Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về thực trạng thu, nộp bảo hiểm ở nước ta phần 7 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.07 KB, 10 trang )



61

Theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và
Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ, các cơ quan
đơn vị doanh nghiệp thuộc diện đóng bắt buộc phải đóng BHXH
bằng 15% tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH. Từ
quý IV/1995 đến năm 2000, tổng số tiền đóng BHXH là
14.765.691 triệu đồng, số liệu cụ thể các năm như sau:
- Quý IV/1995 : 296.250 triệu đồng.
- Năm 1996 : 1.927.300 triệu đồng.
- Năm 1997 : 2.584.208 triệu đồng.
- Năm 1998 : 2.906.967 triệu đồng.
- Năm 1999 : 3.139.541 triệu đồng.
- Năm 2000 : 3.911.425 triệu đồng.
3.1.2. Tình hình đóng BHXH của người lao động
Từ khi BHXH Việt Nam chính thức hoạt động(tháng 10/1995)
đến nay, tổng số tiền mà cơ quan BHXH đã thu được từ người lao
động là 4.921.896 triệu đồng, trong đó:
- Quý IV/1995 : 98.750 triệu đồng.
- Năm 1996 : 642.433 triệu đồng.
- Năm 1997 : 861.403 triệu đồng.
- Năm 1998 : 968.989 triệu đồng.
- Năm 1999 : 1.046.513 triệu đồng.
- Năm 2000 : 1.303.808 triều đồng.
3.1.3. Nguồn đóng và hỗ trợ thêm từ Ngân sách Nhà nước
Trong thời gian từ tháng 10/1995 đến hết tháng 12/2000, tổng
số tiền hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH để chi trả
cho các đối tượng nghỉ chế độ BHXH có thời gian tham gia
BHXH từ năm 1995 trở về trước là 26.966.679 triệu đồng, cụ thể


như sau:
- Quý IV/1995 : 1.112.030 triệu đồng.
- Năm 1996 : 4.387.903 triệu đồng.
- Năm 1997 : 5.163.093 triệu đồng.
- Năm 1998 : 5.128.425 triệu đồng.
- Năm 1999 : 5.025.620 triệu đồng.


62

- Năm 2000 : 6.159.608 triệu đồng.


63


Bảng 6: TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH DO BHXH VIỆT NAM QUẢN
LÝ TỪ QUÝ IV/1995 ĐẾN NĂM 2000
S
T
T


Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Quý
IV/95

1996


1997

1998


1999

2000
1 Số đơn vị SDLĐ Đơn vị 18.566

30.789

34.815

49.628

59.176

61.577

2 Số LĐ tham gia
BHXH
- % so với năm
trước
Nghìn
người
%
2.276



-

2.821


-

3.162


112,1

3.355


106,1

3.579


106,7

3.843


107,4

3 Số thu BHXH
- % so với năm

trước
Tỷ đồng
%
395,0

-

2.569,7

-

3.445,6

134,1

3.876,0

112,5

4.186,0

108,0

5.215,2

124,6

4 Tỷ lệ thu so với chi

% 34,2


54,4

59,9

65,9

70,2

70,5

5 Chênh lệch thu -
chi BHXH
Tỷ đồng 353,0

2.186,5

2.852,1

3.124,4

3.245,6

3.974,7

(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 6 cho ta thấy, kết quả nổi bật trong công tác thu
nộp BHXH từ 1/10/1995 đến năm 2000 là số lao động tham gia và
số thu BHXH mỗi năm một tăng lên, năm sau cao hơn năm trước.
Phân tích các chỉ tiêu cho ta thấy như sau:

- Chỉ tiêu số 1 và 2 là: nếu cuối năm 1995 cả nước có 2,2
triệu lao động tham gia BHXH thì đến năm 2000 con số này đã
lên tới 3,8 triệu lao động, tăng 1,6 triệu lao động (chưa kể mỗi
năm có khoảng 15 vạn người nghỉ việc) và bằng khoảng 10% lực
lượng lao động xã hội. Điều đó cho thấy, việc mở rộng đối tượng
tham gia BHXH đến các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên cùng với chính sách
thu BHXH phù hợp nên số các đơn vị sử dụng lao động lẫn người
lao động tham gia BHXH đã ngày một tăng. Tuy nhiên, con số
10% lực lượng lao động tham gia BHXH so với các nước còn ở
mức rất thấp, ví dụ: Malaysia : 90%, Mỹ : 95% cùng với đó là
tốc độ gia tăng số lao động tham gia BHXH hàng năm còn chậm
và ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng lên từ 6,1% năm 1998 lên


64

7,4% năm 2000. Qua tham khảo số liệu cho thấy, số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp tư nhân ngoài quốc doanh có tốc độ
tăng cao nhất, cụ thể là: năm 1995 có 30.063 người, năm 1996 có
56.280 người, năm 1997 có 84.058 người, năm 1998 có 122.685
người, năm 1999 có 125.279 người và năm 2000 có 206.890
người, bình quân tăng 47,1%/năm. Tiếp đến là tốc độ tăng của lao
động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn vốn đầu tư nước ngoài: năm 1995 có 78.791 người, năm
1996 có 125.889 người, năm 1997 có 214.596 người, năm 1998 có
242.108 người, năm 1999 có 361.522 người và năm 2000 có
369.857 người, bình quân tăng 36,2%/năm.
- Bên cạnh sự tăng lên về số lao động tham gia BHXH thì
cũng chính nhờ chính sách thu BHXH phù hợp với điều kiện thu

nhập và tiền lương của người lao động còn thấp mà số thu BHXH
ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước được thể hiện rõ nét ở
chỉ tiêu số 3. Thông qua chỉ tiêu này ta thấy, nếu năm 1996 số thu
đạt 2569,7 tỷ đồng thì sau 5 năm, năm 2000 số thu đã lên tới
5215,2 tỷ đồng, tăng 103% so với năm 1996. Nếu so với năm
1994 là năm trước khi bước vào thời kỳ cải cách chính thức hệ
thống BHXH ở nước ta thì các năm 1999 và năm 2000 đều có số
thu tăng gấp hơn 10 lần. Tuy vậy, tỷ lệ tăng thu BHXH năm sau
so với năm trước giảm dần từ 34,1% năm 1997 xuống còn 8% năm
1999 nhưng nhanh chóng được khắc phục bằng tỷ lệ tăng thu
24,6% năm 2000 so với năm 1999. Sự sụt giảm tốc độ tăng thu
BHXH giai đoạn 1997 - 1999 phải chăng là do tình hình kinh tế
trong nước và thế giới có nhiều biến động đặc biệt là ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Mặc dù vậy, thu
BHXH hàng năm vẫn đạt vượt mức kế hoạch, điển hình là năm
1997 thu đạt vượt mức 24,4 % kế hoạch đặt ra. Điều đó thể hiện
sự nỗ lực vượt bậc của các cán bộ, công chức ngành BHXH, sự
quan tâm chỉ đạo sâu sát và kịp thời của BHXH Việt Nam và các
cấp uỷ Đảng, Chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Cũng
nhờ vậy mà tình hình công nợ tuy có phát sinh nhưng ngày càng


65

giảm, đã rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH phải nộp của
các đơn vị sử dụng lao động từ 73 ngày năm 1995 (ứng với 20,1%
số nợ so với tổng số phải thu) xuống còn 38 ngày năm 2000 (ứng
với 10,4% số nợ so với tổng số phải thu theo số liệu báo cáo
nhanh của BHXH Việt Nam). Mục tiêu trong những năm tới là
phải phấn đấu tiếp tục làm giảm số chiếm dụng này xuống mức

thấp hơn nữa.
- Chỉ tiêu số 4 đã khẳng định rõ hơn những kết quả đạt được
trong công tác thu nộp BHXH thời gian qua, đó là tỷ lệ thu BHXH
từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động so
với tổng chi ngày càng tăng từ 34,2% của quý IV/1995 lên 70,5%
năm 2000. Điều đó nói lên rằng, công tác thu nộp BHXH đã góp
phần quan trọng vào việc hình thành được quỹ BHXH tập trung,
hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, làm giảm gánh nặng
cho Ngân sách Nhà nước trong việc chi trả các chế độ BHXH
đồng thời tạo điều kiền cho cơ quan BHXH Việt Nam chủ động
trong việc số tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng trong quỹ
BHXH vào đầu tư tăng trưởng quỹ. Số tiền này được hình thành
từ khoản chênh lệch thu - chi quỹ BHXH hàng năm thể hiện ở chỉ
tiêu số 5 và được phản ảnh rõ nét trong đồ thị dưới đây:
ĐỒ THỊ CHÊNH LỆCH THU – CHI QUỸ BHXH
(từ quý IV/1995 đến năm 2000)

353
2186.5
2852.1
3124.4
3245.6
3974.7
0
500
1000
1500
2000
2500
3000

3500
4000
IV/1995 1996 1997 1998 1999 2000

Số tiền
(T


đ

ng
)



66

Qua đồ thị chênh lệch thu - chi quỹ BHXH ở trên ta thấy, khoản
chênh lệch này tăng lên qua các năm từ 2.186,5 tỷ đồng năm 1996
lên 3.974,7 tỷ đồng năm 2000, tăng bình quân hàng năm là 447,1
tỷ đồng. Đây là kết quả rất đáng mừng trong thời kỳ đổi mới cơ
chế quản lý BHXH Việt Nam, nó đã tạo cho quỹ BHXH một
khoản tiền tạm thời nhàn rỗi ngày càng lớn, một phần trong đó sẽ
được đem vào đầu tư sinh lời và lại tạo ra một nguồn thu mới cho
quỹ BHXH.
Đạt được những kết quả trên trước hết là nhờ sự cố gắng nỗ
lực của công nhân viên chức toàn ngành, mà trước hết là những
người trực tiếp làm công tác thu nộp, ngoài ra còn do các nguyên
nhân chính sau đây:
- Chỉ thị 15/CP ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng

cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH đã có tác dụng tích
cực trong việc thúc đẩy sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính
quyền các cấp đối với công tác BHXH, đặc biệt là công tác thu. Ở
hầu hết các địa phương, việc thực hiện nghiêm túc trách nhiệm
đóng BHXH cho người lao động được quy định là một trong các
tiêu chuẩn cơ bản để xét danh hiệu Chi bộ, Đảng bộ trong sạch
vững mạnh và các hình thức khen thưởng khác.
- BHXH các tỉnh, thành phố đã kết hợp công tác giải quyết
chế độ, chính sách BHXH với công tác thu nộp theo nguyên tắc có
đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi BHXH, vì vậy đã làm
tăng thêm ý thức trách nhiệm của các đơn vị sử dụng lao động
trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH.
- Việc triển khai công tác cấp sổ BHXH nhằm ghi nhận quá
trình làm việc và đóng BHXH của người lao động đã tạo được
niềm tin cho người lao động, cũng thông qua công tác này BHXH
các tỉnh, thành phố đã phát hiện kịp thời các trường hợp khai
giảm số lao động và quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao động,
tạo điều kiện truy thu một số lượng lớn tiền đóng BHXH còn nợ
đọng hoặc bỏ sót.
Năm


67

- Công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra và thông tin
tuyên truyền đã được chú ý đẩy mạnh góp phần nâng cao hiệu quả
thu nộp và ý thức thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của người lao
động và người sử dụng lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác thu nộp BHXH
như đã nêu ở trên, trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn

chế cần khắc phục, cụ thể:
- Chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý toàn bộ số lao động
phải tham gia BHXH và nguồn thu theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian qua, tuy số người đóng BHXH có tăng hàng năm
nhưng so với tổng số lao động trong diện phải tham gia BHXH
theo quy định mới đạt 86%, riêng số lao động làm việc trong khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH mới đạt 40%, còn
một lực lượng lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kể cả người
lao động đang làm việc trong khu vực sản xuất nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp chưa được tham gia BHXH. Kết quả thu
BHXH mới chỉ đạt khoảng 90% so với tổng số phải thu, nhiều
doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn có hiện tượng khai giảm
quỹ tiền lương, số lao động tham gia BHXH và chốn nộp BHXH
dưới nhiều hình thức như: chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng
hoặc không ký hợp đồng lao động Điều đó cho thấy, mạng lưới
BHXH chưa vươn tới được toàn bộ số lao động trong toàn xã hội.
Vì vậy trong những năm tới, nước ta cần có nhưng giải pháp để
tăng nhanh số người tham gia đóng BHXH, nhằm đảm bảo quyền
lợi cho mọi người lao động.
- Mức thu BHXH ở nước ta còn thấp so với nhiều nước, cộng
với tình trạng nợ đọng tiền BHXH vẫn còn lớn, tính đến nay số nợ
đọng lên tới gần 490 tỷ đồng chiếm khoảng 10 - 11% so với tổng
số phải thu. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ làm nẩy sinh nhiều vấn
đề phức tạp và khó khăn, trước hết là thiếu nguồn chi trả cho
người hưởng BHXH, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người
lao động.


68


- Nhận thức về BHXH của mọi người dân nói chung và người
lao động nói riêng còn bị hạn chế, chưa thấy rõ bản chất ưu việt
của BHXH, còn có nhiều người nhầm lẫn giữa BHXH với BHTM.
- Trình độ của cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống
BHXH Việt Nam nói chung, cán bộ làm công tác thu nói riêng còn
bất cập; còn hạn chế cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn năng lực
công tác; chưa năng động, sáng tạo; còn làm việc theo lối hành
chính, chưa quen với cách làm việc như hoạt động của một ngành
dịch vụ; còn thiếu cán bộ nghiên cứu, đề xuất chính sách và hoạch
định chiến lược phát triển lâu dài, nên chưa đáp ứng kịp với tiến
trình đổi mới sự nghiệp BHXH.
- Chính sách BHXH trong thời gian qua còn thiếu đồng bộ,
thay đổi nhiều lần và vẫn còn một số nội dung chưa hợp lý cho
nên cần được tiếp tục nghiên cứu và xây dựng thành luật BHXH
để tập trung thống nhất quản lý nhằm tổ chức thực hiện có hiệu
quả.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn nghèo nàn và thiếu
thốn. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý trong lĩnh
vực này hiện nay chưa có, các công việc thuộc nghiệp vụ chủ yếu
vẫn làm thủ công là chính, máy vi tính được trang bị còn ít, các
công nghệ phần mềm đang còn trong giai đoạn nghiên cứu thử
nghiệm chưa được áp dụng rộng rãi.
- Hệ thống BHXH Việt Nam chưa có mối quan hế chặt chẽ
với các nước khác. Điều này làm hạn chế khả năng phát triển,
thiếu thông tin, khó khăn trong việc hiện đại hoá ngành.
3.2. Công tác đầu tư tăng trưởng quỹ
Mục tiêu hoạt động của quỹ là tự cân đối thu - chi do đó quỹ
BHXH luôn luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi trả cho
các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền
tồn tích này (lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng

trong quỹ BHXH) được phép đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH theo
quy định tại Mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg về


69

việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam,
như sau:
- Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân
hàng thương mại của Nhà nước.
- Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ Hỗ trợ Đầu tư
Quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Đầu tư vào một số dự án lớn và doanh nghiệp lớn của Nhà
nước có nhu cầu về vốn được Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Thực hiện Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998
của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt Nam về tiến hành các hoạt
động đầu tư tăng trưởng. Tính đến ngày 31/12/1999, BHXH Việt
Nam đã cho vay được 10.628.002 triệu đồng. Cụ thể như sau:

Bảng 7: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA QUỸ BHXH
(tính đến 31/12/1999)
STT

Đơn vị vay Số tiền
(triệu đồng)

Cơ cấu đầu

(%)
1 Ngân sách Nhà nước 1.087.636


10,2
2 Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc
gia
4.200.000

39,5
3 Ngân hàng đầu tư 2.000.000

18,8
4 Các ngân hàng thương mại 2.425.000

22,8
5 Mua tín phiếu, trái phiếu 915.366

8,7
Cộng 10.628.002

100,0
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng số liệu số 7 ta thấy, trong cơ cấu đầu tư vào các
lĩnh vực, đơn vị thì đầu tư vào Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia chiếm
tỷ trọng lớn nhất bằng 39,5% so với tổng số tiền đầu tư. Và phần
lớn các dự án đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH đều theo sự chỉ
định của Thủ tướng Chính phủ, kể cả tổng mức đầu tư, lãi suất,
thời hạn vay Vì vậy, mức lãi suất thực hiên thấp, bình quân chỉ
6- 7%/ năm, có năm thấp hơn cả tỷ lệ trượt giá (năm 1998 trượt


70


giá 9,2%/ năm). Tổng số tiền lãi thu được tính đến hết năm 1999
là: 1.351.488 triệu đồng. Với kết quả này, quỹ BHXH đã có tác
dụng tích cực góp phần vào việc phát triển các lĩnh vực kinh tế -
xã hội của đất nước.
Về sử dụng lãi đầu tư: Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày
26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ tiền sinh lời do hoạt
động đầu tư quỹ BHXH được phân bổ như sau:
- Được trích 50% trong 5 năm để bổ xung vốn đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất của toàn hệ thống BHXH.
- Trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 3 tháng lương
thực tế toàn ngành.
- Phần còn lại bổ xung vào quỹ BHXH để bảo toàn và tăng
trưởng quỹ.
Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt
Nam đã sử dụng tiền sinh lời do đầu tư tăng trưởng đúng mục đích
là xây dưng cơ sở vật chất của toàn ngành và trích lập quỹ phúc
lợi, quỹ khen thưởng. Ngoài các khoản chi trên, phần còn lại của
lợi nhuận đầu tư được nộp vào quỹ BHXH.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được của công tác đầu tư tăng
trưởng quỹ, trong thời gian qua cũng còn một số vấn đề tồn tại:
- Lãi suất đầu tư chưa hình thành và vận động theo quy luật
lãi suất của thị trường. Hầu hết lãi suất được hình thành theo sự
chỉ định của Chính phủ và thường là lãi suất thấp. Theo em để
đảm bảo việc đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả, vấn để đầu tư
quỹ nên phân ra 2 lĩnh vực như sau:
+ Nếu cho Ngân sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư
Quốc gia vay theo sự chỉ định của Chính phủ thì có thể thực hiện
lãi suất thấp, ưu đãi dưới mức cho vay trên thị trường. Vì Ngân
sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia vay không phải

là để kinh doanh, mà để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế
quốc dân, hoặc chi tiêu cho mục đích của Chính phủ.
+ Nếu cho các ngân hàng thương mại vay thì phải theo lãi
suất thị trường. Vì các ngân hàng thương mại vay là để kinh

×