Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về thực trạng thu, nộp bảo hiểm ở nước ta phần 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.63 KB, 10 trang )



11

một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa
dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của
BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi
nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở
quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên
BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là
người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao
động. Bên BHXH (Bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ
quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được
BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện
ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý
muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra
không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản v.v Đồng
thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi
gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ
một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này
do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự
hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết
yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu
nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc
tế (ILO) cụ thể hoá như sau:


+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để
đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoản và chống bệnh tật.


12

+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư
và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong
những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa
nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng:
"Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn
các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và
sự tự do phát triển con người".
Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách
bảo đảm xã hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có
cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu
nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên trong
xãhội, trong nhưng trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói,
khôngđủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thânvà gia
đình. Sự giúp đỡ này dược thể hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng
của Nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật đíng góp của các tổ chức
xã hội và những người hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về cả vật chất và tinh
thần của Nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với
những người hay một bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã
hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sỹ và thân

nhân liệt sỹ, thương binh,bệnh binh v.v đều là những đối tượng
được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội, ưu đãi xã hội
tuyệt nhiên không phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính
sách xã hội có mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội, góp phần củng
cố thể chế chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo
sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi,
song BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội đều là những chính


13

sách xã hội không thể thiếu được trong một quốc gia. Những
chính sách này luôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đề
góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
4. Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù
đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao
động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động
theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất
khả năng lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức
hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời
hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản
nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ
chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những
người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao

động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều
phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một
số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số
lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông
bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều
dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có
thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc
với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v Thực hiện chức
năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản
xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động
xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động


14

được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp
thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia
đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người
lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm
việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một
đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao
động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao
động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản
xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những
mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian

lao động v.v Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được
điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có
BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu
nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và
xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả
nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người
lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh
tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
5. Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có
một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Như ở phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản
xuất người lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người
sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không cảm
như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng lao
động và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v
Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và


15

những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở
nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ ngày càng căng
thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp
thông qua BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính
khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo
thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội
dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai,

đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH.
Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian
đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động v.v
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời
còn có tính dịch vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn được
hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các
bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục
đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể
dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại cuả tập hợp người lao động
tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người
lao động theo các điều kiện của BHXH. Thực chất, phần đóng góp
của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận
được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động
việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người
lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có
lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang thải cho
những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với
Nhà nước BHXH góp phầm làm giảm gánh nặng cho ngân sách
đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc
dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì
vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ nét. Xét về lâu dài, mọi


16

người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và
ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao
động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động.

Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi
nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính
chất xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao.
6. Những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH, Các nước đều phải lựa chọn hình thức,
cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tạp
quán, khả năng trang trải và đình hướng phát triển kinh tế - xã hội
của nước mình. Đồng thời, phải nhận thức thống nhất các quan
điểm về BHXH sau đây:
6.1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ
phần quan trọng nhất trong chính sách BHXH
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm
hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách và
xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một trong những
loại chính sách đối với người lao động nhằm đáp ứng một trong
những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người , nhu cầu an
toàn về việc làm,an toàn lao động,an toàn xã hội v.v Chính sách
BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh
tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một
chừng mực nhất định,nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ
xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động
lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
6.2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm
BHXH cho người lao động


17


Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh
nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa
vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện các chế
độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng luật
pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn ổn định sản xuất
kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có thiết bị hiện
đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống
cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm
việc bình thường thì phải trả lương thoả đáng cho họ. Khi họ gặp
rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp v.v trong
đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động với những
điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách
nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên
tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ
thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh
tế cho doanh nghiệp.
6.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
đối với BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp v.v
Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều
được hưởng BHXH như tuyên ngôn dân quyền đã nêu,đồng thời
bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH.
Người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải
hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là
rủi ro của bản thân. Vì thế, muốn được BHXH tức là muốn nhiều
người khác hỗ trợ cho mìnhlà dàn trải rủi ro của mình cho nhiều
người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết. Điều
đó có nghĩa là người lao động phải có trách nhiệm tham gia
BHXH để tự bảo hiểm cho mình.

Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về
BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối


18

quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động tham
gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông.
6.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
- Tiền lương lúc đang đi làm
- Tuổi thọ bình quan của người lao động
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc trợ cấp BHXH phải thấp hơn lúc
đang đi làm, nhưng thấp hơn cũng phải đảm bảo mức sống tối
thiểu.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa
phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người
lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế
tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao
động trả cho người lao động khi họ thực hiện được những công
việc hoặc định mức công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ người lao
động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực
hiện được nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn
hay tuổi già không làm việc được mà trước đó có tham gia BHXH
thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương
do lao động tao ra được. Mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền
lương thì không một người lao động nào phải có gắng tìm kiếm
việc làm và tích cực làm việc để có lương, mà ngược lại sẽ lợi
dụng BHXH để được nhận trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ BHXH

theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả trợ cấp
BHXH bằng lúc đang làm việc. Và như vậy thì chẳng khác gì
người lao động bị rủi ro và qua rủi ro của mình dàn trải hết cho
những người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương
lúc đang đi làm. Tuy nhiên, do mục đích bản chất và phương thức


19

BHXH thì mức trợ cấp thấp hơn cũng không thể thấp hơn mức
sống tối thiểu.
6.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức
bộ máy thực hiện chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là một bộ phần cấu thành các chính sách xã
hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển
kinh tế - xã hội. Cho nên, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng.
Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, nếu
không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì
bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ
việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp
v.v Vì vậy, Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, hay có
những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trước hết, phải khảng định rằng việc hoạch định chính sách
BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà
nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các
văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.

Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà
nước phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có
những mô hình về bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà
nước cung cấp thì vai trò quản lý Nhà nước là trực tiếp và toàn
diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do người sử dụng lao động,
người lao động và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia
quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu
như luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước


20

trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao
cho Bộ Lao động hoặc bộ xã hội trực tiếp điều hành.
III. QUỸ BHXH
1. Khái niệm
Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia vào điều kiện lịch
sử trong thời kỳ nhất định của đất nước. Trình độ kinh tế - xã hội
càng phát triển thì các chế độ BHXH dược áp dụng càng mở rộng,
nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được
nâng cao và khi kinh tế phát triển,người lao động có thu nhập cao,
càng có điều kiện tham gia BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài
chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn
tại và gắn với mục đích bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao
động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ
lao động, mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Như
vậy, Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài

Ngân sách Nhà nước.
2. Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp.
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn khác như: cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng
hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp
BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng
lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này
không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về
phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho

×