một số các đơn vị liên quan đến chuyển tải thông tin vẫn còn chế độ bao cấp
của nhà nước ,khi thiết bị mà hỏng hóc thì được trang bị ngay cái khác (vì
việc duy trì mạng thông tin liên lạc liên quan đến an ninh quốc gia). Vì vậy ý
thức mua bảo hiểm để tự bảo vệ mình của những đơn vị này rất kém .
+Cuối cùng là cơ sở hạ tầng của Việt nam còn quá kém ,khối lượng các
thiết bị có thể bảo hiểm theo đơn bảo hiểm TBĐT là rất ít .Thậm chí có những
đơn vị nghe tên tưởng khối lượng TBĐT của họ phải rất lớn nhưng thực tế chỉ
có khoảng vài tỉ đồng (ví dụ như đàI phát thanh và truyền hình các huyện )

57

Phần III

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ Ở CÔNG TY PTI

I. TRIỂN VỌNG VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN TỬ TIN HỌC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THẾT BỊ ĐIỆN TỬ CỦA CÔNG TY BẢO
HIỂM BƯU ĐIỆN
Trong cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ở thế kỉ tới, khoa học thông tin
tiếp tục phát triển mau lẹ và được ứng dụng rộng rãi . Các nhà khoa học cho
rằng sự phát triển mau chóng của máy tính điện tử, của thông tin liên lạc sẽ
nối liền các nước trên thế giới, sẽ trở thành mạng tài nguyên thông tin phủ
khắp tòan cầu . Theo dự báo của các nhà khoa học đến năm 2005 số hộ dùng
hòm thư điện tử sẽ đạt tới trên 800 triệu hộ . Mặt khác vô tuyến truyền hình
đã được phát qua vệ tinh làm cho người xem cảm thấy rõ nét và trung thực
mặc dù đó là những thông tin ở cách xa hàng vạn km . Mạng điện thoại di động
và điện thoại hiện hình, hệ thống thông tin công cộng, hệ thống đường dây nóng
phục vụ thương nghiệp nối liền làm thành một “không gian vũ trụ hoàn toàn mới".
Ngày nay hoạt động kinh tế trở nên vô cùng phức tạp, không chỉ có trao
đổi hàng hoá thông thườngmà kinh tế ngày nay phụ thuộc vào sự trao đổi
thông tin . Thật vậy, sự ra đời và lớn mạnh của không gian điện tử làm người
ta có thể thông qua những cuộc “hội thảo điện tử “ để tham gia các hội nghị
về nghiệp vụ . Các bưu kiện điện tử thay thế mau chóng bưu kiện truyền
thống . Trên màn hình của máy tính tính tại nhà có thể nhận được các tiết mục
vui chơi, các cuộc đấu bóng, các tiết mục giải trí để chọn xem . Thông qua
mạng viễn thông có thể tiếp thu những bài giảng của các giáo sư ưu tú, sự
chẩn đoán và điều trị của các chuyên gia hàng đầu, thoả mãn về hướng dẫn
mua bán và sắm sửa các dụng cụ gia đình, y hệt như đến văn phòng giao dịch,
đến nhà hát, đến bệnh viện và cửa hàng mua bán . Theo dự tính đến năm
2015, Ti vi màn hình rộng và mỏng có độ nét cao sẽ được chế nghiệm thành
công, có thể treo lên tường giống như một bức tranh . Thực tế công ty
Motorolla (Mỹ) đã phóng 66 hệ thống vệ tinh và các hệ thống vệ tinh này đảm


58

bảo các cá nhân có thể nói chuyện thuận lợi với bất cứ ai ở trên trái đất,
chuyện “mất liên lạc”sẽ trở thành chuyện lịch sử .
Trên đây là một vài minh hoạ cho tiềm năng và vai trò của thông tin
liên lạc trong thời gian tới. Qua đó ta có thể thấy rằng trong thời gian tới chắc
chắn bảo hiểm thiết bị điện tử ở Việt nam rất có triển vọng. Vì vậy ta phải
đánh giá được tiềm năng thị trường và dự báo được tương lai phát triển của
thị trường ta mới có thể có được những lựa chọn và áp dụng đúng được các
phương án maketing và bán sản phẩm thích hợp từ đó mới đạt được mục đích
cuối cùng là phát triển sản phẩm cả về số lượng và chất lượng . Để đạt được
mục đích đó trước hết ta phải có đủ các dữ kiện thích hợp để tính toán được
tiềm năng thị trường và dự báo phát triển trong tương lai. Những dữ kiện đó
là: dữ kiện về thị trường bảo hiểm thiết bị điện tử, thị trường bảo hiểm để từ đó
xác định được phí thu tiềm năng đối với các sản phẩm bảo hiểm thiết bị điện tử .
Để tính được phí thu tiềm năng có thể dựa vào công thức sau :
Phí thu tiềm năng = Tổng giá trị thiết bị điện tử đã lắp đặt * Tỉ lệ phí
Mục đích nghiên cứu thị trường thiết bị điện tử là lấy số liệu với các
tham số tuổi thọ trung bình của các thiết bị ta sẽ suy ra được tổng khối lưoựng
thiết bị điện tử đã lắp đặt từ đây với các dữ kiện đã biết về thị trường bảo
hiểm Việt nam có thể suy ra được tỉ lệ các thiết bị điện tử có thể tham gia bảo
hiểm thiết bị điện tử, với tỉ lệ phí trung bình, ta dễ dàng tính toán được tiềm
năng thị trường về mặt lí thuyết (phí tiềm năng).
Theo tạp chí Tin học cho biết :
Nhiều gia đình ở Việt nam hiện nay có nhu cầu mua máy tính cá nhân
để làm việc và học tập. Đồng thời do việc phát triển công nghệ mạng diện
rộng, mạng internet và intranet đã làm cho văn phòng làm việc có thể cơ động
được, số người hoà mạng ngày càng tăng .Khi các cơ quan, công ty đã triển
khai dự án lớn về công nghệ thông tin thì công việc của họ ngày càng gắn bó

với kho thông tin. Do đó tình hình hiện nay tiếp tục đẩy cầu công nghệ thông
tin lên cao nữa.

59

Bảng 10 : Số máy tính hiện có ở Việt nam từ năm 1993 đến 1998
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Máy tính
(chiếc)
22500 38000 60000 93000 139500 299000
Từ bảng trên ta thấy số máy tính được sử dụng ngày càng nhiều . Hơn
nữa không chỉ có lĩnh vực máy tính, mà trong những năm vừa qua ngành Bưu
chính Viễn thông đã có kết quả phát triển mạng lưới rất khả quan : tính đến
cuối năm 1997 mật độ điện thoại trên 100 dân tăng 9,5 lần, số máy điện thoại
tăng 6 lần, sản lượng điện thoại đường dài trong nước tăng 45, lần sản lượng
điện thoại quốc tế tăng 16 lần so với năm 1991 và đã góp phần tạo ra một hệ
thống cơ sở hạ tầng viễn thông khá toàn diện với công nghệ mới theo hướng
số hoá, tự động hoá ngang tầm với các nước trong khu vực:
Bảng 11: Bảng tổng hợp về kết quả phát triển mạng lưới
Các chỉ tiêu ĐVT 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
1. Mật độ điện thoại máy/
100
dân
0,21 0,26 0,39 0,64 0,64 1,56 2,0
2. Máy điện thoại máy 139.00
0
181.000 273.000 472.000 774.910 1077820 1493820
3. Sản lượng điện
thoại đường dài
trong nước

triệu
phút
32,2 119,3 234,6 449,0 760 860 1442
4. Sản lượng điện
thoại quốc tế
triệu
phút
8,1 14,3 19,9 32,8 44,5 51,7 52,6
5. Số kênh đi quốc
tế
kênh 409 659 950 1647 2972 4171 5000
6. Số huyện có tổng
đài điện tử
huyệnh 92 200 381 495 100% 100%
7. Số tỉnh có tổng
đài điện tử số
tỉnh 7/53 27/53 53/53 53/53 53/53 63/63 63/63
8.Tổng số xã có
máy điện thoại
xã 780 1018 1603 3914 5115 6000 6600
Nguồn: Tạp chí Bưu chính viễn thông năm 1997

60

×