Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về thực trạng thu, nộp bảo hiểm ở nước ta phần 3 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.48 KB, 10 trang )



21

người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà
mình thuê mướn. Đồng thời nó góp phần giảm bớt tình trạng tranh
chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía
người lao động, đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu
hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý
nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ
lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao
động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà
nước. Trước hết là các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những
chuẩn mực pháp lý cho cả người lao động và người sử dụng lao
động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh
vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng
nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà
nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH,
mà còn chở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc
chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình
thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và
mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và
người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm
thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương và quỹ lương của
cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ
vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.


Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử
dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao
động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ
còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng


22

góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định,
Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản
lý BHXH v.v
Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới

Tên nước Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của
người lao động so
với tiền lương (%)
Tỷ lệ đóng góp
của người sử
dụng lao động so
với quỹ lương
(%)
CHLB Đức Bù thiếu
14,8  18,8 16,3  22,6
CH Pháp Bù thiếu 11,82 19,68
Inđônêxia Bù thiếu 3,0 6,5
Philipin Bù thiếu
2,85  9,25 6,85  8,05
Malaixia Chi toàn bộ chế độ
ốm đau, thai sản

9,5 12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Mức đóng góp BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi
quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán trên cơ sở khoa
học. Trong thực tế, việc xác định mức đóng góp BHXH là một
nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các
phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi xác định mức
đóng góp BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp
BHXH, từ đó có cơ sở để xác định mức đóng góp.
- Quy định mức đóng góp BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác
định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định
được mức đóng góp.
Mặc dù chỉ thuần tuý mamg tính kỹ thuật nhưng xác định mức
đóng góp BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan tới cả người lao
động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả
năng cân đối thu nhập của người lao động và kiều kiện phát triển


23

kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định mức đóng
góp BHXH vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số
đông bù số ít và có dự phòng. Mức đóng góp xác định phải được
cân đối với mức hưởng, với nhu cấu BHXH và điều chỉnh sao cho
tối ưu nhất.
Mức đóng góp BHXH được cấu thành từ 3 bộ phận và được
xác định theo công thức:
P = f1 + f2 + f3

Trong đó: P - Mức đóng góp BHXH
f1- Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH
f2- Đóng góp dự phòng
f3- Đóng góp quản lý
Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn
hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và
hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thường là 1 năm) như:
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ Vì vậy, số đóng góp
BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế
độ BHXH dài hạn như: Hưu trí mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v quá trình đóng góp và quá
trình hưởng tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng
thời gian nhất định. Cho nên, sự công băng giữa đóng góp và
hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế,
ngoài đóng góp thuần tuý phải có đóng góp dự phòng để đảm bảo
quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, để xác định được mức đóng góp và mức hưởng
BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về
nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo tuổi, giới tính, ngành
nghề v.v ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ
bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của
người lao động v.v
3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH


24

Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.

3.1. Các chế độ BHXH được áp dụng phổ biến trên thế giới
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ
BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia
BHXH nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình
họ, khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro. Thực chất là trợ
cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong Công ước 102
tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi
dưỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ
theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước
Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít
nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một
trong 5 chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chế độ trong hệ thống
trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã - hội; tài
chính; thu nhập; tiền lương v.v Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi
xây dựng còn phải tính đến yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân
của quốc gia; nhu cầu dinh dưỡng; xác xuất tử vong v.v
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.



25

+ Mỗi chế đọ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng
góp của các bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh
quyết toán.
+ Chi trả BHXH là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ
được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải
tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các
chế độ cũng như tựng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn, khi xác
định điều kiện trợ cấp BHXH tuối già phải dừa vào cơ sớ sinh học
là tuổi đời và giới tính của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi
già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia
có những khác biệt nhất định. Do đó, có những nước quy định:
Nam 60 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có
những nước quy định: Nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi v.v Hoặc khi
xác định điều kiên hưởng trợ cấp cho chế độ tai nan lao động và
bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố như: điều kiên và môi
trương lao động; bảo hộ lao động v.v Các yếu tố này thường có
quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng tới điều
kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ
BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói
chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng
bảo hiểm của người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và
hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh

toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của
các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức
trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc mức tiền công khi
người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm
nhất định so với tiền lương hay tiền công. Ở các nước kinh tế phát
triển do mức lương cao, nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở


26

những nước đanh phát triển do mức tiền lương còn thấp nên phải
áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ: ở Pháp, mức trợ cấp hưu trí chỉ
bằng 50% của mức lương bình quân 10 năm cao nhất (với điều
kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm). Ốm đau được trợ cấp bằng 50%
tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng trợ cấp không quá 12
tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp bằng 90% tiền lương trong
vòng 16 tuần v.v Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ 42%
đến 102%tuỳ thuộc vào nhóm lương khác nhau. Ốm đau được
hưởng 65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được hưởng bằng
100% tiền lương v.v
Tuy vậy, việc các nước qui định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ
phần trăm tiền lương so với tiền lương hay tiền công thường dẫn
đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã phải tìm cách
khắc phục như: trả ngay một lần khi nghỉ hưu (Nhật bản một lần
khi nghỉ hưu là 15 triệu yên; Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia trả một
lần bằng tổng số tiền mà chủ và thợ đã đóng góp cộng với lãi)
hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập
quy đinh và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH
còn được sử dụng cho chi phí quản lý như: tiền lương chi trả cho

ngũng người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố
định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác v.v Phần quỹ
nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lời. Mục đích đáu tư quỹ
BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.
Qúa trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an
toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích
kinh tế - xã hội.
3.2. Các chế độ BHXH đang được thực hiện ở Việt Nam hiện
nay
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta
hiện nay bao gồm 5 chế độ:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản


27

3. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hưu trí
5. Chế độ tử tuất
So với trước đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động bị loại bỏ.
Nội dung của 5 chế đọ nêu trên được quy định thống nhất trong
chương II của Điều lệ. Mỗi chế độ BHXH khi xây dựng đều căn
cứ vào một loạt những cơ sở như: sinh học; kinh tế - xã hội; điều
kiện và môi trường lao động v.v
4. Cơ chế quản lý quỹ BHXH
4.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH
Để thực hiện tốt mục đích của quỹ BHXH, trong quá trình quản lý
điều hành hoạt động quỹ BHXH cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản
sau đây:

- Tài chính BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu,
chi của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để
bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHXH. Vì thế, tổ chức quản lý điều
hành quỹ BHXH phải được tổ chức độc lập thống nhất trong phạm vi cả
nước trên cơ sở pháp luật của Nhà nước đã ban hành và chịu sự kiểm tra,
giám sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH đối với các
bên tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì
mới có điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ,
tăng cường công tác quản lý quỹ và mới có điều kiện để quản lý, sử dụng
vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị trường có lợi nhất, không ngừng tinh giảm
biên chế gọn nhẹ, giảm chi phí quản lý hành chính, nghiệp vụ hoạt động
BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước cần phải luật
pháp hoá việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ và
tự chịu trách nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và phát
triển vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường.
Việc quản lý điều hành tăng trưởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo
toàn được vốn, không làm vốn bị tổn thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi.
Việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau:


28

+ Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản cao.
+ Phải có lãi.
+ Phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế
độ BHXH phát sinh.
Vì thế, các hình thức đầu tư phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải chặt
chẽ theo những nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu tư
vốn nhàn rỗi , quỹ BHXH không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn
mà còn bảo đảm quyền lợi cho người lao động trên thực tế. Tổ chức quản

lý quỹ đầu tư tăng trưởng vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải tuân theo
nguyên tắc hạch toàn kinh doanh.
- Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ
đóng góp của họ. Trong nền kinh tế thị trường, người lao động thuộc mọi
thành phần kinh tế đều bình đẳng hưởng chế độ BHXH. Song người lao
động muốn được hưởng quyền lợi về BHXH thì họ phải có nghĩa vụ đóng
góp BHXH theo các phương thức thích hợp (bắt buộc hay tự nguyện, ít chế
độ hay nhiều chế độ BHXH ) thường xuyên đều đặn trong những tháng,
năm còn tuổi lao động. Quyền lợi được hưởng phải phù hợp với mức đóng
góp và thời gian đóng góp BHXH của từng người lao động theo quy định
của pháp luật. Vì thế, để tạo nguồn tài chính ổn định cho quỹ BHXH, ngoài
sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động Nhà nước cũng
phải đóng góp vào quỹ BHXH. Trong trường hợp Nhà nước thay đổi chính
sách kinh tế - xã hội làm mất cân đối quỹ, hoặc do các rủi ro bất khả kháng,
Nhà nước phải có trách nhiệm trợ giúp quỹ BHXH để đảm bảo chi trả có
các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Số tiền đóng góp phảo được tính trên
cơ sở số tiền lương hoặc thu nhập và được hạch toán vào giá thành sản
phẩm. Do vậy, những đơn vị sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng
góp BHXH, phải xử lý thật nghiêm túc. Vì họ trốn tránh nghĩa vụ đóng
BHXH không những xâm phạm đến quyền lợi BHXH của người lao động,
mà còn gây ra bất bình đẳng với các đơn vị sử dụng lao động thực hiện
nghiêm túc đóng BHXH.
Thực hiện nguyên tắc này sẽ xoá bỏ được bao cấp trong chế độ
BHXH, tạo ra sự bình đẳng giữa người lao động trong các thành phần kinh
tế, tạo ra khả năng cân đối thu, chi quỹ BHXH, xoá bỏ được sự thiếu trách


29

nhiệm của các doanh nghiệp nâng lương bừa bãi cho người lao động trước

khi về hưu để được hưởng trợ cấp hưu trí cao hơn.
- Hoạt động BHXH không mang tính chất kinh doanh mà mang tính
chất của quỹ tương hỗ bảo hiểm. Mục đích hoạt động của quỹ BHXH trước
hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi gặp rủi ro BHXH, sau
nữa bảo đảm an toàn cho xã hội và nền kinh tế. Hoạt động BHXH chủ yếu
dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” mang tính chất cộng đồng, tính
chất xã hội giữa những người lao động, trừ chế độ bảo hiểm hưu trí và tử
tuất là dựa chủ yếu trên nguyên tắc hoàn trả trực tiếp. Các khoản đóng góp
vào quỹ BHXH phụ thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ
BHXH, nếu quỹ không đủ bù đắp thì phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp
mức chi trợ cấp BHXH để bảo đảm quỹ luôn luôn cân đối giữa thu và chi.
Nguyên tắc cơ bản quản lý quỹ BHXH là phải cân đối thu với chi, chính vì
vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ BHXH phải tổ chức công tác kế toán,
kiểm tra sử dụng một cách chặt chẽ, đúng pháp luật, sử dụng tiền nhàn rỗi
đầu tư sinh lợi có hiệu quả, quỹ được bảo toàn và phát triển để có điều kiện
bảo đảm quyền lợi cho người lao động hoặc giảm được sự tài trợ của Nhà nước.
- Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ BHXH phải trên
cơ sở thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã
hội của đất nước. Phải tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, hoàn thiện cách
chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội có liên quan như chính sách lao
động và việc làm, chính sách thu nhập, tiền lương, tiền công, chăm sóc y tế,
kế hoạch hoá gia đình và các chính sách kinh tế - xã hội khác. Bởi vì, chính
sách cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước, nó phải phù hợp với điều
kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với mức
độ phát triển của từng loại lao động (ít hay nhiều chế độ BHXH). Đặc biệt
lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lao động tự do,
có như vậy BHXH mới tồn tại và phát triển vững chắc, phù hợp với sự phát
triển của các thành phần kinh tế của đất nước. Mặt khác, Nhà nước chỉ bảo
trợ quỹ BHXH khi Nhà nước có những thay đổi các chính sách kinh tế xã
hội làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH hoặc do các rủi ro bất khả kháng

làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản cần phải quán triệt trong tổ chức
và quản lý quỹ BHXH làm cơ sở cho việc cải tiến, hoàn thiện các chế độ,
chính sách BHXH ở nước ta trong thời gian tới.


30

4.2. Cơ chế quản lý quỹ BHXH ở nước ta
4.2.1. Giai đoạn trước 1995
Quỹ BHXH hoạt động dưới sự quản lý của Bộ Lao động - Thương
binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đây chính là 2 cơ
quan trực tiếp quản lý BHXH. Cơ chế quản lý quỹ BHXH do 2 ngành đảm
nhiệm được thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến điạ phương theo
3 cấp:
Cấp Trung ương : Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội; Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam.
Cấp tỉnh : Sở Lao động - Thương binh & Xã hội; Liên hiệp Công đoàn
tỉnh, thành phố.
Cấp huyện : Phòng Lao động - Thương binh & Xã hội; Các Công
đoàn cơ sở.
Cơ quan thứ hai cùng phối hợp quản lý quỹ BHXH là cơ quan Tài
chính các cấp. Cơ quan này có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của
quỹ BHXH. Vì cơ quan Tài chính có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ và kịp thời
nguồn kinh phí để 2 ngành là Bộ Lao động thương binh và xã hội và Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam phân phối chi trả cho các đối tượng được
hưởng. Cơ quan Tài chính cũng được chia ra làm 3 cấp tương ứng là:
Cấp Trung ương : Bộ Tài chính
Cấp Tỉnh : Sở Tài chính
Cấp Huyện : Phòng Tài chính

Ngoài 2 ngành có liên quan chính đến hoạt động của quỹ BHXH
chúng ta còn thấy vai trò rất quan trọng của các cấp chính quyền địa
phương. Đó là UBND tỉnh, huyện và xã. Ngành Lao động - Thương binh &
Xã hội và Công đoàn Việt Nam muốn quản lý tốt các đối tượng được
hưởng BHXH thì phải thông qua UBND ở từng địa phương.
Tất cả các cơ quan nêu trên đều có vai trò nhất định trong công tác
quản lý quỹ BHXH. Các cơ quan này cùng phối hợp hoạt động với nhau
nhằm thực hiện mục tiêu chung là quản lý quỹ BHXH có hiệu quả nhất
đem lại lợi ích cho người lao động.
Sơ đồ cấp phát kinh phí
`



(3) (2) (1)
(3)

(1)
(1) (1)
(3)

(1)
(1)
1. Cấp phát kinh phí
2. Thống nhất dự toán
3. Dự toán
Bộ LĐTBXH và
T

ng L

Đ
L
Đ
VN


Bộ Tài chính

Sở LĐTBXH và
Liên hi

p công
đ
oàn

Sở Tài chính

Phòng LĐTBXH và
Công
đ
oàn c
ơ
s



Phòng Tài
chính



Đối tượng

×