Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Chế độ tưới cho lúa cấy ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.33 KB, 17 trang )

Chế độ tưới cho lúa cấy
- Thời kỳ mạ
Mạ có phẩm chất tốt sẽ tạo điều kiện cho lúa sinh
trưởng và phát triển thuận
lợi. Thời gian sinh trưởng của mạ không dài nhưng
cần được chăm sóc đúng kỹ
thuật mới có chất lượng tốt. Chế độ tưới nước cho mạ
phải xuất phát từ đặc điểm
sinh lý và điều kiện sinh sống của mạ trong những
mùa vụ khác nhau mà thay đổi,
đảm bảo điều khiển mạ có chất lượng tốt.
Cây mạ từ khi gieo đến có 3 lá chủ yếu sử dụng các
chất dinh dưỡng dự trữ
trong hạt lúa để xây dựng nên cơ thể của mình, chuẩn
bị cho giai đoạn tự dưỡng về
sau. Điều kiện cần thiết nhất cho sự sinh trưởng của
mạ ở thời kỳ này là nhiệt độ, độ
ẩm và ôxy. Có đủ 3 yếu tố này thì mạ có khả năng tận
dụng tốt các chất dự trữ trong
hạt lúa. Vì vậy, chế độ tưới trong thời kỳ này phải tạo
điều kiện để cung cấp tốt các
yếu tố đó. Muốn thế, phải gieo thành líp và cần giữ
mặt líp ẩm ướt bằng cách giữ
nước ngập trong các rãnh, mặt líp mạ ẩm ướt sẽ tạo
điều kiện để đất giữ nhiệt tốt,
biên độ nhiệt độ đất ngày đêm ít chênh lệch, đất
thoáng khí, đủ hàm lượng ôxy cần
thiết cho sự hô hấp của bộ rễ. Đất ẩm ướt cũng là
điều kiện để cung cấp kịp thời nhu
cầu nước cho mạ khi khả năng hút nước của bộ rễ
còn yếu. Ruộng mạ bị ngập nước


trong thời gian này sẽ làm cho bộ rễ phát triển kém
và mạ bị yếu, không thuận lợi
cho sự sinh trưởng của cây lúa ở giai đoạn sau. Tuy
vậy, tuỳ theo sự biến đổi của
thời tiết mà chế độ nước có thể bị thay đổi để giúp
cho mạ chống chịu được điều
kiện ngoại cảnh bất thuận.
Từ khi mạ có 3 lá thật trở về sau: cần giữ bảo hoà
nước hay có một lớp nước
nông 2 -3 cm để đất nhuyễn, bộ rễ lúa dễ phát triển
và hút thức ăn thuận lợi. Khi mạ
đã được 5 - 6 lá thì tuỳ tình hình sinh trưởng của
chúng và điều kiện thời tiết trong
từng vụ mà có biện pháp tưới nước khác nhau để
nâng cao phẩm chất mạ.
+ Đối với mạ chiêm: nếu gặp nhiệt độ cao, mạ sinh
trưởng nhanh dễ dẫn đến
hiện tượng mạ già, ống vì vậy lúc này cần rút nước
trong ruộng mạ để khống chế sự
sinh trưởng phát triển của chúng. Hiện tượng thiếu
nước sẽ ảnh hưởng đến sự hút
dinh dưỡng của bộ rễ, sinh trưởng bị đình trệ, cây
tích luỹ nhiều hydratcarbon làm
cho mạ cứng cây, đanh dảnh, phẩm chất tốt.
+ Đối với mạ mùa: cũng có thể sử dụng biện pháp rút
nước. Khi mạ có hiện
tượng bị lốp hoặc dinh dưỡng quá mạnh.
+ Đối với mạ Xuân: thường là giống có năng suất
cao, rất mẫn cảm với nước,
sau khi mạ được 3 lá nên giữ một lớp nước 2 -3 cm

trên mặt ruộng để mạ sinh
trưởng nhanh về chiều cao và tạo điều kiện cho bộ rễ
phát triển trên lớp đất màu,
không gây khó khăn cho công việc nhỗ mạ.
- Thời kỳ cây đẻ nhánh
Đây là thời kỳ quyết định số bông trên đơn vị diện
tích nhiều hay ít, chi phối
đến năng suất lúa sau này. Tạo điều kiện thuận lợi
nhất để lúa đẻ sớm và có tỷ lệ đẻ
nhánh hữu hiệu cao là yêu cầu của kỹ thuật thâm
canh lúa. Mức tưới ngập khác
nhau trong thời kỳ này có ảnh hưởng lớn đến quá
trình đẻ nhánh. Nhưng cả 3 vụ,
mức tưới từ 5 -10 cm là có lợi nhất cho lúa đẻ nhánh
và đạt dảnh hữu hiệu cao.
Không có lớp nước ngập hoặc mức nước sâu hơn đều
hạn chế khả năng đẻ nhánh và
thành bông về sau.
+ Đối với vụ chiêm và vụ Xuân: tưới mức nước nông
tốt hơn mức nước sâu. Ở
những ngày nhiệt độ thấp cần giữ một lớp nước từ 5 -
10 cm để tăng cường khả năng
chịu rét cho lúa.
+ Trong vụ mùa: mức tưới 10 cm có chiều hướng tốt
hơn so với các mức tưới
khác. Nguyên nhân là do điều kiện nhiệt độ và ánh
sáng. Vụ mùa thường gặp lúc
nhiệt độ không khí cao làm cho nhiệt độ đất vùng rễ
cao, vượt quá phạm vi nhiệt độ
giới hạn sinh lý nên đã ức chế quá trình hút dinh

dưỡng và sinh trưởng của lúa.
Ngược lại khi lớp nước sâu quá 15 cm lại làm giảm
cường độ ánh sáng chiếu vào
gốc lúa, làm cho khả năng đẻ nhánh bị đình trệ.
Mặt khác, ở mức tưới nông, độ dẫn điện của đất ở
vùng rễ và vùng ngoài
chênh lệch nhau ít hơn nên sự cung cấp chất dinh
dưỡng cho cây trồng tương đối
thuận lợi hơn ở mức nước sâu. Nhiệt độ thấp, ánh
sáng yếu thì ảnh hưởng xấu của
mức tưới sâu đến quá trình đẻ nhánh càng biểu hiện
rõ. Chính vì thế mà trong vụ
chiêm, vụ Xuân với mức nước tưới từ 10cm trở lên
đều làm giảm sức đẻ nhánh và
dãnh hữu hiệu.
- Thời kỳ cuối đẻ nhánh đến phân hoá đồng:
Gần đây, trong kỹ thuật trồng lúa ở nhiều nước trên
thế giới và nước ta đã chú
ý đến vấn đề dùng nước để điều tiết sự sinh trưởng,
phát triển của lúa. Qua kết quả
nghiên cứu của nhiều tác giả (Trần Hoa Niên - Trung
Quốc, Zamagiu - Nhật Bản. .
.) thì rút nước phơi ruộng ở cuối thời kỳ đẻ nhánh và
trước lúc phân hoá đồng lúa sẽ
cho năng suất cao hơn, khối lượng hạt cũng tăng lên.
Rút nước phơi ruộng có các
tác dụng sau:
+ Rút nước phơi ruộng dẫn đến cây lúa bị thiếu nước,
các hoạt động sinh lý,
trao đổi chất cũng như sinh trưởng thân lá, đẽ nhánh

đều bị kìm hãm so với lúa
không bị rút nước. Thời gian rút nước càng dài, sự
thiếu hụt nước bảo hoà càng lớn,
mức độ bị kìm hãm càng mạnh.
+ Trên ruộng bón nhiều phân hữu cơ hoặc ruộng giàu
mùn, bị ngập nước
thường xuyên, rút nước phơi ruộng tạo điều kiện
thuận lợi cho các quá trình phân
giải các chất hữu cơ của vi sinh vật háo khí. Sau khi
ngập nước trở lại, đất trở nên
giàu thức ăn dễ tiêu để cung cấp cho cây lúa ở thời kỳ
làm đòng, trổ bông. Vì vậy,
có thể xem rút nước phơi ruộng trên những chân
ruộng này là một biện pháp bón
thúc đòng cho lúa.
Từ đó cho thấy biện pháp rút nước phơi ruộng ở cuối
thời kỳ đẻ nhánh đến
phân hoá đồng chỉ nên áp dụng trong các trường hợp
sau:
+ Trên các chân ruộng trũng, nhiều chất hữu cơ hoặc
bón nhiều phân chuồng,
thường không chủ động khống chế được mực nước
tưới. Ruộng bị ngập nước sâu từ
- 20 cm trở lên.
+ Trên các chân ruộng lúa sinh trưởng quá tốt có
chiều hướng bị lốp (do bón
nhiều đạm), sinh trưởng lấn át phát dục có thể dẫn
đến làm bông, làm hạt kém hoặc
các loại nấm bệnh xâm nhập phá hại nghiêm khối
như: đạo ôn, bạc lá, khô đầu

lá…. trong những trường hợp mức độ nguy hại lớn
nếu cần thiết có thể phải rút
nước ở cả những thời kỳ quan khối khác.
Ngoài những trường hợp trên thì không nên rút nước
phơi ruộng, nhất là đối
các giống lúa có năng suất cao, chịu phân và có thời
gian sinh trưởng tương đối
ngắn.
- Thời kỳ làm đồng đến trổ bông
Ở thời kỳ này, nhu cầu nước của cây lúa rất cao.
Thiếu nước dù chỉ một thời
gian ngắn cũng làm giảm năng suất rõ rệt. Theo
nghiên cứu của bộ môn Thủy nông
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội: khi tưới lớp
nước sâu có khả năng hạn chế sự
đẽ nhánh vô hiệu.
+ Lớp nước 10 - 15 cm đến 20 - 25 cm, lúa mùa trổ
bông sớm hơn 2 - 3 ngày
và thời gian trổ bông cũng rút ngắn được 2 - 3 ngày
so với lớp nước tưới nông hơn.
+ Lúa chiêm, Xuân khi mức tưới sâu 22 – 25 cm thời
gian trổ bông lại kéo dài
hơn.
Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do đặc tính
đẻ nhánh không tập
trung trong điều kiện nhiệt độ thấp của thời tiết. Khi
ngập nước sâu, sinh trưởng
phát dục của một số dảnh lúa đẻ sau có khả năng
thành bông bị kìm hãm. Lớp nước
sâu các đốt sâu ở phía gốc kéo dài hơn, cây vươn cao.

Không có lớp nước hoặc có
lớp nước nông nhánh vô hiệu kéo dài thời gian sinh
trưởng, luá trổ bông chậm và
thời gian trổ bông kéo dài hơn.
+ Mức nước tưới khác nhau cũng dẫn đến khả năng
tích luỹ chất khô giảm.
Không có lớp nước trên ruộng, khối lượng khô và
bông hạt đều giảm rõ rệt so với
có lớp nước. Điều này chứng tỏ ở thời kỳ làm đòng
lớp nước trên mặt ruộng là cần
thiết cho quá trình dinh dưỡng và tích luỹ chất khô.
Mức nước tưới 25 cm, khối
lượng khô của thân lá, bông hạt bắt đầu giảm sút.
+ Mức nước tưới khác nhau ở thời kỳ này còn dẫn
đến sự tích luỹ các chất
đạm, lân, kali trong các bộ phận của cây lúa thay đổi.
Không có lớp nước, hàm
lượng đạm, lân tổng số trong thân thấp, trong lá đòng
cao nhưng trong bông, hạt lại
thấp. Có thể do sự thiếu nước đã ảnh hưởng đến sự
hút dinh dưỡng, sự vận chuyển
các chất dự trữ từ lá vào bông, hạt. Mức nước tưới 25
cm hàm lượng lân tổng số
trong các bộ phận giảm, nhất là ở lá đòng và bông,
hạt. Ở mức tưới 10 - 15 cm hàm
lượng lân trong lá đòng, đạm, lân trong bông, hạt có
chiều hướng cao hơn và hàm
lượng đạm trong lá đòng lại giảm.
+ Sự khác nhau về mức nước tưới ở thời kỳ này đã
dẫn đến sự chênh lệch về

năng suất hạt lúc chín. Mức nước 20 - 25 cm, số hạt
trên bông ít, khối lượng hạt và
năng suất thấp, do mức nước sâu đã ảnh hưởng đến
sự phân hoá đòng và tập trung
chất dinh dưỡng sau này vào bông, hạt. Không có lớp
nước, khối lượng hạt giảm.
Mức nước 5 - 15 cm lúa có số bông nhiều. Đối với
mức nước 10 - 15 cm số hạt trên
bông lớn, khối lượng 1000 hạt cao dẫn đến năng suất
cao.
- Thời kỳ trổ đến chín
Sau khi lúa trổ bông, các sản phẩm quang hợp tích
luỹ ở thân lá được chuyển
vào bông hạt. Vì vậy, ở thời kỳ này cây thiếu nước sẽ
ảnh hưởng lớn đến độ mẩy
của hạt và khối lượng hạt, năng suất giảm. Nhưng
nếu giữ nước dài thì lúa chín
chậm, hàm lượng nước trong hạt cao và chất lượng
hạt kém. Vậy rút nước vào lúc
nào để lúa tích luỹ chất dinh dưỡng vào hạt tốt nhất,
chín sớm, thuận lợi cho công
tác thu hoạch trên đồng ruộng và chuẩn bị làm đất vụ
sau là một vấn đề có ý nghĩa
lớn trong sản xuất.
Rút nước sớm hay muộn trong thời kỳ này phụ thuộc
vào điều kiện thời tiết,
khả năng giữ ẩm của đất và đặc tính của các giống
lúa khác nhau.
+ Rút nước lúc chín sữa thì hàm lượng đạm, lân, kali
trong thân lá, hạt đều

thấp do lúc này cây vẫn còn hút các chất dinh dưỡng.
+ Rút nước lúc chín sáp gây trở ngại cho sự vận
chuyển các chất đạm, lân, kali
từ thân lá vào hạt.
+ Rút nước lúc lúa cứng hạt đối với lúa chiêm vẫn
làm giảm khả năng vận
chuyển đạm từ lá đòng vào hạt. Đối với lúa mùa rút
nước lúc này hàm lượng đạm,
lân, kali trong hạt đạt trị số cao nhất.
+ Giữ lớp nước trên ruộng cho tới lúc chín hẳn: đối
với lúa chiêm thì hàm
lượng đạm, lân, kali trong lá cao nhất. Đối với lúa
mùa vẫn đạt cao nhất nhưng khối
lượng hạt lại giảm hơn so với với rút nước lúc cứng
hạt.
Về các yếu tố năng suất cũng cho thấy rõ là đối với
lúa chiêm rút nước trước
lúc chín hẳn đều làm tăng số hạt lép, giảm khối lượng
1000 hạt và dẫn đến giảm
năng suất từ 6,3 – 18 %. Đối với lúa mùa, rút nước
lúc lúa cứng hạt không ảnh
hưởng gì đến năng suất, rút nước lúc chín sữa, chín
sáp giảm 2 – 11 % năng suất.

×